1. Tổng quan
Hà Lan là một quốc gia ở Tây Bắc Âu, nổi tiếng với địa hình thấp và bằng phẳng, hệ thống đê điều phức tạp, cối xay gió và hoa tulip. Lịch sử của Hà Lan ghi dấu ấn với Thời kỳ Hoàng kim vào thế kỷ 17, khi quốc gia này trở thành một cường quốc hàng hải, thương mại và nghệ thuật thế giới, nhưng cũng gắn liền với quá trình thuộc địa hóa gây nhiều tranh cãi, với những tác động sâu sắc đến các dân tộc bị trị và đòi hỏi sự nhìn nhận trách nhiệm lịch sử. Về chính trị, Hà Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến theo chế độ dân chủ đại nghị, nổi bật với truyền thống khoan dung xã hội, đi đầu trong các vấn đề như quyền LGBT, trợ tử và chính sách ma túy tự do, thể hiện cam kết với quyền con người và tự do cá nhân. Kinh tế Hà Lan phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại, nông nghiệp công nghệ cao và dịch vụ, đồng thời ngày càng chú trọng đến các khía cạnh công bằng xã hội và phát triển bền vững. Xã hội Hà Lan đa văn hóa, với hệ thống phúc lợi và giáo dục phát triển, tuy nhiên cũng đối mặt với những thách thức về hội nhập, bình đẳng và chống phân biệt đối xử. Văn hóa Hà Lan phong phú, với những đóng góp quan trọng cho nghệ thuật, triết học và khoa học thế giới, đồng thời duy trì các truyền thống độc đáo.
2. Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi NederlandDutch trong tiếng Hà Lan có nghĩa là "vùng đất thấp", phản ánh đặc điểm địa lý của quốc gia này với phần lớn diện tích nằm thấp hơn hoặc ngang bằng mực nước biển. Tên gọi này trong các tài liệu chính thức tiếng Hà Lan đương đại là Neder-landenDutch. Các Công tước xứ Bourgogne cai trị Vùng đất thấp vào thế kỷ 15 đã sử dụng thuật ngữ les pays de par deçàFrench ("vùng đất ở đây") để chỉ Vùng đất thấp, đối lập với les pays de par delàFrench ("vùng đất ở đằng kia") để chỉ quê hương của họ là Bourgogne ở miền trung-đông nước Pháp ngày nay. Dưới thời nhà Habsburg, Les pays de par deçà phát triển thành pays d'embasFrench ("vùng đất phía dưới"), một thuật ngữ chỉ mối quan hệ với các lãnh địa khác của gia tộc này ở châu Âu. Từ quan điểm khu vực, Niderlant cũng là khu vực giữa sông Meuse và hạ lưu sông Rhine vào cuối thời Trung Cổ.
Thuật ngữ Holland cũng thường được sử dụng một cách không chính thức để chỉ toàn bộ đất nước Hà Lan hiện đại trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả tiếng Hà Lan và tiếng Anh. Tuy nhiên, Holland thực chất chỉ là một vùng trong Hà Lan bao gồm hai tỉnh Bắc Holland và Nam Holland. Trước đây, hai tỉnh này là một tỉnh duy nhất, và xa hơn nữa là Bá quốc Holland, bao gồm cả một phần của tỉnh Utrecht ngày nay. Sự nổi bật của Holland trong quá trình hình thành Cộng hòa Hà Lan, Chiến tranh Tám mươi Năm và các cuộc Chiến tranh Anh-Hà Lan vào các thế kỷ 16, 17 và 18 đã khiến Holland trở thành một pars pro toto (lấy một phần để chỉ toàn bộ) cho cả đất nước. Nhiều người Hà Lan, đặc biệt là những người ở các vùng khác ngoài Holland, phản đối việc gọi đất nước là Holland thay vì Nederland, tương tự như nhiều người Wales hoặc Scotland phản đối việc gọi Vương quốc Anh là Anh. Kể từ năm 2019, chính phủ Hà Lan chính thức ưu tiên sử dụng Nederland thay vì Holland khi nói về đất nước.
Thuật ngữ Dutch trong tiếng Anh dùng để chỉ tính từ và người dân Hà Lan. Nguồn gốc của từ này bắt nguồn từ tiếng German nguyên thủy *þiudiskaz, được La tinh hóa thành Theodiscus, có nghĩa là "thuộc về nhân dân" hoặc "của nhân dân", tương tự như tiếng Hà Lan cổ Dietsch hoặc tiếng Anh cổ þeodisc, nghĩa là "(thuộc về) người dân (German) thông thường". Ban đầu, tiếng Anh sử dụng Dutch để chỉ bất kỳ hoặc tất cả những người nói các ngôn ngữ Tây German. Dần dần, ý nghĩa của nó chuyển sang chỉ những người Tây German mà họ có tiếp xúc nhiều nhất.
Trong tiếng Việt, tên gọi Hà Lan bắt nguồn từ tiếng Trung. Trước đó, toàn thể Nederland thường được gọi bằng định danh "Holland". Bằng tiếng Trung, "Holland" được người Trung Quốc phiên âm là "Hé lán" và viết bằng chữ Hán là 荷蘭 (Hà Lan) hoặc 和蘭 (Hòa Lan). Hiện nay "Hà Lan" (荷蘭) được dùng phổ biến hơn ở cả tiếng Việt và tiếng Trung.
3. Lịch sử
Lịch sử khu vực Hà Lan kéo dài từ thời tiền sử, qua các giai đoạn chịu ảnh hưởng của các nền văn minh lớn, đến sự hình thành một quốc gia độc lập và cường thịnh, rồi trải qua các cuộc chiến tranh thế giới và quá trình tái thiết, phi thực dân hóa để trở thành một quốc gia Hà Lan hiện đại. Diễn biến lịch sử này bao gồm nhiều sự kiện phức tạp, với những nguyên nhân, bối cảnh và hậu quả đa dạng, tác động sâu sắc đến các nhóm dân cư khác nhau, đặc biệt là trong các vấn đề thuộc địa và xung đột, phản ánh những thách thức trong việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ.
3.1. Tiền sử và Cổ đại


Dấu vết cổ nhất của con người (loài người Neanderthal) ở Hà Lan, được cho là khoảng 250.000 năm tuổi, đã được tìm thấy gần Maastricht. Vào cuối kỷ băng hà Weichsel, những người du mục thuộc văn hóa Hamburg (13.000-10.000 TCN) thuộc thời kỳ đồ đá cũ muộn đã săn tuần lộc trong khu vực bằng giáo. Văn hóa Ahrensburg sau đó (11.200-9.500 TCN) đã sử dụng cung tên. Từ các bộ lạc giống văn hóa Maglemosian thuộc thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 8000 TCN), chiếc xuồng cổ nhất thế giới đã được tìm thấy ở Drenthe.
Những người săn bắt hái lượm bản địa thuộc văn hóa Swifterbant (khoảng 5600 TCN), có liên quan đến văn hóa Ertebølle ở miền nam Scandinavia, có mối liên hệ chặt chẽ với các con sông và vùng nước mở. Từ năm 4800 đến 4500 TCN, người Swifterbant bắt đầu tiếp thu nghề chăn nuôi từ văn hóa Linear Pottery láng giềng, và từ năm 4300 đến 4000 TCN là nghề nông nghiệp. Văn hóa Funnelbeaker (4300-2800 TCN) đã xây dựng các dolmen, những công trình mộ đá lớn được tìm thấy ở Drenthe. Có một sự chuyển đổi nhanh chóng từ văn hóa nông nghiệp Funnelbeaker sang văn hóa chăn nuôi gia súc văn hóa Corded Ware lan rộng khắp châu Âu (khoảng 2950 TCN). Ở phía tây nam, văn hóa Seine-Oise-Marne-liên quan đến văn hóa Vlaardingen (khoảng 2600 TCN)-tồn tại tốt vào thời đại đồ đá mới, cho đến khi nó cũng bị thay thế bởi văn hóa Corded Ware.
Văn hóa Bell Beaker tiếp theo (2700-2100 TCN) đã du nhập nghề luyện kim đồng, vàng và sau đó là đồng điếu, đồng thời mở ra các tuyến thương mại quốc tế mới, được phản ánh qua các đồ tạo tác bằng đồng. Việc tìm thấy các đồ vật bằng đồng quý hiếm cho thấy Drenthe là một trung tâm thương mại trong thời đại đồ đồng (2000-800 TCN). Văn hóa Bell Beaker đã phát triển tại địa phương thành văn hóa Barbed-Wire Beaker (2100-1800 TCN) và sau đó là văn hóa Elp (1800-800 TCN), một nền văn hóa thời kỳ đồ đồng giữa được đánh dấu bằng đồ gốm đất nung. Vùng phía nam bị chi phối bởi văn hóa Hilversum liên quan (1800-800 TCN).
Từ năm 800 TCN trở đi, văn hóa Hallstatt của người Celt thuộc thời đại đồ sắt trở nên có ảnh hưởng, thay thế văn hóa Hilversum. Quặng sắt mang lại sự thịnh vượng và có sẵn trên khắp đất nước. Các thợ rèn đi từ khu định cư này sang khu định cư khác với đồng và sắt, chế tạo công cụ theo yêu cầu. Ngôi mộ của Vua ở Oss (700 TCN) được tìm thấy trong một gò mộ, là loại lớn nhất ở Tây Âu.
Sự suy giảm khí hậu ở Scandinavia từ năm 850 TCN đến 650 TCN có thể đã gây ra sự di cư của các bộ lạc German từ phía Bắc. Vào thời điểm cuộc di cư này hoàn thành, khoảng năm 250 TCN, một vài nhóm văn hóa và ngôn ngữ chung đã xuất hiện. Người Ingaevones thuộc nhóm German Biển Bắc sinh sống ở phần phía bắc của Vùng đất thấp. Sau này họ sẽ phát triển thành người Frisia và người Sachsen sơ khai. Người German Weser-Rhine (hay Istvaeones) mở rộng dọc theo trung lưu sông Rhine và Weser và sinh sống ở Vùng đất thấp phía nam các con sông lớn. Các bộ lạc này cuối cùng sẽ phát triển thành người Frank Salian. Văn hóa La Tène của người Celt (khoảng 450 TCN đến khi bị La Mã chinh phục) mở rộng trên một phạm vi rộng, bao gồm cả khu vực phía nam của Vùng đất thấp. Một số học giả đã suy đoán rằng ngay cả một bản sắc dân tộc và ngôn ngữ thứ ba, không phải German cũng không phải Celt, đã tồn tại ở Hà Lan cho đến thời kỳ La Mã, đó là văn hóa Nordwestblock.
Nhà địa lý học Pytheas là tác giả đầu tiên mô tả bờ biển của Holland và Flanders vào khoảng năm 325 TCN, ông ghi nhận rằng ở những vùng này, "nhiều người chết trong cuộc đấu tranh chống lại nước hơn là trong cuộc đấu tranh chống lại con người." Trong Chiến tranh Gallia, khu vực phía nam và phía tây sông Rhine đã bị quân đội Đế quốc La Mã dưới sự chỉ huy của Julius Caesar chinh phục từ năm 57 TCN đến 53 TCN. Caesar mô tả hai bộ lạc Celt chính sống ở khu vực ngày nay là miền nam Hà Lan: người Menapii và người Eburones. Dưới thời Augustus, Đế quốc La Mã đã chinh phục toàn bộ lãnh thổ Hà Lan ngày nay, sáp nhập vào tỉnh Germania Antiqua vào năm 7 TCN, nhưng đã bị đẩy lùi qua sông Rhine sau Trận rừng Teutoburg vào năm 9 CN, với sông Rhine trở thành biên giới phía bắc cố định của La Mã vào khoảng năm 12 CN. Các thị trấn đáng chú ý đã mọc lên dọc theo Limes Germanicus: Nijmegen và Voorburg. Ở phần đầu tiên của Gallia Belgica, khu vực phía nam Limes trở thành một phần của tỉnh La Mã Germania Inferior. Khu vực phía bắc sông Rhine, nơi sinh sống của người Frisii, vẫn nằm ngoài sự cai trị của La Mã, trong khi các bộ lạc German ở biên giới là Batavi và Cananefates phục vụ trong kỵ binh La Mã. Người Batavi đã nổi dậy chống lại người La Mã trong Cuộc nổi dậy của người Batavi năm 69 CN nhưng cuối cùng đã bị đánh bại. Người Batavi sau đó hợp nhất với các bộ lạc khác vào liên minh người Frank Salian, bản sắc của họ xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ thứ ba. Người Frank Salian xuất hiện trong các văn bản La Mã vừa là đồng minh vừa là kẻ thù. Họ bị liên minh người Sachsen từ phía đông buộc phải di chuyển qua sông Rhine vào lãnh thổ La Mã vào thế kỷ thứ tư. Từ căn cứ mới của họ ở Tây Flanders và Tây Nam Hà Lan, họ đã đột kích Eo biển Manche. Lực lượng La Mã đã bình định khu vực nhưng không trục xuất người Frank, những người này tiếp tục bị e sợ ít nhất cho đến thời Julianus Kẻ bội giáo (năm 358) khi người Frank Salian được phép định cư với tư cách là foederati ở Toxandria.
3.2. Trung Cổ
Sau khi chính quyền Đế quốc La Mã trong khu vực sụp đổ vào khoảng năm 406, người Frank đã mở rộng lãnh thổ của họ thành nhiều vương quốc. Đến những năm 490, Clovis I đã chinh phục và thống nhất tất cả các lãnh thổ này ở miền nam Hà Lan thành một Vương quốc Frank, và từ đó tiếp tục các cuộc chinh phạt vào Gaul. Trong quá trình mở rộng này, những người Frank di cư về phía nam (lãnh thổ Pháp và vùng Walloon của Bỉ ngày nay) cuối cùng đã tiếp nhận tiếng Latinh thông tục của dân cư địa phương. Một sự chia rẽ văn hóa ngày càng lớn dần với những người Frank còn lại ở quê hương ban đầu của họ ở phía bắc (tức là miền nam Hà Lan và Flanders), những người tiếp tục nói tiếng Frank cổ, mà đến thế kỷ thứ chín đã phát triển thành tiếng Hạ Franconia cổ hoặc tiếng Hà Lan cổ. Do đó, một ranh giới ngôn ngữ Hà Lan-Pháp đã hình thành.
Ở phía bắc của người Frank, điều kiện khí hậu được cải thiện, và trong Thời kỳ Di cư, người Sachsen, người Angle, người Jute và người Frisia có quan hệ mật thiết đã định cư ven biển. Nhiều người đã chuyển đến Anh và được gọi là người Anglo-Saxon, nhưng những người ở lại sẽ được gọi là người Frisia và ngôn ngữ của họ là tiếng Frisia. Tiếng Frisia được nói dọc theo toàn bộ bờ biển phía nam Biển Bắc. Đến thế kỷ thứ bảy, một Vương quốc Frisia (650-734) dưới thời Vua Aldegisel và Vua Redbad đã nổi lên với Traiectum (Utrecht) làm trung tâm quyền lực, trong khi Dorestad là một nơi giao thương thịnh vượng. Từ năm 600 đến khoảng năm 719, các thành phố thường xuyên bị tranh giành giữa người Frisia và người Frank. Năm 734, tại Trận Boarn, người Frisia đã bị đánh bại sau một loạt các cuộc chiến tranh. Với sự chấp thuận của người Frank, nhà truyền giáo người Anglo-Saxon Willibrord đã cải đạo cho người Frisia sang Kitô giáo và thành lập Tổng giáo phận Utrecht. Tuy nhiên, người kế vị ông là Boniface đã bị người Frisia sát hại vào năm 754.

Đế quốc Caroling của người Frank kiểm soát phần lớn Tây Âu. Năm 843, nó được chia thành ba phần-Đông Francia, Trung Francia và Tây Francia. Hầu hết lãnh thổ Hà Lan ngày nay trở thành một phần của Trung Francia, một vương quốc yếu và phải chịu nhiều sự chia cắt và nỗ lực sáp nhập của các nước láng giềng mạnh hơn. Nó bao gồm các lãnh thổ từ Frisia ở phía bắc đến Vương quốc Ý ở phía nam. Khoảng năm 850, Lothair I của Trung Francia đã công nhận thủ lĩnh Viking Rorik của Dorestad là người cai trị hầu hết Frisia. Khi vương quốc Trung Francia bị chia cắt vào năm 855, các vùng đất phía bắc dãy Alps được giao cho Lothair II của Lotharingia và sau đó được đặt tên là Lotharingia. Sau khi ông qua đời vào năm 869, Lotharingia bị chia cắt thành Thượng Lotharingia và Hạ Lotharingia, trong đó Hạ Lotharingia bao gồm Vùng đất thấp và trở thành một phần của Đông Francia vào năm 870. Khoảng năm 879, một cuộc viễn chinh Viking khác do Godfrid, Công tước Frisia lãnh đạo đã cướp phá các vùng đất Frisia. Sự kháng cự chống lại người Viking, nếu có, đến từ các quý tộc địa phương, những người này nhờ đó mà giành được uy thế, và điều đó đã đặt nền móng cho sự tan rã của Hạ Lotharingia thành các quốc gia bán độc lập. Một trong những quý tộc địa phương này là Gerolf của Holland, người đã nắm quyền lãnh chúa ở Frisia, và sự cai trị của người Viking đã chấm dứt.

Đế quốc La Mã Thần thánh cai trị phần lớn Vùng đất thấp trong thế kỷ 10 và 11 nhưng không thể duy trì sự thống nhất chính trị. Các quý tộc địa phương hùng mạnh đã biến các thành phố, bá quốc và công quốc của họ thành các vương quốc riêng biệt, ít cảm thấy có nghĩa vụ với hoàng đế. Bá quốc Holland, Bá quốc Hainaut, Bá quốc Flanders, Công quốc Gelre, Công quốc Brabant và Giáo phận vương quyền Utrecht gần như liên tục trong tình trạng chiến tranh hoặc nghịch lý là lại hình thành các liên minh cá nhân. Khi người Frank định cư tiến từ Flanders và Brabant, khu vực này nhanh chóng trở thành vùng nói tiếng Hạ Franconia cổ (hay tiếng Hà Lan cổ).
Khoảng năm 1000 CN, điều kiện nông nghiệp bắt đầu cải thiện, dẫn đến gia tăng dân số, nông dân khai hoang đất hoang và thương mại, công nghiệp tăng trưởng ổn định. Các thị trấn mọc lên xung quanh các tu viện và lâu đài, và một tầng lớp trung lưu buôn bán bắt đầu phát triển ở các khu vực đô thị này, đặc biệt là ở Flanders, và sau đó là Brabant. Các thành phố giàu có bắt đầu mua một số đặc quyền nhất định cho mình từ các vị quân chủ.
Khoảng năm 1100 CN, nông dân từ Bá quốc Flanders và Giáo phận vương quyền Utrecht bắt đầu tiêu nước và canh tác đất đầm lầy không có người ở ở miền tây Hà Lan, tạo điều kiện cho sự nổi lên của Bá quốc Holland như một trung tâm quyền lực. Tước vị Bá tước Holland đã bị tranh giành trong Chiến tranh Hook và Cod từ năm 1350 đến 1490. Phe Cod bao gồm các thành phố tiến bộ hơn, trong khi phe Hook bao gồm các quý tộc bảo thủ. Những quý tộc này đã mời Công tước Philip le Bon của Bourgogne chinh phục Holland.
3.3. Thời kỳ Bourgogne, Habsburg và Tây Ban Nha

Hầu hết các thái ấp thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp thời Trung Cổ ở khu vực ngày nay là Hà Lan và Bỉ đã được Philip le Bon thống nhất thành một liên minh cá nhân vào năm 1433. Nhà Valois-Bourgogne và những người thừa kế Nhà Habsburg của họ sẽ cai trị Vùng đất thấp từ năm 1384 đến 1581. Các nhà cai trị mới bảo vệ lợi ích thương mại của Hà Lan. Hạm đội của Bá quốc Holland đã nhiều lần đánh bại hạm đội của Liên minh Hanse. Amsterdam phát triển và vào thế kỷ 15 trở thành cảng thương mại chính ở châu Âu cho ngũ cốc từ vùng Baltic. Amsterdam phân phối ngũ cốc đến các thành phố lớn của Bỉ, miền Bắc Pháp và Anh. Thương mại này rất quan trọng vì Holland không còn có thể sản xuất đủ ngũ cốc để tự nuôi sống mình. Việc tiêu nước đất đã làm cho than bùn của các vùng đất ngập nước trước đây giảm xuống mức quá thấp để duy trì việc tiêu nước.

Dưới thời Karl V của nhà Habsburg, tất cả các thái ấp trong vùng Hà Lan hiện tại đã được thống nhất thành Mười bảy tỉnh, bao gồm hầu hết Bỉ, Luxembourg ngày nay và một phần của Pháp và Đức. Năm 1568, dưới thời Phillip II, Chiến tranh Tám mươi Năm giữa các Tỉnh và người cai trị Tây Ban Nha của họ bắt đầu. Mức độ tàn bạo của cả hai bên có thể được thấy qua một báo cáo của một nhà biên niên sử Hà Lan:
Nhiều lần người ta thấy những người đàn ông treo cổ chính anh em của mình, những người bị bắt làm tù binh trong hàng ngũ của kẻ thù... Một người Tây Ban Nha không còn là con người trong mắt họ nữa. Có một lần, một bác sĩ phẫu thuật ở Veer đã cắt trái tim của một tù nhân Tây Ban Nha, đóng nó lên mũi tàu, và mời dân làng đến cắn vào đó, điều mà nhiều người đã làm với sự thỏa mãn man rợ.
Công tước Alba đã cố gắng đàn áp phong trào Tin Lành ở Hà Lan. Người Hà Lan bị "thiêu sống, siết cổ, chặt đầu, hoặc chôn sống" bởi "Hội đồng Máu" của ông và lính Tây Ban Nha. Xác chết được trưng bày dọc các con đường để khủng bố dân chúng phải quy phục. Alba khoe khoang đã xử tử 18.600 người; con số này không bao gồm những người chết vì chiến tranh và nạn đói.
Cuộc bao vây lớn đầu tiên là nỗ lực của Alba nhằm chiếm Haarlem và qua đó chia cắt Holland làm đôi. Nó kéo dài từ tháng 12 năm 1572 đến mùa hè năm sau, khi người Haarlem cuối cùng đầu hàng vào ngày 13 tháng 7 với lời hứa rằng thành phố sẽ không bị cướp phá. Đó là một điều khoản mà Don Fadrique không thể giữ lời, khi binh lính của ông nổi loạn, tức giận vì tiền lương bị nợ và điều kiện tồi tệ của chiến dịch. Vào ngày 4 tháng 11 năm 1576, các tercio Tây Ban Nha đã chiếm Antwerp và thực hiện cuộc cướp phá tồi tệ nhất trong lịch sử Hà Lan. Các công dân đã kháng cự nhưng bị áp đảo; bảy nghìn người bị giết và một nghìn tòa nhà bị đốt cháy.
Sau Cướp phá Antwerp, các đại biểu từ Brabant Công giáo, Holland và Zeeland Tin Lành đã đồng ý tham gia cùng Utrecht và William Trầm lặng để đánh đuổi quân Tây Ban Nha và thành lập một chính phủ mới cho Hà Lan. Don Juan của Áo, thống đốc mới của Tây Ban Nha, ban đầu buộc phải nhượng bộ, nhưng trong vòng vài tháng đã quay lại các hành động thù địch. Người Hà Lan tìm kiếm sự giúp đỡ từ Elizabeth I Tin Lành của Anh, nhưng bà ban đầu vẫn giữ cam kết với người Tây Ban Nha trong Hiệp ước Bristol năm 1574. Khi trận chiến quy mô lớn tiếp theo xảy ra tại Gembloux năm 1578, quân Tây Ban Nha đã dễ dàng chiến thắng. Trước thất bại tại Gembloux, các bang miền nam của Mười bảy tỉnh đã tách khỏi quân nổi dậy ở miền bắc bằng Liên minh Arras năm 1579. Đối đầu với họ, nửa phía bắc của Mười bảy tỉnh đã thành lập Liên minh Utrecht, trong đó họ cam kết hỗ trợ lẫn nhau chống lại người Tây Ban Nha. Liên minh Utrecht được coi là nền tảng của Hà Lan hiện đại.

Quân đội Tây Ban Nha đã cướp phá Maastricht vào năm 1579, giết chết hơn 10.000 dân thường. Năm 1581, các tỉnh phía bắc đã thông qua Đạo luật Khước từ, tuyên ngôn độc lập trong đó các tỉnh chính thức phế truất Philip II. Để chống lại quân nổi dậy, Philip có thể huy động các nguồn lực của Đế quốc Tây Ban Nha. Elizabeth I đồng cảm với cuộc đấu tranh của Hà Lan và đã gửi một đội quân gồm 7.600 binh sĩ để hỗ trợ họ. Lực lượng Anh đối đầu với quân Tây Ban Nha ở Hà Lan dưới sự chỉ huy của Công tước Parma trong một loạt các hành động phần lớn bất phân thắng bại, trói chân một số lượng đáng kể quân Tây Bananha và giành thời gian cho Hà Lan tổ chức lại phòng thủ. Chiến tranh tiếp diễn cho đến năm 1648, khi Tây Ban Nha dưới thời Vua Felipe IV của Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của bảy tỉnh tây bắc trong Hòa ước Münster. Một phần các tỉnh phía nam trên thực tế đã trở thành thuộc địa của đế quốc cộng hòa-thương mại mới.
3.4. Cộng hòa Hà Lan và Thời kỳ Hoàng kim

Sau tuyên ngôn độc lập, các tỉnh Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel và Gelderland đã thành lập một liên bang. Tất cả các công quốc, lãnh địa và bá quốc này đều có mức độ tự trị đáng kể và được cai quản bởi cơ quan hành chính riêng gọi là Hội đồng tỉnh. Chính phủ liên bang, được gọi là Nghị viện Liên bang, đặt trụ sở tại Den Haag và bao gồm các đại biểu từ mỗi trong số bảy tỉnh. Vùng Drenthe dân cư thưa thớt là một phần của nước cộng hòa, mặc dù không được coi là một tỉnh riêng. Hơn nữa, trong Chiến tranh Tám mươi Năm, Cộng hòa đã chiếm đóng một số Vùng đất Chung nằm ở Flanders, Brabant và Limburg. Những khu vực này chủ yếu có dân cư là người Công giáo La Mã và không có cơ cấu chính phủ riêng biệt. Chúng được sử dụng làm vùng đệm giữa Cộng hòa và Miền Nam Hà Lan do Tây Ban Nha kiểm soát.


Trong Thời kỳ Hoàng kim Hà Lan, kéo dài phần lớn thế kỷ 17, Đế quốc Hà Lan đã phát triển thành một trong những cường quốc hàng hải và kinh tế lớn. Khoa học, quân sự và nghệ thuật (đặc biệt là hội họa) nằm trong số những lĩnh vực được ca ngợi nhất trên thế giới. Đến năm 1650, người Hà Lan sở hữu 16.000 tàu buôn. Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và Công ty Tây Ấn Hà Lan (GWC) đã thành lập các thuộc địa và trạm thông thương trên khắp thế giới. Khu định cư Hà Lan ở Bắc Mỹ bắt đầu với việc thành lập Tân Amsterdam vào năm 1614. Ở Nam Phi, người Hà Lan định cư tại Thuộc địa Cape vào năm 1652. Các thuộc địa của Hà Lan ở Nam Mỹ được thành lập dọc theo nhiều con sông ở vùng đồng bằng Guyana màu mỡ, trong số đó có Thuộc địa Surinam (nay là Suriname). Ở châu Á, người Hà Lan đã thiết lập sự hiện diện ở Ấn Độ, Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia), Formosa (nay là Đài Loan), và trạm thương mại phương Tây duy nhất ở Nhật Bản, Dejima. Trong thời kỳ tiền công nghiệp hóa, đế quốc này đã nhận 50% hàng dệt may và 80% lụa nhập khẩu từ Đế quốc Mogul của Ấn Độ. Nhiều nhà sử học kinh tế coi Hà Lan là quốc gia tư bản chủ nghĩa hoàn toàn đầu tiên. Ở châu Âu cận đại, Hà Lan có thành phố thương mại giàu có nhất là Amsterdam, và sở giao dịch chứng khoán toàn thời gian đầu tiên là Euronext Amsterdam. Sự sáng tạo của các thương nhân đã dẫn đến các quỹ bảo hiểm và hưu trí cũng như các hiện tượng như chu kỳ bùng nổ-suy thoái, bong bóng lạm phát tài sản đầu tiên trên thế giới, hội chứng hoa tulip năm 1636-1637, và nhà đầu cơ giá xuống đầu tiên trên thế giới, Isaac le Maire. Năm 1672 - được biết đến trong lịch sử Hà Lan là Rampjaar (Năm Thảm họa) - Cộng hòa Hà Lan bị Pháp, Anh và ba Giáo phận Đức tấn công cùng một lúc, trong một cuộc chiến sau này được gọi là Chiến tranh Pháp-Hà Lan. Trên biển, Hà Lan đã thành công trong việc ngăn chặn hải quân Anh và Pháp phong tỏa bờ biển phía tây. Tuy nhiên, trên đất liền, Hà Lan gần như bị quân đội Pháp và Đức đang tiến công từ phía đông chiếm đóng. Hà Lan đã xoay chuyển tình thế bằng cách làm ngập một phần Holland bằng Hollandic Water Line.

Từ năm 1672 đến 1712, Cộng hòa, dưới sự lãnh đạo của William III của Anh và Anthonie Heinsius, thường xuyên xung đột với Pháp trong cái mà một số nhà sử học gọi là Chiến tranh Bốn mươi năm. Trong Chiến tranh Chín năm và Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Cộng hòa là trung tâm của các liên minh chống Pháp. Người Hà Lan cuối cùng đã bảo vệ thành công Nam Hà Lan, thiết lập một rào cản ở đó, và quân đội của họ đóng vai trò trung tâm trong liên minh đã chặn đứng sự bành trướng lãnh thổ của Pháp ở châu Âu cho đến khi một chu kỳ mới bắt đầu vào năm 1792 với Chiến tranh Cách mạng Pháp. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh đã khiến họ gần như phá sản và gây thiệt hại vĩnh viễn cho hải quân thương thuyền Hà Lan; trong khi họ vẫn là cường quốc kinh tế thống trị ở Viễn Đông, Anh đã thay thế vị trí cường quốc thương mại và hàng hải hàng đầu thế giới. Từ năm 1590 đến 1713, các Tỉnh Liên hiệp liên tục sở hữu một trong những đội quân lớn nhất và có năng lực nhất châu Âu. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha kết thúc, các cường quốc lớn khác như Phổ, Áo, Anh và Nga đã mở rộng đáng kể lực lượng quân sự của họ. Cộng hòa gặp khó khăn trong việc theo kịp những phát triển này, và dần dần trở thành một cường quốc hạng trung. Tuy nhiên, các nhà sử học đôi khi đã phóng đại mức độ suy giảm này, đặc biệt là khi xem xét giai đoạn cho đến những năm 1750.
3.5. Thời kỳ Cách mạng Pháp và Napoléon
Vào thế kỷ 18, Cộng hòa Hà Lan đã trải qua một thời kỳ suy thoái chung, với sự cạnh tranh kinh tế từ Anh và những mối thù địch lâu đời giữa hai phe chính trong xã hội Hà Lan, phe cộng hòa Staatsgezinden và những người ủng hộ stadtholder là phe Prinsgezinden. Với sự hỗ trợ vũ trang của Pháp cách mạng, những người cộng hòa Hà Lan thuộc phe Yêu nước đã tuyên bố thành lập Cộng hòa Batavia, mô phỏng theo Đệ nhất Cộng hòa Pháp và biến Hà Lan thành một nhà nước đơn nhất vào ngày 19 tháng 1 năm 1795. Stadtholder William V xứ Orange đã trốn sang Anh. Từ năm 1806 đến 1810, Vương quốc Holland được Napoléon Bonaparte thành lập như một vương quốc bù nhìn do em trai ông là Louis Bonaparte cai trị. Tuy nhiên, Vua Louis Bonaparte đã cố gắng phục vụ lợi ích của Hà Lan thay vì lợi ích của anh trai mình, và ông bị buộc phải thoái vị vào ngày 1 tháng 7 năm 1810. Hoàng đế đã cử một đội quân đến và Hà Lan trở thành một phần của Đế quốc Pháp cho đến tháng 11 năm 1813, khi Napoléon bị đánh bại trong Trận Leipzig.
3.6. Vương quốc Liên hiệp Hà Lan và Độc lập của Bỉ
William Frederick, con trai của vị stadtholder cuối cùng, trở về Hà Lan năm 1813 và tự xưng là Thân vương Chủ quyền. Hai năm sau, Đại hội Viên sáp nhập miền nam Hà Lan vào miền bắc để tạo ra một quốc gia hùng mạnh ở biên giới phía bắc của Pháp. William Frederick đã nâng Liên hiệp Hà Lan này lên thành một vương quốc và tự xưng là Vua William I vào năm 1815. William trở thành Đại Công tước kế vị của Luxembourg để đổi lấy các lãnh địa của ông ở Đức. Tuy nhiên, Nam Hà Lan đã tách biệt về văn hóa với miền bắc từ năm 1581 và đã nổi dậy. Miền nam giành độc lập năm 1830 với tên gọi Bỉ (được Bắc Hà Lan công nhận năm 1839 khi Vương quốc Hà Lan được thành lập theo sắc lệnh), trong khi liên minh cá nhân giữa Luxembourg và Hà Lan bị cắt đứt năm 1890, khi William III qua đời mà không có người thừa kế nam giới nào còn sống. Luật kế vị đã ngăn cản con gái ông là Nữ hoàng Wilhelmina trở thành Nữ Đại Công tước tiếp theo.
Cách mạng Bỉ và Chiến tranh Java ở Đông Ấn Hà Lan đã đẩy Hà Lan đến bờ vực phá sản. Tuy nhiên, Hệ thống Canh tác đã được giới thiệu vào năm 1830; ở Đông Ấn Hà Lan, 20% đất làng phải được dành cho các loại cây trồng của chính phủ để xuất khẩu. Chính sách này đã mang lại cho Hà Lan sự giàu có to lớn và làm cho thuộc địa tự cung tự cấp. Hà Lan đã bãi bỏ chế độ nô lệ ở các thuộc địa của mình vào năm 1863. Những người nô lệ ở Suriname chỉ được tự do hoàn toàn vào năm 1873.
3.7. Cuối thế kỷ 19 và Chủ nghĩa đế quốc
Trong giai đoạn này, Hà Lan, dù không còn là cường quốc hàng đầu thế giới như Thời kỳ Hoàng kim, vẫn duy trì và mở rộng ảnh hưởng của mình tại các thuộc địa, đặc biệt là Đông Ấn Hà Lan (Indonesia ngày nay) và Suriname. Chính sách thuộc địa của Hà Lan trong giai đoạn này thường tập trung vào khai thác tài nguyên và lao động, dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho người dân bản xứ. Các cuộc nổi dậy chống lại ách thống trị của Hà Lan đã nổ ra ở nhiều nơi, nhưng thường bị đàn áp một cách tàn bạo. Tác phẩm Max Havelaar của Multatuli đã phơi bày những bất công và sự bóc lột trong hệ thống thuộc địa, gây chấn động dư luận và góp phần vào những thay đổi chính sách sau này, dù chậm chạp. Sự giàu có thu được từ các thuộc địa đã đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở chính quốc Hà Lan, nhưng đồng thời cũng để lại một di sản phức tạp và gây tranh cãi về mặt đạo đức và nhân quyền.
3.8. Thế chiến và Tái thiết sau chiến tranh

Hà Lan vẫn giữ thái độ trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, một phần là do việc nhập khẩu hàng hóa qua Hà Lan tỏ ra thiết yếu cho sự tồn tại của Đức cho đến khi bị Hải quân Hoàng gia Anh phong tỏa vào năm 1916. Điều đó đã thay đổi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đức xâm lược Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Không kích Rotterdam đã buộc hầu hết quân đội Hà Lan phải đầu hàng. Trong thời gian chiếm đóng, hơn 100.000 người Do Thái Hà Lan đã bị chuyển đến các trại hủy diệt của Đức Quốc xã; chỉ một số ít sống sót. Công nhân Hà Lan bị cưỡng bức lao động ở Đức, những người dân chống đối đã bị giết để trả đũa các cuộc tấn công vào lính Đức, và vùng nông thôn bị cướp bóc lương thực. Mặc dù có hàng ngàn người Hà Lan đã liều mạng che giấu người Do Thái khỏi quân Đức, hơn 20.000 người Hà Lan theo chủ nghĩa phát xít đã gia nhập Waffen SS. Những người cộng tác viên chính trị là thành viên của NSB phát xít, đảng chính trị hợp pháp duy nhất ở Hà Lan bị chiếm đóng. Vào ngày 8 tháng 12 năm 1941, chính phủ Hà Lan lưu vong ở London tuyên chiến với Nhật Bản, nhưng không thể ngăn chặn việc Nhật Bản chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan. Năm 1944-45, Quân đoàn Canada số 1 đã giải phóng phần lớn Hà Lan. Ngay sau Ngày VE, người Hà Lan đã tiến hành một cuộc chiến tranh thuộc địa chống lại Cộng hòa Indonesia mới, một hành động bị nhiều quốc gia lên án và thể hiện sự níu kéo cuối cùng của chủ nghĩa thực dân.
3.9. Phi thực dân hóa và Hà Lan hiện đại
Năm 1954, Hiến chương Vương quốc Hà Lan đã cải cách cơ cấu chính trị do áp lực quốc tế phải thực hiện phi thực dân hóa. Các thuộc địa của Hà Lan là Surinam và Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc cùng với quốc gia châu Âu đều trở thành các quốc gia trong Vương quốc, trên cơ sở bình đẳng. Indonesia đã tuyên bố độc lập vào tháng 8 năm 1945, và sau một cuộc chiến tranh đẫm máu, Hà Lan buộc phải công nhận nền độc lập này. Suriname theo sau vào năm 1975. Quá trình phi thực dân hóa này, dù muộn màng, là một bước ngoặt quan trọng, phản ánh sự thay đổi trong nhận thức toàn cầu về quyền tự quyết của các dân tộc.
Hà Lan là một trong những thành viên sáng lập của Benelux và NATO. Vào những năm 1950, Hà Lan trở thành một trong sáu quốc gia sáng lập Cộng đồng châu Âu, sau khi thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu năm 1952, và sau đó là Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu năm 1958. Năm 1993, hai tổ chức đầu tiên được hợp nhất thành Liên minh châu Âu.
Những nỗ lực di cư do chính phủ khuyến khích nhằm giảm mật độ dân số đã thúc đẩy khoảng 500.000 người Hà Lan rời khỏi đất nước sau chiến tranh. Những năm 1960 và 1970 là thời kỳ có nhiều thay đổi lớn về xã hội và văn hóa, chẳng hạn như quá trình phi trụ cột hóa nhanh chóng. Sinh viên và thanh niên khác đã bác bỏ các giá trị truyền thống và thúc đẩy thay đổi trong các vấn đề như quyền phụ nữ, tính dục của con người, giải trừ quân bị và các vấn đề môi trường, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào xã hội dân sự và dân chủ. Năm 2002, euro được giới thiệu làm tiền pháp định, và năm 2010, Antille thuộc Hà Lan bị giải thể. Các cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức trên mỗi hòn đảo. Kết quả là, Bonaire, Sint Eustatius và Saba (các đảo BES) đã được hợp nhất thành các khu tự quản đặc biệt sau khi Antille thuộc Hà Lan giải thể. Các khu tự quản đặc biệt này được gọi chung là Caribe thuộc Hà Lan.
3.10. Các đời quân chủ
Hà Lan đã trải qua nhiều triều đại quân chủ trong lịch sử, từ thời kỳ các bá tước và công tước cai trị các vùng đất riêng lẻ, đến sự thống nhất dưới các nhà cai trị nước ngoài và cuối cùng là sự hình thành một vương quốc độc lập. Việc đánh giá vai trò của các vị quân chủ cần xem xét tác động của họ đối với sự phát triển dân chủ, quyền con người và công bằng xã hội. Dưới đây là tóm lược về các vị quân chủ chính:
- Nhà Bonaparte:
- Louis I (1806-1810): Em trai của Napoléon Bonaparte, được đưa lên làm Vua của Vương quốc Holland, một nhà nước bù nhìn của Pháp. Mặc dù là một phần của hệ thống đế quốc Napoléon, một số hành động của Louis I cho thấy sự quan tâm nhất định đến lợi ích của người dân Hà Lan, tuy nhiên vai trò chính của ông vẫn là phục vụ cho lợi ích của Pháp.
- Louis II (1810): Con trai của Louis I, làm vua trong thời gian rất ngắn trước khi Hà Lan bị sáp nhập hoàn toàn vào Đế quốc Pháp.
- Nhà Orange-Nassau:
- Willem I (1815-1840): Sau thời Napoléon, Willem I trở thành Thân vương Chủ quyền và sau đó là Vua của Vương quốc Liên hiệp Hà Lan. Thời kỳ trị vì của ông đánh dấu sự tái lập chủ quyền quốc gia nhưng cũng gắn liền với các chính sách bảo thủ và sự kiện Bỉ ly khai.
- Willem II (1840-1849): Con trai của Willem I, trị vì trong thời kỳ bất ổn chính trị ở châu Âu. Ông đã chấp nhận một hiến pháp mới vào năm 1848, chuyển đổi Hà Lan thành một quốc gia quân chủ lập hiến nghị viện, một bước tiến quan trọng cho dân chủ.
- Willem III (1849-1890): Con trai của Willem II, trị vì trong giai đoạn công nghiệp hóa và mở rộng thuộc địa. Thời kỳ này chứng kiến sự củng cố quyền lực thuộc địa, đi kèm với những vấn đề về bóc lột và đàn áp ở các vùng đất bị chiếm đóng.
- Wilhelmina (1890-1948): Con gái của Willem III, lên ngôi khi còn nhỏ và trị vì qua cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới. Bà trở thành biểu tượng của sự kháng cự của Hà Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một vai trò tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, thời kỳ trị vì của bà cũng bao gồm giai đoạn cuối của chủ nghĩa thực dân Hà Lan.
- Juliana (1948-1980): Con gái của Wilhelmina, trị vì trong giai đoạn tái thiết sau chiến tranh và phi thực dân hóa, bao gồm cả việc Indonesia giành độc lập. Bà được biết đến với phong cách giản dị và gần gũi, và thời kỳ của bà chứng kiến sự phát triển của nhà nước phúc lợi và các quyền tự do xã hội.
- Beatrix (1980-2013): Con gái của Juliana, trị vì trong thời kỳ Hà Lan tiếp tục phát triển và hội nhập châu Âu. Bà được coi là một vị quân chủ hiện đại, tôn trọng các nguyên tắc dân chủ và pháp quyền.
- Willem-Alexander (2013-nay): Con trai của Beatrix, vị vua nam đầu tiên của Hà Lan kể từ Willem III. Ông tiếp tục vai trò của một vị quân chủ lập hiến trong một xã hội dân chủ phát triển.
4. Địa lý
Hà Lan có vị trí địa lý đặc biệt ở Tây Âu, với phần lớn diện tích nằm ở vùng đất thấp ven Biển Bắc. Quốc gia này có diện tích khoảng 41.85 K km2 (bao gồm cả các vùng nước nội địa) và nổi tiếng với địa hình bằng phẳng. Đặc điểm này không chỉ định hình cảnh quan tự nhiên mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến lịch sử, văn hóa và kinh tế của đất nước.
4.1. Địa hình và Địa chất

Địa hình của Hà Lan phần lớn là bằng phẳng, với khoảng 26% diện tích và 21% dân số sống dưới mực nước biển. Phần lớn các khu vực dưới mực nước biển này là các polder (vùng đất lấn biển), được hình thành do quá trình khai thác than bùn hoặc được tạo ra thông qua các dự án cải tạo đất quy mô lớn bắt đầu từ thế kỷ 14. Từ cuối thế kỷ 16, các khu vực polder rộng lớn được bảo vệ bởi các hệ thống thoát nước phức tạp bao gồm đê, kênh đào và trạm bơm.
Phần lãnh thổ châu Âu của Hà Lan chủ yếu là đồng bằng, ngoại trừ các vùng chân đồi ở cực đông nam, với điểm cao nhất là Vaalserberg (322 m), và một số dãy đồi thấp ở miền trung. Về mặt địa chất, Hà Lan chủ yếu bao gồm các trầm tích châu thổ, ven biển và gió trong các thời kỳ kỷ băng hà và gian băng của Đệ Tứ. Gần như toàn bộ miền tây Hà Lan được cấu thành bởi cửa sông của hai con sông lớn là Rhine và Meuse. Ở phía đông Hà Lan, có thể tìm thấy dấu tích của Kỷ băng hà cuối cùng, kết thúc khoảng mười nghìn năm trước. Khi thềm băng lục địa di chuyển từ phía bắc, nó đã đẩy moraine về phía trước. Thềm băng dừng lại khi bao phủ nửa phía đông của Hà Lan. Sau khi kỷ băng hà kết thúc, moraine vẫn còn dưới dạng một dãy đồi dài. Các thành phố Arnhem và Nijmegen được xây dựng trên những ngọn đồi này.
Đường bờ biển Hà Lan đã thay đổi đáng kể qua nhiều thế kỷ do thiên tai và sự can thiệp của con người. Các trận lụt lớn trong lịch sử, như trận lụt Thánh Lucia năm 1287 và trận lụt Biển Bắc năm 1953, đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và thúc đẩy các nỗ lực kiểm soát lũ lụt quy mô lớn.
4.2. Khí hậu
Hà Lan có khí hậu hải dương ôn hòa (phân loại khí hậu Köppen: Cfb), với mùa hè mát mẻ và mùa đông ôn hòa. Hướng gió chủ đạo là tây nam, mang theo không khí ẩm từ Biển Bắc, dẫn đến độ ẩm tương đối cao.
Nhiệt độ trung bình hàng năm tại De Bilt là khoảng 10.1 °C. Tháng Giêng là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình là 3.1 °C, trong khi tháng Bảy và tháng Tám là những tháng ấm nhất với nhiệt độ trung bình khoảng 17.9 °C và 17.5 °C tương ứng. Sự khác biệt nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông, cũng như giữa ngày và đêm, thường nhỏ hơn ở các vùng ven biển so với các khu vực nội địa phía đông nam.
Lượng mưa hàng năm được phân bổ tương đối đều trong các tháng, với tổng lượng mưa trung bình khoảng 832.5 mm. Các tháng mùa hè và mùa thu có xu hướng mưa nhiều hơn một chút, chủ yếu do cường độ mưa lớn hơn chứ không phải do số ngày mưa nhiều hơn. Tuyết có thể rơi từ tháng 11 đến tháng 4, nhưng hiếm khi kéo dài.
Số giờ nắng chịu ảnh hưởng bởi vĩ độ địa lý, với độ dài ngày thay đổi từ khoảng 8 giờ vào tháng 12 đến gần 17 giờ vào tháng 6. Bầu trời thường có mây, đặc biệt là trong những tháng mùa đông.
Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến Hà Lan, với nhiệt độ trung bình tăng hơn 2 °C từ năm 1901 đến 2020. Điều này dẫn đến tần suất hạn hán và sóng nhiệt gia tăng. Do phần lớn diện tích đất nằm thấp, Hà Lan rất dễ bị tổn thương bởi nước biển dâng.
4.3. Tài nguyên nước và Kiểm soát lũ lụt (Kế hoạch Delta)

Hà Lan có một mạng lưới sông ngòi và kênh đào chằng chịt. Ba con sông lớn của châu Âu là Rhine (tiếng Hà Lan: Rijn), Meuse (tiếng Hà Lan: Maas) và Scheldt (tiếng Hà Lan: Schelde), cùng với các chi lưu của chúng, chảy qua đất nước và đổ ra Biển Bắc, tạo thành đồng bằng châu thổ Rhine-Meuse-Scheldt rộng lớn ở phía tây nam. Sông IJssel, một nhánh quan trọng của Rhine, chảy vào IJsselmeer, một hồ nước ngọt lớn được tạo ra từ việc ngăn Zuiderzee trước đây.
Lịch sử Hà Lan gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại nước. Các trận lụt lớn đã định hình cảnh quan và thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ kiểm soát lũ lụt tiên tiến. Sau thảm họa Lũ lụt Biển Bắc năm 1953, chính phủ Hà Lan đã khởi xướng Kế hoạch Delta (Deltawerken), một loạt các công trình xây dựng quy mô lớn nhằm bảo vệ đất nước khỏi các trận lụt trong tương lai. Kế hoạch này bao gồm việc xây dựng các con đê, đập chắn sóng, cửa cống và các rào cản bão ở các cửa sông và vùng ven biển phía tây nam. Công trình nổi bật nhất là Maeslantkering, một rào cản bão di động khổng lồ ở cửa sông Nieuwe Waterweg gần Rotterdam, hoàn thành vào năm 1997. Kế hoạch Delta được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới hiện đại theo Hiệp hội Kỹ sư Xây dựng Hoa Kỳ.
Ngoài Kế hoạch Delta, Hà Lan còn triển khai các chương trình khác như "Không gian cho dòng sông" (Ruimte voor de Rivier) nhằm giảm nguy cơ lũ lụt từ các con sông bằng cách mở rộng lòng sông, tạo ra các vùng ngập lũ có kiểm soát và di dời dân cư đến những vùng đất cao hơn. Các ủy ban nước (waterschappen hoặc hoogheemraadschappen), những cơ quan quản lý nước dân chủ có lịch sử lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mực nước và bảo vệ các khu vực khỏi lũ lụt.
Những nỗ lực này rất quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng, vốn là những mối đe dọa nghiêm trọng đối với một quốc gia có địa hình thấp như Hà Lan.
4.4. Môi trường tự nhiên và Hệ sinh thái

Hà Lan có 21 công viên quốc gia và hàng trăm khu bảo tồn thiên nhiên khác. Hầu hết các khu vực này thuộc sở hữu của Staatsbosbeheer, cơ quan quốc gia về lâm nghiệp và bảo tồn thiên nhiên, và Natuurmonumenten, một tổ chức tư nhân mua, bảo vệ và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên. Biển Wadden ở phía bắc, với các bãi triều và vùng đất ngập nước, rất phong phú về đa dạng sinh học và là một Di sản Thiên nhiên Thế giới của UNESCO. Oosterschelde, trước đây là cửa sông phía đông bắc của sông Scheldt, được công nhận là công viên quốc gia vào năm 2002, trở thành công viên quốc gia lớn nhất Hà Lan với diện tích 370 km2.
Về mặt địa lý thực vật, phần lãnh thổ châu Âu của Hà Lan được chia sẻ giữa các tỉnh Đại Tây Dương châu Âu và Trung Âu của Vùng Circumboreal thuộc Giới Boreal. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), lãnh thổ châu Âu của Hà Lan thuộc vùng sinh thái Rừng hỗn hợp Đại Tây Dương. Năm 1871, những khu rừng tự nhiên nguyên sinh cuối cùng đã bị chặt hạ. Những khu rừng này được trồng trên các bãi thạch nam nhân tạo và các đụn cát (bãi thạch nam bị chăn thả quá mức) (Veluwe). Hà Lan có Chỉ số Toàn vẹn Cảnh quan Rừng năm 2019 với điểm trung bình là 0,6/10, xếp thứ 169 trên toàn cầu trong số 172 quốc gia.
Ô nhiễm nitơ là một vấn đề nghiêm trọng ở Hà Lan, một phần do số lượng bò lớn. Số lượng côn trùng bay ở Hà Lan đã giảm 75% kể từ những năm 1990.
Hà Lan đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu. Nhiệt độ trung bình ở Hà Lan đã tăng hơn 2 °C từ năm 1901 đến năm 2020. Biến đổi khí hậu đã dẫn đến tần suất hạn hán và sóng nhiệt gia tăng. Do phần lớn diện tích Hà Lan được cải tạo từ biển hoặc ở rất gần mực nước biển, Hà Lan rất dễ bị tổn thương bởi nước biển dâng.
Hà Lan có lượng phát thải khí nhà kính bình quân đầu người lớn thứ tư trong Liên minh châu Âu. Chính phủ Hà Lan đã đặt mục tiêu giảm lượng khí thải trong những thập kỷ tới. Phản ứng của Hà Lan đối với biến đổi khí hậu được thúc đẩy bởi một số yếu tố đặc thù, bao gồm các kế hoạch phục hồi xanh lớn hơn của Liên minh châu Âu đối với đại dịch COVID-19 và một vụ kiện về biến đổi khí hậu, Nhà nước Hà Lan kiện Tổ chức Urgenda, đã tạo ra sự giảm thiểu biến đổi khí hậu bắt buộc thông qua việc giảm 25% lượng khí thải so với mức năm 1990. Năm 2021, lượng phát thải CO2 đã giảm 14% so với mức năm 1990. Mục tiêu của chính phủ Hà Lan là giảm 49% lượng khí thải vào năm 2030.
4.5. Caribe thuộc Hà Lan

Ngoài lãnh thổ chính ở châu Âu, Vương quốc Hà Lan còn bao gồm các lãnh thổ ở Caribe. Ba trong số này, gồm Bonaire, Sint Eustatius và Saba, được gọi chung là Caribe thuộc Hà Lan (Caribisch NederlandDutch) và có vị thế là các khu tự quản đặc biệt của Hà Lan. Ba hòn đảo này là một phần của Tiểu Antilles. Chúng có biên giới hàng hải với Anguilla, Curaçao, Pháp (Saint Barthélemy), Saint Kitts và Nevis, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ và Venezuela. Các hòn đảo thuộc Caribe thuộc Hà Lan có khí hậu nhiệt đới với thời tiết ấm áp quanh năm.
- Bonaire: Nằm trong nhóm quần đảo ABC thuộc chuỗi đảo Leeward Antilles, ngoài khơi bờ biển Venezuela. Quần đảo Leeward Antilles có nguồn gốc hỗn hợp núi lửa và san hô. Bonaire nổi tiếng với các rạn san hô và là một điểm đến phổ biến cho hoạt động lặn biển. Thủ phủ là Kralendijk.
- Saba và Sint Eustatius: Thuộc nhóm Quần đảo SSS trong Quần đảo Leeward. Chúng nằm ở phía đông Puerto Rico và Quần đảo Virgin. Mặc dù trong tiếng Anh, các đảo này được xếp vào Leeward Islands, người dân địa phương (nói tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan và tiếng Anh địa phương) lại coi chúng là một phần của Quần đảo Windward (các đảo khác xa hơn về phía nam). Cả Saba và Sint Eustatius đều có nguồn gốc núi lửa và địa hình đồi núi, khiến đất đai phù hợp cho nông nghiệp bị hạn chế. Điểm cao nhất là Núi Scenery (887 m) trên đảo Saba, đây cũng là điểm cao nhất trong toàn bộ Vương quốc Hà Lan. Thủ phủ của Saba là The Bottom, và thủ phủ của Sint Eustatius là Oranjestad.
Các lãnh thổ Aruba, Curaçao và Sint Maarten cũng nằm ở Caribe nhưng có vị thế là các quốc gia cấu thành riêng biệt trong Vương quốc Hà Lan, không phải là một phần của "Caribe thuộc Hà Lan" theo nghĩa hành chính.
5. Chính trị
Hệ thống chính trị của Hà Lan dựa trên nền tảng quân chủ lập hiến và dân chủ đại nghị. Quốc gia này nổi tiếng với truyền thống khoan dung xã hội và nỗ lực đạt được sự đồng thuận rộng rãi trong các vấn đề quan trọng. Các vấn đề chính trị nổi bật bao gồm quản lý nhập cư, ứng phó với biến đổi khí hậu, và duy trì nhà nước phúc lợi trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hóa.
5.1. Hình thức chính phủ và Hệ thống chính trị

Hà Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến từ năm 1815 và là một nền dân chủ đại nghị từ năm 1848. Hà Lan được mô tả là một nhà nước hiệp thương. Chính trị và quản trị của Hà Lan được đặc trưng bởi nỗ lực đạt được sự đồng thuận rộng rãi về các vấn đề quan trọng. Năm 2023, V-Dem Democracy indices xếp Hà Lan là nền dân chủ bầu cử tốt thứ 17 trên thế giới, và Chỉ số Dân chủ (The Economist) năm 2022 xếp Hà Lan là quốc gia dân chủ thứ 9 trên thế giới.
Nhà vua là nguyên thủ quốc gia, hiện tại là Vua Willem-Alexander. Theo hiến pháp, vị trí này được trang bị quyền lực hạn chế do trách nhiệm của bộ trưởng.
Quyền hành pháp được hình thành bởi chính phủ bao gồm nhà vua và Hội đồng Bộ trưởng, cơ quan nghị sự của Nội các Hà Lan. Nội các thường bao gồm từ 13 đến 16 bộ trưởng và một số lượng quốc vụ khanh khác nhau. Một đến ba bộ trưởng là bộ trưởng không bộ. Hội đồng bộ trưởng do Thủ tướng chủ trì, người thường là lãnh đạo của đảng lớn nhất trong liên minh. Thủ tướng là một primus inter pares (người đứng đầu trong số những người ngang hàng), không có quyền lực rõ ràng nào vượt quá quyền lực của các bộ trưởng khác. Dick Schoof là Thủ tướng từ tháng 7 năm 2024, kế nhiệm Mark Rutte, người giữ chức Thủ tướng lâu nhất.
Nội các chịu trách nhiệm trước quốc hội lưỡng viện, Nghị viện (States General), cơ quan này cũng có quyền lập pháp. 150 thành viên của Hạ viện, tức hạ viện, được bầu trong các bầu cử trực tiếp trên cơ sở đại diện tỷ lệ theo danh sách đảng. Các cuộc bầu cử này được tổ chức bốn năm một lần, hoặc sớm hơn trong trường hợp nội các sụp đổ. Các hội đồng tỉnh, Hội đồng Tỉnh, cũng được bầu trực tiếp bốn năm một lần. Các thành viên của hội đồng tỉnh bầu ra 75 thành viên của Thượng viện, tức thượng viện, cơ quan này có quyền bác bỏ luật, nhưng không được sửa đổi chúng.
5.2. Các đảng phái chính và Bầu cử
Hà Lan có một hệ thống đa đảng phong phú, phản ánh sự đa dạng về ý thức hệ và lợi ích trong xã hội. Không có đảng nào chiếm đa số tuyệt đối trong quốc hội kể từ thế kỷ 19, do đó, các chính phủ liên hiệp là điều tất yếu. Kể từ khi quyền bầu cử phổ thông được áp dụng vào năm 1917, hệ thống chính trị Hà Lan chủ yếu bị chi phối bởi ba dòng chính trị lớn:
- Dân chủ Kitô giáo: Hiện nay được đại diện chủ yếu bởi Christian Democratic Appeal (CDA).
- Dân chủ xã hội: Hiện nay được đại diện chủ yếu bởi Labour Party (PvdA).
- Chủ nghĩa tự do: Hiện nay được đại diện chủ yếu bởi People's Party for Freedom and Democracy (VVD).
Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, sự phân mảnh chính trị đã gia tăng, với sự xuất hiện và lớn mạnh của các đảng phái mới hơn, bao gồm các đảng tập trung vào các vấn đề cụ thể (như môi trường, quyền động vật) hoặc các đảng theo chủ nghĩa dân túy.
Các cuộc bầu cử vào Hạ viện (Tweede Kamer) được tổ chức theo hệ thống đại diện tỷ lệ theo danh sách đảng trên toàn quốc, có nghĩa là số ghế một đảng nhận được gần như tương ứng trực tiếp với tỷ lệ phiếu bầu mà đảng đó giành được trên toàn quốc. Ngưỡng bầu cử để vào quốc hội rất thấp, điều này càng khuyến khích sự đa dạng của các đảng phái. Sau bầu cử, một quá trình đàm phán phức tạp thường diễn ra để thành lập chính phủ liên hiệp.
Cuộc tổng tuyển cử gần đây nhất diễn ra vào tháng 11 năm 2023. Đảng Tự do (PVV) của Geert Wilders, một đảng dân túy cánh hữu, đã giành chiến thắng bất ngờ, trở thành đảng lớn nhất với 37/150 ghế. Một nội các liên hiệp đã được thành lập vào tháng 7 năm 2024, với ông Dick Schoof làm Thủ tướng, bao gồm PVV, VVD, New Social Contract (NSC) và Farmer-Citizen Movement (BBB).
5.3. Hệ thống tư pháp
Hệ thống tư pháp của Hà Lan độc lập với các nhánh hành pháp và lập pháp, dựa trên nguyên tắc pháp quyền. Cấu trúc tòa án bao gồm các tòa án quận (rechtbanken), tòa phúc thẩm (gerechtshoven) và Tòa án Tối cao (Hoge Raad der Nederlanden). Tòa án Tối cao là tòa án chung thẩm cao nhất đối với các vụ án dân sự, hình sự và thuế. Các phán quyết của Tòa án Tối cao tập trung vào việc áp dụng đúng luật pháp và tính nhất quán của luật pháp, chứ không xem xét lại các tình tiết thực tế của vụ án.
Hà Lan cũng có một nhánh tư pháp hành chính riêng biệt, với Hội đồng Nhà nước (Raad van State) đóng vai trò là tòa án hành chính cao nhất trong nhiều trường hợp. Ngoài ra, còn có các tòa án chuyên biệt khác như Tòa án Thương mại Trung ương (Centrale Raad van Beroep) cho các vấnEPCs tranh chấp an sinh xã hội và công vụ, và Tòa Phúc thẩm Thương mại và Công nghiệp (College van Beroep voor het bedrijfsleven) cho các tranh chấp kinh tế cụ thể.
Các thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời cho đến khi nghỉ hưu, nhằm đảm bảo tính độc lập của họ. Hệ thống pháp luật Hà Lan dựa trên truyền thống dân luật, chịu ảnh hưởng lớn từ Luật La Mã và Bộ luật Napoléon. Hà Lan cũng là nơi đặt trụ sở của nhiều tòa án và tổ chức pháp lý quốc tế quan trọng như Tòa án Công lý Quốc tế và Tòa án Hình sự Quốc tế, góp phần vào vai trò của Den Haag như một "thủ đô pháp lý của thế giới". Các nguyên tắc nhân quyền và các công ước quốc tế đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Hà Lan.
5.4. Phân cấp hành chính
Hà Lan được chia thành mười hai tỉnh (provincieDutch), mỗi tỉnh do một Ủy viên của Vua (Commissaris van de KoningDutch) đứng đầu. Các tỉnh này lại được chia thành các đô thị tự quản (gemeenteDutch), tính đến năm 2023 là 342 đô thị.
Quốc gia này cũng được chia thành 21 khu vực quản lý nước, do một hội đồng quản lý nước (waterschapDutch hoặc hoogheemraadschapDutch) điều hành, mỗi hội đồng có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến quản lý nước. Việc thành lập các hội đồng quản lý nước có trước cả khi quốc gia này hình thành, hội đồng đầu tiên xuất hiện vào năm 1196. Các hội đồng quản lý nước của Hà Lan là một trong những thực thể dân chủ lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn tồn tại. Các cuộc bầu cử trực tiếp của các hội đồng quản lý nước diễn ra bốn năm một lần.
Trong thị trấn Baarle-Nassau của Hà Lan, có 22 vùng đất lọt vào trong của Bỉ, và trong số đó lại có 8 vùng đất tách rời của Hà Lan.
Tỉnh | Thủ phủ | Thành phố lớn nhất | Tổng diện tích | Diện tích đất | Dân số | Mật độ |
---|---|---|---|---|---|---|
Drenthe | Assen | 2.680 | 2.633 | 502.051 | 191 | |
Flevoland | Lelystad | Almere | 2.412 | 1.410 | 444.701 | 315 |
Friesland | Leeuwarden | 5.753 | 3.340 | 659.551 | 197 | |
Gelderland | Arnhem | Nijmegen | 5.136 | 4.960 | 2.133.708 | 430 |
Groningen | Groningen | 2.955 | 2.316 | 596.075 | 257 | |
Limburg | Maastricht | 2.210 | 2.145 | 1.128.367 | 526 | |
North Brabant | 's-Hertogenbosch | Eindhoven | 5.082 | 4.902 | 2.626.210 | 536 |
Bắc Holland | Haarlem | Amsterdam | 4.092 | 2.663 | 2.952.622 | 1.109 |
Overijssel | Zwolle | Enschede | 3.421 | 3.317 | 1.184.333 | 357 |
Nam Holland | Den Haag | Rotterdam | 3.308 | 2.698 | 3.804.906 | 1.410 |
Utrecht | Utrecht | 1.560 | 1.484 | 1.387.643 | 935 | |
Zeeland | Middelburg | 2.933 | 1.780 | 391.124 | 220 | |
Lục địa | 41.543 | 33.647 | 17.811.291 | 529 |
Cấu trúc hành chính trên ba đảo BES, được gọi chung là Caribe thuộc Hà Lan, nằm ngoài mười hai tỉnh. Các đảo này có vị thế là openbare lichamen (cơ quan công cộng). Ở Hà Lan, các đơn vị hành chính này thường được gọi là các khu tự quản đặc biệt.
Đảo | Thủ phủ | Diện tích | Dân số | Mật độ |
---|---|---|---|---|
Bonaire | Kralendijk | 288 | 24.090 | 84 |
Saba | The Bottom | 13 | 2.035 | 157 |
Sint Eustatius | Oranjestad | 21 | 3.293 | 157 |
Caribe thuộc Hà Lan | 322 | 29.418 | 91 |
5.5. Quan hệ đối ngoại

Lịch sử chính sách đối ngoại của Hà Lan được đặc trưng bởi tính trung lập. Theo Chỉ số Hòa bình Toàn cầu năm 2024, Hà Lan là quốc gia hòa bình thứ 18 trên thế giới. Kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai, Hà Lan đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, nổi bật nhất là Liên Hợp Quốc, NATO và EU.
Chính sách đối ngoại của Hà Lan dựa trên bốn cam kết cơ bản: hợp tác Đại Tây Dương, hội nhập châu Âu, phát triển quốc tế và luật pháp quốc tế. Một trong những vấn đề quốc tế gây tranh cãi hơn xung quanh Hà Lan là chính sách tự do đối với ma túy nhẹ.
Các mối quan hệ lịch sử được kế thừa từ quá khứ thuộc địa ở Indonesia và Suriname vẫn ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Hà Lan. Nhiều người có nguồn gốc từ các quốc gia này hiện đang sinh sống lâu dài tại Hà Lan. Hà Lan nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân quyền trong chính sách đối ngoại của mình và thường xuyên lên tiếng về các vấn đề nhân quyền trên toàn cầu.
5.5.1. Quan hệ với các quốc gia cụ thể
Hà Lan duy trì quan hệ ngoại giao với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mối quan hệ với các nước láng giềng như Đức và Bỉ rất chặt chẽ, đặc biệt trong khuôn khổ Benelux và Liên minh châu Âu.
- Indonesia: Mối quan hệ lịch sử phức tạp do quá khứ thuộc địa của Hà Lan tại Indonesia. Sau Cách mạng Dân tộc Indonesia, quan hệ ngoại giao được thiết lập. Hiện nay, hai nước hợp tác trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại, giáo dục và quản lý nước. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến lịch sử thuộc địa và nhân quyền đôi khi vẫn nổi lên, đòi hỏi sự đối thoại thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau.
- Suriname: Là một cựu thuộc địa khác của Hà Lan, Suriname giành độc lập vào năm 1975. Quan hệ giữa hai nước khá gần gũi do có nhiều người Suriname gốc Hà Lan và ngược lại. Hà Lan vẫn là một đối tác phát triển quan trọng của Suriname, đồng thời cũng cần chú trọng đến các vấn đề công bằng và bình đẳng trong quan hệ song phương.
- Việt Nam: Hà Lan và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1973. Quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, đặc biệt trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, quản lý nước, nông nghiệp bền vững và biến đổi khí hậu. Hà Lan là một trong những nhà đầu tư châu Âu lớn nhất tại Việt Nam. Hà Lan cũng hỗ trợ Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến nhân quyền và phát triển xã hội dân sự thông qua các chương trình hợp tác, thúc đẩy các giá trị dân chủ và pháp quyền.
- Hoa Kỳ: Hà Lan và Hoa Kỳ có mối quan hệ đồng minh lâu đời, đặc biệt trong khuôn khổ NATO. Hai nước hợp tác chặt chẽ về các vấn đề an ninh, kinh tế và chính trị.
- Trung Quốc: Quan hệ thương mại và đầu tư với Trung Quốc ngày càng tăng, nhưng cũng có những lo ngại về các vấn đề nhân quyền và cạnh tranh địa chính trị. Hà Lan cần duy trì một lập trường cân bằng, vừa hợp tác kinh tế vừa bảo vệ các giá trị nhân quyền và dân chủ.
Trong chính sách đối ngoại, Hà Lan thường xuyên nêu bật tầm quan trọng của dân chủ, pháp quyền và nhân quyền. Nước này tích cực tham gia vào các cơ chế quốc tế nhằm thúc đẩy các giá trị này. Tuy nhiên, việc cân bằng giữa lợi ích kinh tế và các giá trị nhân quyền đôi khi là một thách thức trong quan hệ với một số quốc gia, đòi hỏi sự kiên định và khéo léo trong ngoại giao.
5.6. Quân sự


Hà Lan có một trong những đội quân thường trực lâu đời nhất ở châu Âu; nó được thành lập lần đầu tiên vào cuối những năm 1500. Sau thất bại của Napoléon, quân đội Hà Lan được chuyển thành quân đội quân dịch. Hà Lan từ bỏ tính trung lập vào năm 1948 khi ký Hiệp ước Brussels, và trở thành thành viên sáng lập của NATO vào năm 1949. Do đó, quân đội Hà Lan là một phần của lực lượng NATO ở châu Âu thời Chiến tranh Lạnh. Năm 1983, chức năng (nghi lễ) tổng tư lệnh của nhà vua được chuyển giao cho chính phủ, điều này có nghĩa là nhà vua (nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa) không có chức năng quân sự chính thức. Năm 1996, chế độ quân dịch bị đình chỉ, và quân đội Hà Lan một lần nữa được chuyển thành quân đội chuyên nghiệp. Kể từ những năm 1990, quân đội Hà Lan đã tham gia vào Chiến tranh Bosnia và Chiến tranh Kosovo, giữ một tỉnh ở Iraq sau thất bại của Saddam Hussein, và tham gia vào Afghanistan. Hà Lan đã phê chuẩn nhiều công ước quốc tế liên quan đến luật chiến tranh. Hà Lan quyết định không ký Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân của Liên Hợp Quốc.
Quân đội bao gồm bốn nhánh, tất cả đều mang tiền tố Koninklijke (Hoàng gia):
- Koninklijke Marine (KM), Hải quân Hoàng gia Hà Lan, bao gồm Dịch vụ Hàng không Hải quân và Thủy quân lục chiến;
- Koninklijke Landmacht (KL), Lục quân Hoàng gia Hà Lan;
- Koninklijke Luchtmacht (KLu), Không quân Hoàng gia Hà Lan;
- Koninklijke Marechaussee (KMar), Hiến binh Hoàng gia Hà Lan (Cảnh sát Quân sự), nhiệm vụ bao gồm cảnh sát quân sự và kiểm soát biên giới.
Dịch vụ tàu ngầm mở cửa cho phụ nữ vào ngày 1 tháng 1 năm 2017. Korps Commandotroepen, Lực lượng Đặc nhiệm của Lục quân Hà Lan, mở cửa cho phụ nữ, nhưng do yêu cầu thể chất cực kỳ cao cho khóa huấn luyện ban đầu, gần như không thể có phụ nữ trở thành lính biệt kích. Bộ Quốc phòng Hà Lan tuyển dụng hơn 70.000 nhân viên, bao gồm hơn 20.000 dân sự và hơn 50.000 quân nhân.
6. Kinh tế
Nền kinh tế Hà Lan là một nền kinh tế thị trường phát triển, dựa nhiều vào ngoại thương và các ngành dịch vụ. Quốc gia này có lịch sử lâu đời là một trung tâm thương mại và tài chính quốc tế. Chính sách kinh tế của Hà Lan thường kết hợp các nguyên tắc thị trường tự do với một nhà nước phúc lợi mạnh mẽ, nhằm đảm bảo công bằng xã hội và quyền lợi cho người lao động, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng bền vững và bảo vệ môi trường.
6.1. Cơ cấu kinh tế và Các chỉ số chính

Kể từ thế kỷ 16, vận tải biển, ngư nghiệp, nông nghiệp, thương mại và ngân hàng đã là những ngành hàng đầu của kinh tế Hà Lan. Hà Lan có mức độ tự do kinh tế cao. Hà Lan là một trong những quốc gia hàng đầu trong Báo cáo Thương mại Toàn cầu (thứ 2 năm 2016), và được Viện Phát triển Quản lý Quốc tế Thụy Sĩ xếp hạng là nền kinh tế cạnh tranh thứ năm trên thế giới vào năm 2017. Quốc gia này được xếp hạng là quốc gia đổi mới sáng tạo thứ 8 trên thế giới trong Chỉ số Đổi mới Toàn cầu năm 2024, giảm từ vị trí thứ 2 năm 2018.
Tính đến năm 2020, các đối tác thương mại chính của Hà Lan là Đức, Bỉ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Ý, Trung Quốc và Nga. Hà Lan là một trong 10 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Thực phẩm là ngành công nghiệp lớn nhất. Các ngành công nghiệp lớn khác bao gồm hóa chất, luyện kim, máy móc, hàng điện tử, thương mại, dịch vụ và du lịch. Ví dụ về các công ty Hà Lan quốc tế hoạt động tại Hà Lan bao gồm Randstad NV, Heineken, KLM, dịch vụ tài chính (ING, ABN AMRO, Rabobank), hóa chất (DSM, AKZO), lọc dầu (Shell), máy móc điện tử (Philips, ASML), và định vị vệ tinh (TomTom).
Hà Lan có nền kinh tế lớn thứ 17 thế giới, và xếp thứ 11 về GDP (danh nghĩa) bình quân đầu người. Hà Lan có bất bình đẳng thu nhập thấp, nhưng bất bình đẳng tài sản tương đối cao. Mặc dù xếp thứ 11 về GDP bình quân đầu người, UNICEF đã xếp hạng Hà Lan đứng đầu về phúc lợi trẻ em ở các nước giàu, cả trong năm 2007 và 2013.
Amsterdam là thủ đô tài chính và kinh doanh của Hà Lan. Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam (AEX), một phần của Euronext, là sàn giao dịch chứng khoán lâu đời nhất thế giới và là một trong những sàn giao dịch lớn nhất châu Âu. Là một thành viên sáng lập của đồng euro, Hà Lan đã thay thế (cho mục đích kế toán) đơn vị tiền tệ cũ của mình, "gulden", vào ngày 1 tháng 1 năm 1999. Tiền xu và tiền giấy euro thực tế được lưu hành vào ngày 1 tháng 1 năm 2002. Một euro tương đương với 2,20371 gulden Hà Lan. Ở Caribe thuộc Hà Lan, đô la Mỹ được sử dụng thay thế. Hà Lan là một "quốc gia trung chuyển" giúp chuyển lợi nhuận từ các quốc gia có thuế cao sang các thiên đường thuế. Nước này được xếp hạng là thiên đường thuế lớn thứ 4 trên thế giới.
Vị trí địa lý của Hà Lan mang lại khả năng tiếp cận hàng đầu với các thị trường ở Vương quốc Anh và Đức, với Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu. Các bộ phận quan trọng khác của nền kinh tế là thương mại quốc tế, ngân hàng và vận tải. Hà Lan đã giải quyết thành công vấn đề tài chính công và tình trạng trì trệ tăng trưởng việc làm từ rất lâu trước các đối tác châu Âu. Amsterdam là điểm đến du lịch bận rộn thứ 5 ở châu Âu, với hơn 4,2 triệu du khách quốc tế. Kể từ khi EU mở rộng, một lượng lớn lao động di cư đã đến Hà Lan từ Trung và Đông Âu.
Hà Lan tiếp tục là một trong những quốc gia châu Âu hàng đầu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và là một trong năm nhà đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ. Nền kinh tế đã trải qua một sự chậm lại vào năm 2005, nhưng vào năm 2006 đã phục hồi với tốc độ nhanh nhất trong sáu năm nhờ xuất khẩu tăng và đầu tư mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng việc làm đạt mức cao nhất trong 10 năm vào năm 2007. Hà Lan là nền kinh tế cạnh tranh thứ tư trên thế giới, theo Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
6.2. Các ngành công nghiệp chính
Nền kinh tế Hà Lan đa dạng với nhiều ngành công nghiệp đóng góp vào sự thịnh vượng của quốc gia. Các ngành này bao gồm nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất tiên tiến, dịch vụ tài chính và logistics phát triển, cùng với ngành năng lượng quan trọng.
6.2.1. Nông nghiệp và Ngư nghiệp
Ngành nông nghiệp Hà Lan có tính cơ giới hóa cao và tập trung mạnh vào xuất khẩu quốc tế. Mặc dù chỉ sử dụng khoảng 4% lực lượng lao động, ngành này tạo ra thặng dư lớn cho công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm 21% tổng giá trị xuất khẩu của Hà Lan. Hà Lan đứng đầu Liên minh châu Âu và thứ hai thế giới về giá trị xuất khẩu nông sản (sau Hoa Kỳ), với kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 80.70 B EUR năm 2014 và 94.50 B EUR năm 2019.
Một phần ba lượng xuất khẩu ớt chuông, cà chua và dưa chuột của thế giới đi qua Hà Lan. Quốc gia này cũng xuất khẩu một phần mười lăm lượng táo tây của thế giới. Một phần đáng kể trong xuất khẩu nông sản của Hà Lan bao gồm cây cảnh cắt cành, hoa và củ hoa, chiếm hai phần ba tổng lượng xuất khẩu toàn cầu. Hà Lan nổi tiếng với các loại hoa như hoa tulip, và các sản phẩm từ sữa như phô mai Gouda và phô mai Edam. Ngành ngư nghiệp cũng đóng một vai trò quan trọng, với các sản phẩm chính là cá trích, cá tuyết và cá thu.
Tuy nhiên, để giảm thiểu ô nhiễm nông nghiệp, chính phủ Hà Lan đang áp đặt các giới hạn nghiêm ngặt về năng suất của ngành nông nghiệp, gây ra các cuộc biểu tình của nông dân. Điều này phản ánh sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
6.2.2. Sản xuất và Công nghệ cao
Hà Lan có một ngành sản xuất đa dạng và phát triển, tập trung vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao và công nghệ tiên tiến. Các lĩnh vực sản xuất chính bao gồm hóa chất, máy móc, thiết bị điện tử và chế biến thực phẩm. Các công ty đa quốc gia lớn của Hà Lan như Philips (điện tử tiêu dùng và thiết bị y tế), AkzoNobel (hóa chất và sơn), và Unilever (hàng tiêu dùng) có nguồn gốc từ ngành sản xuất này.
Đặc biệt, Hà Lan là một trung tâm quan trọng của ngành công nghệ cao, nhất là trong lĩnh vực bán dẫn. Công ty ASML là nhà sản xuất thiết bị in thạch bản hàng đầu thế giới, đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng chip toàn cầu. Khu vực xung quanh Eindhoven, được gọi là Brainport Eindhoven, là một trung tâm đổi mới công nghệ cao, thu hút nhiều công ty và nhân tài trong các lĩnh vực như điện tử, công nghệ thông tin, và công nghệ y tế.
Chính phủ Hà Lan thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu và phát triển (R&D) và đổi mới sáng tạo. Các chính sách hỗ trợ bao gồm ưu đãi thuế cho R&D, tài trợ cho các dự án hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp, và tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty khởi nghiệp công nghệ.
Tuy nhiên, ngành sản xuất và công nghệ cao cũng đối mặt với những thách thức liên quan đến quyền lao động và tác động môi trường. Việc đảm bảo điều kiện làm việc công bằng, giảm thiểu ô nhiễm và chuyển đổi sang các quy trình sản xuất bền vững là những ưu tiên quan trọng. Các cuộc thảo luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vai trò của công nghệ trong việc giải quyết các vấnసిêu xã hội và môi trường ngày càng trở nên phổ biến.
6.2.3. Dịch vụ và Tài chính
Ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế Hà Lan, đóng góp đáng kể vào GDP và việc làm. Các lĩnh vực dịch vụ chủ chốt bao gồm:
- Logistics và Vận tải: Với vị trí địa lý chiến lược và Cảng Rotterdam là một trong những cảng lớn nhất thế giới, cùng với Sân bay Amsterdam Schiphol là một trung tâm hàng không quan trọng, Hà Lan đóng vai trò là một cửa ngõ thương mại và trung tâm logistics của châu Âu. Mạng lưới đường thủy, đường bộ và đường sắt phát triển cao hỗ trợ cho ngành này.
- Dịch vụ tài chính: Amsterdam là một trung tâm tài chính quốc tế lâu đời, với Sàn giao dịch chứng khoán Amsterdam (một phần của Euronext) là sàn giao dịch chứng khoán hoạt động liên tục lâu đời nhất thế giới. Các ngân hàng lớn của Hà Lan như ING, ABN AMRO và Rabobank có hoạt động mạnh mẽ cả trong nước và quốc tế. Ngành bảo hiểm và quản lý tài sản cũng rất phát triển.
- Du lịch: Hà Lan thu hút hàng triệu du khách mỗi năm nhờ các thành phố lịch sử, các kênh đào đẹp như tranh vẽ, các bảo tàng nổi tiếng thế giới, các cánh đồng hoa tulip và các cối xay gió mang tính biểu tượng. Amsterdam là một trong những điểm đến du lịch hàng đầu châu Âu.
- Dịch vụ Kinh doanh và Chuyên nghiệp: Bao gồm các dịch vụ tư vấn, pháp lý, kế toán, quảng cáo và công nghệ thông tin. Hà Lan có một lực lượng lao động có tay nghề cao và môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút nhiều công ty đa quốc gia đặt trụ sở khu vực tại đây.
- Thương mại Bán buôn và Bán lẻ: Ngành thương mại đóng vai trò quan trọng, phản ánh vị thế lịch sử của Hà Lan là một quốc gia thương mại.
Chính phủ Hà Lan chú trọng đến việc duy trì tính cạnh tranh của ngành dịch vụ, thúc đẩy đổi mới và đảm bảo một môi trường pháp lý ổn định. Đồng thời, các vấn đề về đạo đức kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng và tác động xã hội của ngành tài chính cũng được quan tâm.
6.2.4. Năng lượng (Khí tự nhiên)


Bắt đầu từ những năm 1950, Hà Lan đã phát hiện ra trữ lượng khí tự nhiên khổng lồ. Việc bán khí tự nhiên đã tạo ra doanh thu khổng lồ cho Hà Lan trong nhiều thập kỷ, đóng góp hàng trăm tỷ euro vào ngân sách chính phủ trong hơn sáu mươi năm, khoảng 1,5% GNP. Tuy nhiên, những hậu quả không lường trước được của sự giàu có về năng lượng của đất nước đã ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các ngành kinh tế khác, dẫn đến lý thuyết về căn bệnh Hà Lan. Mỏ khí này do Gasunie thuộc sở hữu nhà nước vận hành và sản lượng được khai thác chung bởi chính phủ, Royal Dutch Shell và ExxonMobil. Việc khai thác khí đốt đã gây ra các trận động đất làm hư hại nhà cửa. Sau một phản ứng dữ dội của công chúng, chính phủ đã quyết định loại bỏ dần việc khai thác khí đốt từ mỏ này.
Hà Lan đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế trung hòa carbon. Nhờ hiệu quả năng lượng ngày càng tăng, nhu cầu năng lượng có dấu hiệu tách rời khỏi tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng năng lượng từ các nguồn tái tạo đã tăng gấp đôi từ năm 2008 đến 2019, với sự tăng trưởng đặc biệt mạnh mẽ trong điện gió ngoài khơi và điện mặt trời trên mái nhà. Tuy nhiên, Hà Lan vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch và có sự tập trung của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng và phát thải cao, vốn sẽ không dễ dàng để khử cacbon. Thỏa thuận Khí hậu năm 2019 của nước này xác định các chính sách và biện pháp hỗ trợ việc đạt được các mục tiêu khí hậu của Hà Lan và được phát triển thông qua một quy trình hợp tác có sự tham gia của các bên từ khắp xã hội Hà Lan. Tính đến năm 2018, Hà Lan có một trong những tỷ lệ carbon dioxide phát thải bình quân đầu người cao nhất trong Liên minh châu Âu.
Các chính sách năng lượng tái tạo đang được thúc đẩy mạnh mẽ, bao gồm các ưu đãi cho việc lắp đặt các tấm pin mặt trời, phát triển các trang trại điện gió và nghiên cứu các công nghệ năng lượng mới. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này cũng đối mặt với những thách thức về chi phí, cơ sở hạ tầng và sự chấp nhận của công chúng. Các mối quan tâm về tác động môi trường của việc khai thác khí tự nhiên và sự cần thiết phải đảm bảo an ninh năng lượng trong quá trình chuyển đổi là những vấn đề quan trọng trong các cuộc tranh luận chính sách.
6.3. Thương mại và Đầu tư
Là một quốc gia có lịch sử hàng hải và thương mại lâu đời, Hà Lan duy trì vị thế là một trung tâm thương mại và đầu tư quốc tế quan trọng. Nền kinh tế mở của Hà Lan phụ thuộc nhiều vào xuất nhập khẩu.
Thương mại:
Hà Lan là một trong những quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chính bao gồm máy móc và thiết bị vận tải, hóa chất, nhiên liệu khoáng, thực phẩm và động vật sống, và các sản phẩm chế tạo. Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và đóng vai trò là cửa ngõ quan trọng cho hàng hóa ra vào lục địa. Sân bay Amsterdam Schiphol cũng là một trung tâm vận chuyển hàng hóa hàng không lớn.
Các đối tác thương mại chính của Hà Lan bao gồm các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (đặc biệt là Đức, Bỉ, Pháp), Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Thương mại với các nền kinh tế mới nổi ở châu Á và các khu vực khác cũng ngày càng tăng.
Đầu tư:
Hà Lan là một điểm đến hấp dẫn cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ môi trường kinh doanh thuận lợi, cơ sở hạ tầng phát triển, lực lượng lao động có tay nghề cao và vị trí chiến lược. Nhiều công ty đa quốc gia đã chọn Hà Lan làm địa điểm đặt trụ sở chính hoặc các trung tâm hoạt động châu Âu của họ. Chính phủ Hà Lan có các chính sách khuyến khích đầu tư, bao gồm các ưu đãi về thuế và một hệ thống pháp lý ổn định.
Ngược lại, các công ty Hà Lan cũng là những nhà đầu tư lớn ở nước ngoài. Các lĩnh vực đầu tư chính bao gồm dịch vụ tài chính, năng lượng, hóa chất và sản xuất.
Hà Lan tích cực tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và ủng hộ các hiệp định thương mại tự do. Chính sách thương mại của nước này thường nhấn mạnh tầm quan trọng của một sân chơi bình đẳng và các quy tắc thương mại dựa trên luật lệ. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận về tác động xã hội và môi trường của thương mại toàn cầu, cũng như các vấn đề về công bằng thương mại, cũng ngày càng được quan tâm.
6.4. Giao thông và Logistics

Hà Lan có một hệ thống giao thông và logistics phát triển cao và hiệu quả, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và vị thế là một trung tâm thương mại của châu Âu.
- Đường bộ: Hà Lan sở hữu một mạng lưới đường bộ dày đặc và chất lượng cao, bao gồm các đường cao tốc (autosnelwegen) hiện đại. Việc di chuyển bằng ô tô chiếm phần lớn trong tổng số các chuyến đi. Chính phủ đang thúc đẩy việc sử dụng xe điện với nhiều trạm sạc và các chính sách ưu đãi.
- Đường sắt: Mạng lưới đường sắt cũng rất phát triển, kết nối hầu hết các thành phố và thị trấn. Nederlandse Spoorwegen (NS) là nhà điều hành đường sắt chính. Tàu hỏa hoạt động thường xuyên và đúng giờ. Các tuyến đường sắt cao tốc quốc tế kết nối Hà Lan với các thành phố lớn khác ở châu Âu.
- Đường thủy: Với hệ thống kênh đào và sông ngòi chằng chịt, vận tải đường thủy nội địa đóng một vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa. Cảng Rotterdam là cảng biển lớn nhất châu Âu và là một trung tâm logistics toàn cầu. Cảng Amsterdam cũng là một cảng quan trọng.
- Hàng không: Sân bay Amsterdam Schiphol là một trong những sân bay bận rộn nhất châu Âu, phục vụ như một trung tâm trung chuyển hành khách và hàng hóa quốc tế lớn. Các sân bay nhỏ hơn khác như Sân bay Eindhoven và Sân bay Rotterdam The Hague cũng phục vụ các chuyến bay trong và ngoài châu Âu.
- Xe đạp: Xe đạp là một phương tiện giao thông cực kỳ phổ biến và là một phần không thể thiếu trong văn hóa Hà Lan. Quốc gia này có một hạ tầng dành cho xe đạp tuyệt vời, với hàng ngàn km làn đường dành riêng cho xe đạp, các điểm đỗ xe đạp rộng rãi và các biển báo, tín hiệu giao thông ưu tiên cho xe đạp. Nhiều người dân sử dụng xe đạp cho các chuyến đi hàng ngày, đi làm, đi học hoặc giải trí.
Hệ thống logistics của Hà Lan được đánh giá cao trên toàn cầu nhờ vào sự kết hợp giữa cơ sở hạ tầng hiện đại, công nghệ tiên tiến và vị trí địa lý thuận lợi. Các công ty logistics của Hà Lan đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính phủ tiếp tục đầu tư vào việc cải thiện và mở rộng cơ sở hạ tầng giao thông, đồng thời thúc đẩy các giải pháp giao thông bền vững và thân thiện với môi trường.
6.5. Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo
Hà Lan có một truyền thống lâu đời về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đóng góp đáng kể vào sự tiến bộ toàn cầu trong nhiều lĩnh vực. Quốc gia này được xếp hạng cao trong các chỉ số đổi mới quốc tế.
- Đầu tư vào Nghiên cứu và Phát triển (R&D): Cả khu vực công và tư nhân ở Hà Lan đều đầu tư đáng kể vào R&D. Chính phủ có các chính sách khuyến khích R&D thông qua các ưu đãi thuế, tài trợ và các chương trình hợp tác. Các trường đại học và viện nghiên cứu của Hà Lan nổi tiếng thế giới về chất lượng nghiên cứu.
- Các lĩnh vực đổi mới chính:
- Công nghệ cao và Hệ thống: Đặc biệt mạnh mẽ trong lĩnh vực bán dẫn (với công ty hàng đầu thế giới ASML), công nghệ y tế, quang học, và các hệ thống sản xuất tiên tiến. Khu vực Brainport Eindhoven là một trung tâm công nghệ cao nổi tiếng.
- Nông nghiệp và Thực phẩm (Agri-food): Hà Lan là một trong những nhà xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới, nhờ vào việc áp dụng công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp, bao gồm canh tác nhà kính, công nghệ sinh học và logistics thực phẩm.
- Khoa học Đời sống và Sức khỏe: Lĩnh vực này bao gồm dược phẩm, công nghệ sinh học y tế, và thiết bị y tế. Hà Lan có nhiều cụm nghiên cứu và bệnh viện đại học hàng đầu.
- Quản lý Nước và Công nghệ Môi trường: Với lịch sử lâu dài chống chọi với biển cả, Hà Lan đã phát triển các công nghệ tiên tiến trong quản lý nước, kiểm soát lũ lụt và các giải pháp môi trường bền vững.
- Công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT): Ngành ICT phát triển mạnh mẽ, với các công ty chuyên về phần mềm, dịch vụ dữ liệu và an ninh mạng.
- Năng lượng Tái tạo và Bền vững: Hà Lan đang đẩy mạnh đầu tư vào năng lượng gió, năng lượng mặt trời và các công nghệ năng lượng sạch khác nhằm đạt được các mục tiêu về khí hậu.
- Thành tựu: Hà Lan đã sản sinh ra nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel và có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực như vật lý (ví dụ: khám phá sóng hấp dẫn), hóa học, y học và kinh tế. Các nhà khoa học Hà Lan như Christiaan Huygens (vật lý, thiên văn học) và Antonie van Leeuwenhoek (vi sinh vật học) là những nhân vật lịch sử nổi tiếng.
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Hà Lan được đặc trưng bởi sự hợp tác chặt chẽ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và chính phủ (mô hình "tam giác vàng"). Các cụm công nghiệp và công viên khoa học tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
7. Xã hội
Xã hội Hà Lan được biết đến với tính đa dạng, khoan dung và hệ thống phúc lợi phát triển. Tuy nhiên, quốc gia này cũng đối mặt với những thách thức liên quan đến hội nhập, bình đẳng và duy trì các giá trị dân chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa.
7.1. Dân số

Tính đến ngày 31 tháng 11 năm 2023, Hà Lan có dân số ước tính là 17.947.406 người. Đây là quốc gia có mật độ dân số cao thứ 6 ở châu Âu và là quốc gia có mật độ dân số cao thứ 33 trên thế giới với mật độ 424 người/km2. Từ năm 1900 đến 1950, dân số nước này gần như tăng gấp đôi từ 5,1 lên 10 triệu người. Từ năm 1950 đến 2000, dân số tiếp tục tăng lên 15,9 triệu người.
Tỷ suất sinh ở Hà Lan là 1,78 trẻ em trên một phụ nữ (ước tính năm 2018), cao so với nhiều nước châu Âu khác, nhưng thấp hơn mức 2,1 trẻ em trên một phụ nữ cần thiết để thay thế dân số tự nhiên. Hà Lan là một trong những quốc gia có dân số già nhất thế giới, với độ tuổi trung bình là 42,7 tuổi. Tuổi thọ trung bình ở Hà Lan cao: 84,3 tuổi đối với nữ và 79,7 tuổi đối với nam (ước tính năm 2020). Người Hà Lan là những người cao nhất thế giới theo quốc tịch, với chiều cao trung bình là 1.81 m đối với nam và 1.67 m đối với nữ vào năm 2009. Chiều cao trung bình của nam thanh niên ở Hà Lan đã tăng từ 5 feet, 4 inch lên khoảng 6 feet từ những năm 1850 đến đầu những năm 2000.
Nước này có tỷ lệ di cư là 1,9 người di cư trên 1.000 dân mỗi năm. Phần lớn dân số Hà Lan là người gốc Hà Lan. Năm 2022, dân số có 74,8% là người gốc Hà Lan, 8,3% là người châu Âu khác, 2,4% là người Thổ Nhĩ Kỳ, 2,4% là người Maroc, 2,0% là người Indonesia, 2,0% là người Suriname, và 8,1% là các nhóm khác. Khoảng 150.000 đến 200.000 người sống ở Hà Lan là người nước ngoài, chủ yếu tập trung ở và xung quanh Amsterdam và Den Haag, hiện chiếm gần 10% dân số các thành phố này. Các dân tộc thiểu số đáng kể trong nước bao gồm người Frisia (700.000), người Do Thái (41.000-45.000) và người Roma và Sinti (40.000).

Theo Eurostat, năm 2010 có 1,8 triệu cư dân sinh ra ở nước ngoài ở Hà Lan, tương ứng với 11,1% tổng dân số. Trong số này, 1,4 triệu người (8,5%) sinh ra bên ngoài EU và 0,43 triệu người (2,6%) sinh ra ở một quốc gia thành viên EU khác. Năm 2022, có 4,4 triệu cư dân ở Hà Lan có ít nhất một phụ huynh sinh ra ở nước ngoài. Hơn một nửa thanh niên ở Amsterdam và Rotterdam có nguồn gốc không phải phương Tây. Người Hà Lan, hoặc con cháu của người Hà Lan, được tìm thấy trong các cộng đồng di cư trên toàn thế giới, đặc biệt là ở Nam Phi và Hoa Kỳ.
Randstad là chùm đô thị lớn nhất của đất nước nằm ở phía tây và bao gồm bốn thành phố lớn nhất: Amsterdam thuộc tỉnh Bắc Holland, Rotterdam và Den Haag thuộc tỉnh Nam Holland, và Utrecht thuộc tỉnh Utrecht. Randstad có dân số khoảng 8,2 triệu người và là khu vực đô thị lớn thứ 5 ở châu Âu. Theo Cục Thống kê Trung ương Hà Lan, năm 2015, 28% dân số Hà Lan có thu nhập khả dụng trên 45.000 euro (không bao gồm chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe hoặc giáo dục).
Thành phố | Tỉnh | Dân số (2024) |
---|---|---|
Amsterdam | Bắc Holland | 931.298 |
Rotterdam | Nam Holland | 670.610 |
Den Haag | Nam Holland | 566.221 |
Utrecht | Utrecht | 374.238 |
Eindhoven | Bắc Brabant | 246.417 |
Groningen | Groningen | 243.768 |
Tilburg | Bắc Brabant | 229.836 |
Almere | Flevoland | 226.500 |
Breda | Bắc Brabant | 188.078 |
Nijmegen | Gelderland | 187.049 |
Apeldoorn | Gelderland | 168.211 |
Haarlem | Bắc Holland | 167.636 |
Arnhem | Gelderland | 167.632 |
Haarlemmermeer | Bắc Holland | 163.128 |
Amersfoort | Utrecht | 161.852 |
Enschede | Overijssel | 161.738 |
Zaanstad | Bắc Holland | 161.389 |
's-Hertogenbosch | Bắc Brabant | 160.757 |
Zwolle | Overijssel | 133.141 |
Leeuwarden | Friesland | 128.810 |
7.1.1. Thành phần dân tộc và Nhập cư
Hà Lan là một xã hội đa văn hóa, với lịch sử nhập cư lâu dài. Thành phần dân tộc chính là người Hà Lan bản địa. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, các làn sóng nhập cư từ các thuộc địa cũ (như Indonesia, Suriname), các quốc gia châu Âu khác (đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Maroc trong những năm 1960 và 1970 với tư cách là lao động khách), và gần đây hơn là từ các khu vực xung đột và các quốc gia thành viên mới của Liên minh châu Âu, đã làm phong phú thêm sự đa dạng dân tộc của đất nước.
Theo số liệu năm 2022, khoảng 74% dân số là người Hà Lan bản địa. Các nhóm dân tộc thiểu số lớn khác bao gồm người gốc Thổ Nhĩ Kỳ (2,4%), người gốc Maroc (2,4%), người gốc Indonesia (2,1%), và người gốc Suriname (2,1%). Ngoài ra còn có một tỷ lệ đáng kể người dân có nguồn gốc từ các quốc gia châu Âu khác và các khu vực khác trên thế giới. Các thành phố lớn như Amsterdam và Rotterdam đặc biệt đa dạng về sắc tộc, với hơn một nửa thanh niên có nguồn gốc không phải phương Tây.
Chính sách nhập cư và hội nhập của Hà Lan đã trải qua nhiều thay đổi. Ban đầu, chính sách tập trung vào chủ nghĩa đa văn hóa, khuyến khích các nhóm thiểu số duy trì bản sắc văn hóa của họ. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, đã có sự chuyển dịch sang các chính sách nhấn mạnh hơn vào hội nhập và yêu cầu người nhập cư học tiếng Hà Lan và tìm hiểu về các giá trị xã hội Hà Lan. Các cuộc tranh luận về nhập cư, hội nhập, và bản sắc dân tộc thường xuyên diễn ra trong đời sống chính trị và xã hội.
Người nhập cư và các nhóm thiểu số đã có những đóng góp quan trọng cho xã hội và kinh tế Hà Lan. Tuy nhiên, họ cũng phải đối mặt với những thách thức như phân biệt đối xử, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường lao động và giáo dục, và các vấn đề liên quan đến bản sắc và sự gắn kết xã hội. Việc đảm bảo quyền bình đẳng, cơ hội công bằng và sự chung sống hài hòa giữa các nhóm dân tộc khác nhau là một mục tiêu quan trọng của chính sách xã hội Hà Lan, phản ánh các giá trị dân chủ và bảo vệ các nhóm thiểu số.
7.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ chính thức của Hà Lan là tiếng Hà Lan, được đại đa số cư dân sử dụng. Các phương ngữ được nói nhiều nhất ở Hà Lan là các phương ngữ Brabantian-Hollandic.
Ngoài tiếng Hà Lan, tiếng Tây Frisia được công nhận là ngôn ngữ chính thức thứ hai ở tỉnh phía bắc Friesland (FryslânWestern Frisian trong tiếng Tây Frisia). Tiếng Tây Frisia có vị thế chính thức trong giao tiếp chính phủ ở tỉnh đó. Bốn ngôn ngữ khác được bảo vệ theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực hoặc thiểu số. Ngôn ngữ khu vực được công nhận đầu tiên trong số này là tiếng Hạ Sachsen (NedersaksischDutch). Tiếng Hạ Sachsen bao gồm một số phương ngữ của tiếng Hạ Đức được nói ở phía bắc và phía đông Hà Lan, như phương ngữ Twents ở vùng Twente, và phương ngữ Drents ở tỉnh Drenthe.
Tiếng Limburg được công nhận là một ngôn ngữ khu vực. Nó bao gồm các biến thể tiếng Hà Lan của tiếng Meuse-Rhenish và được nói ở tỉnh phía đông nam Limburg. Tiếng Yiddish và tiếng Romani được công nhận vào năm 1996 là các ngôn ngữ phi lãnh thổ.
Tiếng Anh có vị thế chính thức tại các khu tự quản đặc biệt Saba và Sint Eustatius. Nó được sử dụng rộng rãi trên các đảo này. Tiếng Papiamento có vị thế chính thức tại khu tự quản đặc biệt Bonaire.
Hà Lan có truyền thống lâu đời về việc học ngoại ngữ, được chính thức hóa trong luật giáo dục Hà Lan. Khoảng 90% tổng dân số có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, 70% bằng tiếng Đức và 29% bằng tiếng Pháp. Tiếng Anh là một môn học bắt buộc trong tất cả các trường trung học. Trong hầu hết các trường trung học cơ sở (voorbereidend middelbaar beroepsonderwijsVMBODutch), một ngoại ngữ hiện đại bổ sung là bắt buộc trong hai năm đầu. Trong các trường trung học phổ thông (hoger algemeen voortgezet onderwijsHAVODutch và voorbereidend wetenschappelijk onderwijsVWODutch), việc học hai kỹ năng ngoại ngữ hiện đại bổ sung là bắt buộc. Ngoài tiếng Anh, các ngôn ngữ hiện đại tiêu chuẩn là tiếng Pháp và tiếng Đức, mặc dù các trường có thể thay thế một trong số này bằng tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Ý, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hoặc tiếng Ả Rập. Ngoài ra, các trường ở Friesland dạy và có các kỳ thi bằng tiếng Tây Frisia.
7.3. Tôn giáo
Năm 2020, theo Statistics Netherlands, 55,4% tổng dân số tuyên bố mình không theo tôn giáo. Người Công giáo chiếm 19,8% tổng dân số, người Tin Lành 14,4%. Người Hồi giáo chiếm 5,2% tổng dân số và những người theo các giáo phái Kitô giáo khác và các tôn giáo khác (như Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo) chiếm 5,1% còn lại.
Các hình thức của Kitô giáo đã chi phối đời sống tôn giáo ở khu vực ngày nay là Hà Lan trong hơn 1.200 năm, và vào giữa thế kỷ XVI, đất nước này đã mạnh mẽ theo Tin Lành (Calvinist). Dân số chủ yếu là Kitô hữu cho đến cuối thế kỷ 20. Mặc dù sự đa dạng tôn giáo đáng kể vẫn còn tồn tại, đã có sự suy giảm về mức độ gắn bó tôn giáo. Một cuộc khảo sát năm 2015 từ một nguồn khác cho thấy số người Tin Lành đông hơn người Công giáo.
Các tỉnh phía nam Noord-Brabant và Limburg trong lịch sử có truyền thống Công giáo mạnh mẽ, và một số cư dân coi Nhà thờ Công giáo là nền tảng cho bản sắc văn hóa của họ. Tin Lành ở Hà Lan bao gồm một số nhà thờ thuộc các truyền thống khác nhau. Lớn nhất trong số này là Giáo hội Tin Lành ở Hà Lan (PKN), một giáo hội hợp nhất có định hướng Calvinist và Lutheran. Nó được thành lập vào năm 2004 từ sự hợp nhất của Giáo hội Cải cách Hà Lan, Các Giáo hội Cải cách ở Hà Lan và một giáo hội Lutheran nhỏ hơn. Một số giáo hội Calvinist chính thống và tự do không hợp nhất vào PKN. Mặc dù Kitô giáo đã trở thành thiểu số ở Hà Lan, nước này vẫn có một Vành đai Kinh Thánh từ Zeeland đến các phần phía bắc của tỉnh Overijssel, nơi niềm tin Tin Lành vẫn mạnh mẽ. Một số ngày lễ tôn giáo Kitô giáo là ngày lễ quốc gia (Giáng sinh, Phục sinh, Lễ Ngũ Tuần, và Lễ Thăng Thiên).
Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai trong tiểu bang. Dân số Hồi giáo tăng từ những năm 1960 do một số lượng lớn lao động nhập cư. Điều này bao gồm các lao động nhập cư từ Thổ Nhĩ Kỳ và Maroc, cũng như những người di cư từ các thuộc địa cũ của Hà Lan, chẳng hạn như Surinam và Indonesia. Trong những năm 1990, những người tị nạn Hồi giáo đã đến từ các quốc gia như Bosna và Hercegovina, Iran, Iraq, Somalia và Afghanistan. Từ năm 2000 đã có sự nhận thức ngày càng tăng về tôn giáo, chủ yếu là do chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo.
Một tôn giáo khác được thực hành là Ấn Độ giáo, với khoảng 215.000 tín đồ (hơn 1% dân số). Hầu hết trong số này là Người Ấn-Suriname. Có một lượng đáng kể người nhập cư theo Ấn Độ giáo từ Ấn Độ và Sri Lanka, và những người phương Tây theo các phong trào tôn giáo mới định hướng Ấn Độ giáo như Hare Krishnas. Hà Lan có khoảng 250.000 Phật tử hoặc những người bị thu hút mạnh mẽ bởi tôn giáo này, chủ yếu là người Hà Lan bản địa. Có khoảng 30.000 người Do Thái ở Hà Lan, mặc dù Viện Nghiên cứu Chính sách Do Thái ước tính dao động từ 30.000 đến 63.000, tùy thuộc vào cách tính số lượng.
Hiến pháp Hà Lan đảm bảo tự do giáo dục, có nghĩa là tất cả các trường học tuân thủ các tiêu chí chất lượng chung đều nhận được tài trợ như nhau của chính phủ. Điều này bao gồm các trường học dựa trên các nguyên tắc tôn giáo của các nhóm tôn giáo (đặc biệt là Công giáo và Tin Lành). Ba đảng chính trị trong quốc hội Hà Lan, (CDA, và hai đảng nhỏ, ChristianUnion và SGP) dựa trên niềm tin Kitô giáo.
Một cuộc khảo sát vào tháng 12 năm 2014 kết luận rằng lần đầu tiên có nhiều người vô thần (25%) hơn người hữu thần (17%) ở Hà Lan, trong khi phần còn lại của dân số là bất khả tri (31%) hoặc ietsistic (27%). Năm 2015, đại đa số cư dân Hà Lan (82%) cho biết họ chưa bao giờ hoặc gần như chưa bao giờ đến nhà thờ, và 59% cho biết họ chưa bao giờ đến nhà thờ. Trong số tất cả những người được hỏi, 24% tự coi mình là người vô thần, tăng 11% so với nghiên cứu trước đó được thực hiện vào năm 2006. Sự gia tăng dự kiến của tâm linh đã dừng lại theo nghiên cứu năm 2015. Năm 2006, 40% số người được hỏi tự coi mình là người tâm linh; năm 2015, con số này đã giảm xuống còn 31%. Số người tin vào sự tồn tại của một thế lực siêu nhiên đã giảm từ 36% xuống 28% trong cùng thời kỳ.
7.4. Hệ thống giáo dục

Giáo dục ở Hà Lan là bắt buộc đối với trẻ em từ 5 đến 16 tuổi. Nếu một đứa trẻ không có "bằng cấp khởi đầu" (bằng HAVO, VWO hoặc MBO 2+) thì chúng vẫn phải đi học cho đến khi đạt được bằng cấp đó hoặc đến 18 tuổi.
Trẻ em ở Hà Lan đi học tiểu học từ (trung bình) 4 đến 12 tuổi. Trường có tám lớp và lớp đầu tiên là tự chọn. Dựa trên bài kiểm tra năng lực, khuyến nghị của giáo viên lớp tám và ý kiến của phụ huynh hoặc người chăm sóc học sinh, một lựa chọn sẽ được đưa ra cho một trong ba luồng giáo dục trung học chính.
VMBO có bốn lớp và được chia thành nhiều cấp độ. Hoàn thành VMBO thành công sẽ nhận được bằng nghề cấp thấp, cho phép tiếp cận MBO. MBO (giáo dục ứng dụng cấp trung) là một hình thức giáo dục chủ yếu tập trung vào việc giảng dạy một nghề thực hành hoặc một bằng cấp nghề. Với chứng chỉ MBO, sinh viên có thể nộp đơn vào HBO. HAVO có 5 lớp và cho phép nhập học HBO. HBO (giáo dục chuyên nghiệp cao hơn) là các trường đại học giáo dục chuyên nghiệp (khoa học ứng dụng) cấp bằng cử nhân chuyên nghiệp; tương tự như bằng tốt nghiệp trường bách khoa. Bằng HBO cho phép tiếp cận hệ thống đại học. VWO (bao gồm atheneum và gymnasium) có 6 lớp và chuẩn bị cho việc học tập tại một trường đại học nghiên cứu. Các trường đại học cung cấp bằng cử nhân ba năm, sau đó là bằng thạc sĩ một hoặc hai năm, và sau đó có thể theo chương trình tiến sĩ.
Các ứng viên tiến sĩ ở Hà Lan thường là nhân viên không thường xuyên của một trường đại học. Tất cả các trường học và trường đại học Hà Lan đều được tài trợ công và quản lý, ngoại trừ các trường tôn giáo. Các trường đại học Hà Lan có học phí khoảng 2.00 K EUR một năm cho sinh viên từ Hà Lan và EU, và khoảng 10.00 K EUR đến 15.00 K EUR một năm cho sinh viên ngoài EU.
7.5. Y tế

Năm 2016, Hà Lan duy trì vị trí dẫn đầu trong Chỉ số Người tiêu dùng Y tế châu Âu (EHCI) hàng năm, so sánh các hệ thống y tế ở châu Âu, đạt 916 trên tổng số 1.000 điểm. Hà Lan luôn nằm trong top ba quốc gia trong mỗi báo cáo được công bố kể từ năm 2005. Trên 48 chỉ số như quyền và thông tin của bệnh nhân, khả năng tiếp cận, phòng ngừa và kết quả, Hà Lan đã đảm bảo vị trí hàng đầu của mình trong số 37 quốc gia châu Âu trong sáu năm liên tiếp.
Hà Lan được xếp hạng nhất trong một nghiên cứu năm 2009 so sánh hệ thống y tế của Hoa Kỳ, Úc, Canada, Đức và New Zealand.
Theo Health Consumer Powerhouse (HCP), bệnh nhân có quyền tự do rất lớn trong việc lựa chọn nơi mua bảo hiểm y tế, đến nơi họ được chăm sóc sức khỏe. Các quyết định chăm sóc sức khỏe được đưa ra thông qua đối thoại giữa bệnh nhân và các chuyên gia y tế. Chăm sóc sức khỏe ở Hà Lan được chia thành 3 lĩnh vực: chăm sóc sức khỏe thể chất và tâm thần, và 'chữa bệnh' (ngắn hạn) và 'chăm sóc' (dài hạn). Các bác sĩ gia đình (huisartsenDutch, tương đương với bác sĩ đa khoa) chiếm phần lớn nhất của cấp độ đầu tiên. Việc được giới thiệu bởi một thành viên của cấp độ đầu tiên là bắt buộc để tiếp cận cấp độ thứ hai và thứ ba. Hệ thống chăm sóc sức khỏe, so với các nước phương Tây khác, có hiệu quả nhưng không phải là hiệu quả nhất về chi phí.
Chăm sóc sức khỏe được tài trợ bởi một hệ thống kép có hiệu lực từ tháng 1 năm 2006. Các phương pháp điều trị dài hạn, đặc biệt là những phương pháp liên quan đến việc nhập viện bán thường xuyên, và các chi phí liên quan đến khuyết tật như xe lăn, được chi trả bởi một bảo hiểm bắt buộc do nhà nước kiểm soát. Năm 2009, loại bảo hiểm này chiếm 27% tổng chi phí chăm sóc sức khỏe. Các nguồn thanh toán chăm sóc sức khỏe khác là thuế (14%), thanh toán trực tiếp (9%), các gói bảo hiểm y tế tùy chọn bổ sung (4%) và một loạt các nguồn khác (4%).
Bảo hiểm y tế ở Hà Lan là bắt buộc. Chăm sóc sức khỏe ở Hà Lan được bao phủ bởi hai hình thức bảo hiểm theo luật định:
- Zorgverzekeringswet (ZVW), thường được gọi là "bảo hiểm cơ bản", bao gồm chăm sóc y tế thông thường.
- Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten (AWBZ) bao gồm chăm sóc điều dưỡng và chăm sóc dài hạn.
Trong khi người dân Hà Lan được chính phủ tự động bảo hiểm AWBZ, mọi người phải tự mua bảo hiểm y tế cơ bản của mình, ngoại trừ những người dưới 18 tuổi được tự động bảo hiểm theo cha mẹ. Các công ty bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp một gói với một bộ các phương pháp điều trị được bảo hiểm xác định. Bảo hiểm này chiếm 41% tổng chi phí chăm sóc sức khỏe. Các công ty bảo hiểm phải cung cấp một gói phổ thông cho mọi người trên 18 tuổi, bất kể tuổi tác hay tình trạng sức khỏe - việc từ chối đơn đăng ký hoặc áp đặt các điều kiện đặc biệt là bất hợp pháp. Gánh nặng tài trợ cho tất cả các chi phí chăm sóc sức khỏe ngắn hạn được chia sẻ 50% bởi người sử dụng lao động, 45% bởi người được bảo hiểm và 5% bởi chính phủ. Những người có thu nhập thấp nhận được bồi thường để giúp họ thanh toán bảo hiểm. Phí bảo hiểm do người được bảo hiểm trả là khoảng 135 EUR mỗi tháng.
7.6. Hệ thống phúc lợi và Thị trường lao động
Hà Lan nổi tiếng với hệ thống phúc lợi xã hội toàn diện và một thị trường lao động năng động. Các chính sách xã hội nhằm đảm bảo một mức sống cơ bản cho mọi công dân, trong khi thị trường lao động được đặc trưng bởi tính linh hoạt và tỷ lệ tham gia lao động cao, đặc biệt là lao động bán thời gian.
Hệ thống phúc lợi xã hội:
Hệ thống phúc lợi của Hà Lan bao gồm một loạt các chương trình bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã hội. Các chương trình này bao gồm:
- Bảo hiểm thất nghiệp (WW): Cung cấp trợ cấp cho những người mất việc làm ngoài ý muốn.
- Bảo hiểm bệnh tật (ZW): Chi trả cho người lao động không thể làm việc do bệnh tật.
- Bảo hiểm mất khả năng lao động (WIA): Dành cho những người không thể làm việc do bệnh tật hoặc khuyết tật dài hạn.
- Trợ cấp hưu trí cơ bản (AOW): Một khoản lương hưu nhà nước được trả cho tất cả công dân khi đến tuổi nghỉ hưu.
- Trợ cấp trẻ em (AKW): Hỗ trợ tài chính cho các gia đình có con nhỏ.
- Trợ cấp xã hội (Bijstand): Một mạng lưới an toàn cuối cùng cho những người không đủ điều kiện nhận các hình thức trợ cấp khác và không có đủ phương tiện để tự nuôi sống.
Hệ thống này được tài trợ thông qua các khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, cũng như từ ngân sách nhà nước. Mục tiêu là cung cấp sự bảo vệ chống lại các rủi ro xã hội và thúc đẩy sự tham gia của công dân vào xã hội.
Thị trường lao động:
Thị trường lao động Hà Lan có một số đặc điểm nổi bật:
- Tỷ lệ tham gia lao động cao: Đặc biệt là ở phụ nữ.
- Lao động bán thời gian phổ biến: Hà Lan có một trong những tỷ lệ lao động bán thời gian cao nhất thế giới. Điều này mang lại sự linh hoạt cho cả người lao động và người sử dụng lao động, nhưng cũng đặt ra những câu hỏi về chất lượng việc làm và an sinh xã hội cho lao động bán thời gian.
- Thỏa ước lao động tập thể: Các thỏa ước lao động tập thể (CAO) đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tiền lương và điều kiện làm việc trong nhiều ngành. Các thỏa ước này thường được đàm phán giữa các tổ chức công đoàn và các hiệp hội người sử dụng lao động.
- Tính linh hoạt: Thị trường lao động Hà Lan tương đối linh hoạt, với sự gia tăng của các hình thức việc làm không theo tiêu chuẩn như hợp đồng tạm thời và lao động tự do.
Chính phủ Hà Lan và các đối tác xã hội (công đoàn và tổ chức người sử dụng lao động) thường xuyên thảo luận và điều chỉnh các chính sách nhằm cân bằng giữa tính linh hoạt của thị trường lao động và an sinh cho người lao động. Các vấn đề như công bằng xã hội, quyền lao động, đào tạo và nâng cao kỹ năng, và sự hội nhập của các nhóm yếu thế vào thị trường lao động là những chủ đề quan trọng. Mô hình "Mô hình Polder", đặc trưng bởi sự đồng thuận và hợp tác giữa các đối tác xã hội, là một yếu tố quan trọng trong việc định hình chính sách kinh tế và xã hội của Hà Lan.
7.7. Khoan dung xã hội và Các vấn đề chính
Hà Lan có một truyền thống lâu đời về khoan dung xã hội, được phản ánh trong các chính sách và luật pháp tiến bộ về nhiều vấn đề xã hội. Tuy nhiên, sự khoan dung này không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với sự chấp nhận hoàn toàn và các cuộc tranh luận xã hội vẫn tiếp diễn.
- Quyền LGBT: Hà Lan là quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào năm 2001. Quyền của người LGBT được bảo vệ rộng rãi, và xã hội nhìn chung cởi mở với sự đa dạng về xu hướng tính dục và bản dạng giới. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức liên quan đến phân biệt đối xử và sự chấp nhận ở một số bộ phận dân cư.
- Trợ tử (Euthanasia): Hà Lan có luật cho phép trợ tử và hỗ trợ tự sát trong những điều kiện nghiêm ngặt. Quyết định này phải dựa trên yêu cầu tự nguyện và được cân nhắc kỹ lưỡng của bệnh nhân, tình trạng y tế không thể chịu đựng và không có triển vọng cải thiện, và sự tư vấn của nhiều bác sĩ. Chính sách này phản ánh sự tôn trọng quyền tự quyết của cá nhân nhưng cũng gây ra nhiều tranh luận về đạo đức.
- Ma túy: Chính sách ma túy của Hà Lan phân biệt giữa ma túy "mềm" (như cần sa) và ma túy "cứng" (như heroin, cocain). Việc sở hữu một lượng nhỏ cần sa cho mục đích cá nhân được phi hình sự hóa, và việc bán cần sa được phép tại các "coffeeshop" được cấp phép và quản lý chặt chẽ. Mục tiêu của chính sách này là tách biệt thị trường ma túy mềm và cứng, giảm thiểu tác hại liên quan đến sử dụng ma túy và tập trung vào việc phòng chống và điều trị nghiện. Tuy nhiên, chính sách này cũng gây ra các vấn đề như "du lịch ma túy" và tội phạm có tổ chức.
- Tự do cá nhân: Quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do tín ngưỡng được bảo vệ mạnh mẽ. Tuy nhiên, giới hạn của các quyền tự do này, đặc biệt là khi chúng xung đột với các giá trị khác như an ninh công cộng hoặc quyền của các nhóm thiểu số, vẫn là chủ đề tranh luận.
- Mại dâm: Mại dâm là hợp pháp và được quản lý ở Hà Lan. Mục tiêu là bảo vệ quyền và sức khỏe của người bán dâm, đồng thời chống lại nạn buôn người và tội phạm có tổ chức. Khu đèn đỏ ở Amsterdam là một ví dụ nổi tiếng.
Các vấn đề nhân quyền khác, như chống phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính hoặc tôn giáo, và bảo vệ quyền của người tị nạn và người nhập cư, cũng là những mối quan tâm quan trọng trong xã hội Hà Lan. Sự khoan dung và các giá trị tự do xã hội của Hà Lan phản ánh một cam kết lâu dài đối với phát triển dân chủ và tôn trọng phẩm giá con người. Tuy nhiên, việc duy trì sự cân bằng giữa tự do cá nhân và trật tự xã hội, cũng như giải quyết các căng thẳng phát sinh từ sự đa dạng văn hóa, vẫn là những thách thức liên tục.
7.8. An ninh và Nhân quyền
Hà Lan có một cam kết mạnh mẽ đối với an ninh và bảo vệ nhân quyền, cả trong nước và trên trường quốc tế. Các chính sách và thể chế của quốc gia này phản ánh các giá trị dân chủ, pháp quyền và tôn trọng phẩm giá con người.
An ninh:
Tình hình an ninh chung ở Hà Lan được coi là tốt. Tỷ lệ tội phạm tương đối thấp so với nhiều quốc gia khác. Cảnh sát và các cơ quan thực thi pháp luật hoạt động hiệu quả trong việc duy trì trật tự công cộng và điều tra tội phạm. Tuy nhiên, Hà Lan cũng đối mặt với các thách thức an ninh như tội phạm có tổ chức (bao gồm buôn bán ma túy và buôn người), khủng bố (mặc dù nguy cơ được đánh giá là có thể xảy ra nhưng không thường xuyên), và tội phạm mạng. Chính phủ Hà Lan đầu tư vào các biện pháp phòng chống tội phạm, tăng cường hợp tác quốc tế và nâng cao năng lực của các cơ quan an ninh.
Nhân quyền:
Hà Lan có một hệ thống bảo vệ nhân quyền mạnh mẽ, được κατοχυρω ( κατοχυρω) trong hiến pháp và các công ước quốc tế mà nước này đã ký kết. Các quyền tự do cơ bản như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tự do tôn giáo được tôn trọng.
- Chống phân biệt đối xử: Luật pháp Hà Lan cấm phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, xu hướng tính dục, tôn giáo hoặc các yếu tố khác. Tuy nhiên, các báo cáo về phân biệt đối xử, đặc biệt là đối với các nhóm thiểu số và người nhập cư, vẫn còn tồn tại và là một mối quan tâm của xã hội.
- Quyền LGBT: Hà Lan là một trong những quốc gia đi đầu thế giới về quyền LGBT, với việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới từ năm 2001.
- Quyền của phụ nữ: Bình đẳng giới được thúc đẩy mạnh mẽ, mặc dù vẫn còn những thách thức trong việc đạt được sự bình đẳng hoàn toàn trong các lĩnh vực như đại diện chính trị và kinh tế.
- Quyền của người tị nạn và người xin tị nạn: Hà Lan có hệ thống tiếp nhận và xử lý đơn xin tị nạn, nhưng các chính sách này cũng là chủ đề tranh luận công khai, đặc biệt liên quan đến việc cân bằng giữa nghĩa vụ nhân đạo và kiểm soát nhập cư.
- Tự do ngôn luận và báo chí: Được bảo vệ mạnh mẽ, nhưng cũng có những cuộc tranh luận về giới hạn của quyền tự do này, đặc biệt khi liên quan đến ngôn từ kích động thù địch hoặc thông tin sai lệch.
Nỗ lực thúc đẩy phátตรฐาน dân chủ và bảo vệ các nhóm yếu thế:
Hà Lan tích cực thúc đẩy dân chủ và pháp quyền, cả trong nước và thông qua chính sách đối ngoại của mình. Nước này hỗ trợ các tổ chức xã hội dân sự và các sáng kiến nhằm tăng cường sự tham gia của công dân, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Việc bảo vệ các nhóm yếu thế, bao gồm người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em và các nạn nhân của tội phạm, là một ưu tiên. Các chương trình phúc lợi xã hội và các dịch vụ hỗ trợ được cung cấp để đảm bảo rằng mọi công dân đều có cơ hội sống một cuộc sống có phẩm giá.
Tuy nhiên, việc duy trì các tiêu chuẩn cao về an ninh và nhân quyền đòi hỏi sự cảnh giác và nỗ lực liên tục, đặc biệt trong bối cảnh các thách thức toàn cầu và sự thay đổi xã hội.
8. Văn hóa
Văn hóa Hà Lan là sự kết hợp phong phú giữa truyền thống lịch sử và những ảnh hưởng hiện đại, thể hiện qua nghệ thuật, kiến trúc, văn học, âm nhạc và lối sống độc đáo. Quốc gia này nổi tiếng với những đóng góp quan trọng cho di sản văn hóa thế giới, đồng thời duy trì một bản sắc riêng biệt.
8.1. Nghệ thuật (Hội họa, Kiến trúc)

Hội họa Hà Lan có một lịch sử phong phú và nổi tiếng thế giới. Thời kỳ Hoàng kim Hà Lan (thế kỷ 17) là giai đoạn bùng nổ của nghệ thuật, với những bậc thầy như Rembrandt, Johannes Vermeer, Jan Steen và Frans Hals. Các tác phẩm của họ thường miêu tả cuộc sống hàng ngày, chân dung, phong cảnh và các chủ đề tôn giáo, với kỹ thuật bậc thầy về ánh sáng và chi tiết. Rembrandt được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại.
Thế kỷ 19 và 20 tiếp tục sản sinh ra những họa sĩ Hà Lan có ảnh hưởng lớn, nổi bật nhất là Vincent van Gogh, một trong những người tiên phong của Trường phái hậu ấn tượng, với những tác phẩm đầy cảm xúc và màu sắc rực rỡ. Piet Mondrian là một nhân vật quan trọng của Chủ nghĩa Tân tạo hình và phong trào De Stijl, với những bức tranh trừu tượng sử dụng các đường thẳng và màu cơ bản. M. C. Escher nổi tiếng với các tác phẩm đồ họa độc đáo, khám phá các khái niệm toán học và không gian.

Kiến trúc Hà Lan cũng rất đa dạng và đặc sắc. Các thành phố như Amsterdam, Delft và Leiden nổi tiếng với những ngôi nhà cổ kính từ thế kỷ 17 và 18 dọc theo các kênh đào, với mặt tiền hẹp và được trang trí công phu. Kiến trúc truyền thống của làng quê với những ngôi nhà gỗ có thể được tìm thấy ở Zaanse Schans và Marken. Cối xay gió không chỉ là một phần quan trọng của hệ thống quản lý nước mà còn là một biểu tượng kiến trúc của Hà Lan.
Trong thế kỷ 20, các kiến trúc sư Hà Lan như Hendrik Petrus Berlage, Gerrit Rietveld (thuộc phong trào De Stijl) và Rem Koolhaas đã có những đóng góp quan trọng cho kiến trúc hiện đại và đương đại thế giới. Các phong cách kiến trúc như Chủ nghĩa biểu hiện, Chủ nghĩa công năng và Chủ nghĩa брутализм cũng để lại dấu ấn ở Hà Lan. Rijksmuseum ở Amsterdam, được thiết kế bởi Pierre Cuypers theo phong cách Tân Gothic và Tân Phục Hưng, là một ví dụ điển hình của kiến trúc bảo tàng thế kỷ 19.
8.2. Văn học và Triết học

Văn học Hà Lan có một lịch sử lâu đời, từ những bài thơ truyền khẩu thời trung cổ đến các tác phẩm hiện đại. Thời kỳ Hoàng kim Hà Lan cũng là một giai đoạn phát triển rực rỡ của văn học, với các nhà văn và nhà thơ như Joost van den Vondel và Pieter Corneliszoon Hooft.
Thế kỷ 19 chứng kiến sự xuất hiện của Multatuli (bút danh của Eduard Douwes Dekker), người nổi tiếng với tiểu thuyết Max Havelaar, một tác phẩm chỉ trích mạnh mẽ sự bóc lột của chủ nghĩa thực dân Hà Lan ở Đông Ấn Hà Lan (Indonesia).
Trong thế kỷ 20, nhiều nhà văn Hà Lan đã đạt được sự công nhận quốc tế, bao gồm Harry Mulisch, Willem Frederik Hermans, Gerard Reve (thường được coi là "Ba cây đại thụ" của văn học Hà Lan thời hậu chiến), Jan Wolkers và Hella Haasse. Nhật ký Anne Frank, ghi lại những trải nghiệm của một cô bé Do Thái trong thời kỳ Đức Quốc xã chiếm đóng, đã trở thành một trong những cuốn sách được đọc nhiều nhất và dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới.
Về triết học, Hà Lan đã sản sinh ra những nhà tư tưởng quan trọng. Erasmus của Rotterdam (thế kỷ 15-16) là một nhà nhân văn học, nhà thần học và học giả nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn đến Cải cách Tin Lành và tư tưởng châu Âu. Baruch Spinoza (thế kỷ 17) là một nhà triết học duy lý có những đóng góp quan trọng cho siêu hình học, nhận thức luận và đạo đức học, mặc dù các tác phẩm của ông gây tranh cãi vào thời đó. Các tác phẩm chính của René Descartes, một nhà triết học Pháp nổi tiếng, cũng được viết khi ông sống ở Hà Lan. Nhà khoa học và triết học tự nhiên Christiaan Huygens (thế kỷ 17) cũng có những đóng góp quan trọng cho tư tưởng khoa học.
8.3. Âm nhạc


Âm nhạc Hà Lan đa dạng, bao gồm cả âm nhạc truyền thống, cổ điển và các thể loại hiện đại.
Âm nhạc truyền thống: Levenslied (Bài ca cuộc đời) là một thể loại nhạc dân gian phổ biến, thường có giai điệu đơn giản, dễ nhớ và lời ca tình cảm về tình yêu, cuộc sống và những nỗi buồn. Các nhạc cụ truyền thống như accordion và đàn organ thùng thường được sử dụng.
Âm nhạc cổ điển: Hà Lan có một di sản âm nhạc cổ điển phong phú. Jan Pieterszoon Sweelinck (thế kỷ 16-17) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ đàn organ nổi tiếng. Trong số các nhà soạn nhạc đương đại, Louis Andriessen là một tên tuổi lớn. Ton Koopman là một nhạc trưởng, nghệ sĩ đàn organ và harpsichord nổi tiếng thế giới. Các nghệ sĩ violin như Janine Jansen và André Rieu (người nổi tiếng với các buổi hòa nhạc đại chúng và dàn nhạc Johann Strauss của mình) cũng rất thành công trên trường quốc tế. Phòng hòa nhạc Concertgebouw ở Amsterdam là một trong những phòng hòa nhạc hàng đầu thế giới và là sân nhà của Dàn nhạc Concertgebouw Hoàng gia, một dàn nhạc giao hưởng danh tiếng.
Âm nhạc đại chúng:
- Nederpop: Nhạc rock và pop Hà Lan (Nederpop) bắt đầu phát triển từ những năm 1960, chịu ảnh hưởng lớn từ âm nhạc Anh và Mỹ. Các ban nhạc như Shocking Blue (nổi tiếng với bài "Venus"), Golden Earring ("Radar Love"), Focus đã đạt được thành công quốc tế. Từ những năm 1980, nhiều nghệ sĩ bắt đầu hát bằng tiếng Hà Lan.
- Nhạc dance điện tử (EDM): Hà Lan là một cường quốc về EDM, với nhiều DJ và nhà sản xuất nổi tiếng thế giới như Tiësto, Armin van Buuren, Martin Garrix, Hardwell, Afrojack. Các lễ hội EDM lớn như Amsterdam Dance Event (ADE) thu hút đông đảo người hâm mộ từ khắp nơi.
- Hip hop: Nhạc rap và hip hop bằng tiếng Hà Lan (Nederhop) cũng rất phổ biến, đặc biệt trong giới trẻ.
- Symphonic metal: Các ban nhạc symphonic metal của Hà Lan như Within Temptation và Epica cũng có lượng người hâm mộ quốc tế đáng kể.
Hà Lan cũng tích cực tham gia Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu (Eurovision) và đã giành chiến thắng nhiều lần.
8.4. Điện ảnh và Truyền hình
Ngành công nghiệp điện ảnh và truyền hình Hà Lan đã có những đóng góp đáng chú ý, với một số đạo diễn, diễn viên và chương trình được công nhận trên trường quốc tế.
Điện ảnh:
Một số đạo diễn Hà Lan đã tạo dựng được tên tuổi ở cả trong nước và Hollywood. Paul Verhoeven nổi tiếng với các bộ phim như Turkish Delight (Turks Fruit, 1973), Soldier of Orange (Soldaat van Oranje, 1977) và sau đó là các phim Hollywood như RoboCop (1987) và Basic Instinct (1992). Các đạo diễn khác bao gồm Jan de Bont (Speed, Twister), Anton Corbijn và Fons Rademakers (phim The Assault của ông đoạt giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất). Đạo diễn phim tài liệu Bert Haanstra và Joris Ivens cũng rất nổi tiếng. Đạo diễn Theo van Gogh đã gây chú ý quốc tế vào năm 2004 khi bị sát hại sau khi đạo diễn bộ phim ngắn Submission.
Các nhà quay phim Hà Lan như Hoyte van Hoytema (Interstellar, Dunkirk) và Theo van de Sande cũng có sự nghiệp thành công ở Hollywood. Các diễn viên Hà Lan nổi tiếng quốc tế bao gồm Rutger Hauer (Blade Runner), Famke Janssen (loạt phim X-Men), Carice van Houten (Game of Thrones) và Jeroen Krabbé.
Truyền hình:
Hà Lan có một thị trường truyền hình phát triển với cả các đài truyền hình công cộng và thương mại. Các chương trình truyền hình nhập khẩu thường được chiếu bằng ngôn ngữ gốc với phụ đề tiếng Hà Lan, ngoại trừ các chương trình dành cho trẻ em thường được lồng tiếng.
Hà Lan cũng thành công trong việc xuất khẩu các định dạng chương trình truyền hình. Tập đoàn sản xuất truyền hình quốc tế Endemol, do John de Mol và Joop van den Ende thành lập, đã tạo ra và điều hành nhiều chương trình truyền hình thực tế, tài năng và trò chơi truyền hình nổi tiếng toàn cầu như Big Brother và Deal or No Deal. John de Mol sau đó đã thành lập công ty riêng Talpa Media, tạo ra các format thành công khác như The Voice.
8.5. Truyền thông đại chúng
Môi trường truyền thông đại chúng ở Hà Lan rất đa dạng và tự do, với một hệ thống báo chí, phát thanh, truyền hình và truyền thông internet phát triển mạnh mẽ. Tự do báo chí được coi trọng và bảo vệ.
Báo chí:
Hà Lan có nhiều tờ báo quốc gia và khu vực. Các tờ báo quốc gia lớn và có uy tín bao gồm De Telegraaf (thiên về giải trí và tin tức phổ thông), Algemeen Dagblad (AD - báo khổ nhỏ phổ biến), de Volkskrant (thiên về trung tả), NRC Handelsblad (thiên về tự do, chất lượng cao) và Trouw (có nguồn gốc Tin lành, tập trung vào các vấn đề xã hội và tôn giáo). Ngoài ra còn có các báo miễn phí được phân phát rộng rãi.
Phát thanh và Truyền hình:
Hệ thống phát thanh và truyền hình Hà Lan bao gồm cả các đài công cộng và các kênh thương mại.
- Hệ thống phát sóng công cộng (Nederlandse Publieke Omroep - NPO): Bao gồm nhiều tổ chức phát sóng thành viên (ví dụ: AVROTROS, BNNVARA, KRO-NCRV, NOS) cùng chia sẻ các kênh truyền hình quốc gia (NPO 1, NPO 2, NPO 3) và các đài phát thanh quốc gia. NOS chịu trách nhiệm cung cấp tin tức, thể thao và các sự kiện thời sự.
- Các kênh thương mại: Các tập đoàn truyền thông lớn như RTL Nederland (với các kênh như RTL 4, RTL 5) và Talpa Network (với các kênh như SBS6, Veronica) đóng vai trò quan trọng trên thị trường.
Các chương trình truyền hình nước ngoài thường được phát sóng bằng ngôn ngữ gốc kèm phụ đề tiếng Hà Lan, trừ các chương trình thiếu nhi.
Truyền thông Internet:
Việc sử dụng internet và mạng xã hội rất phổ biến ở Hà Lan. Các tờ báo và đài truyền hình đều có sự hiện diện mạnh mẽ trên mạng. Nhiều blog, trang tin tức trực tuyến và các nền tảng truyền thông xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin và tạo diễn đàn tranh luận công khai. Chính phủ Hà Lan cũng thúc đẩy việc số hóa và cung cấp các dịch vụ công trực tuyến.
Nhìn chung, truyền thông đại chúng ở Hà Lan đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, giải trí và thúc đẩy tranh luận công khai, góp phần vào một xã hội dân chủ và cởi mở.
8.6. Văn hóa ẩm thực
Ẩm thực Hà Lan đơn giản và mộc mạc, phản ánh lịch sử nông nghiệp và hàng hải của đất nước. Các sản phẩm từ sữa đóng một vai trò quan trọng.
Các món ăn truyền thống và đặc sản:
- Stamppot: Một món ăn mùa đông phổ biến, bao gồm khoai tây nghiền trộn với các loại rau củ như cải xoăn (boerenkoolstamppot), cà rốt và hành tây (hutspot), hoặc dưa cải bắp (zuurkoolstamppot), thường được ăn kèm với xúc xích hun khói (rookworst) hoặc thịt viên.
- Erwtensoep (hay snert): Súp đậu Hà Lan đặc, thường được ăn vào mùa đông, có thêm thịt lợn, xúc xích và các loại rau củ.
- Cá trích muối (Hollandse Nieuwe): Cá trích non được muối nhẹ và ăn sống, thường kèm theo hành tây thái nhỏ và dưa chuột muối. Đây là một món ăn theo mùa, thường có vào đầu mùa hè.
- Kibbeling: Cá tuyết tẩm bột chiên giòn, thường được bán ở các quầy hàng rong và chợ.
- Poffertjes: Những chiếc bánh pancake nhỏ, xốp, được làm từ bột kiều mạch và bột mì, thường được rắc đường bột và ăn kèm với một miếng bơ.
- Stroopwafel: Một loại bánh quy kẹp nổi tiếng, bao gồm hai lớp bánh quế mỏng kẹp siro caramel ở giữa.
- Phô mai Hà Lan: Hà Lan nổi tiếng với các loại phô mai như Gouda, Edam và Maasdam. Các chợ phô mai truyền thống như ở Alkmaar và Gouda là điểm thu hút khách du lịch.
- Bitterballen: Những viên thịt ragu tẩm bột chiên xù, thường được phục vụ như một món ăn nhẹ (borrelhapje) trong các quán bar, ăn kèm với mù tạt.
- Oliebollen: Bánh rán tròn, ngọt, thường được ăn vào dịp Năm Mới.
Văn hóa ẩm thực hiện đại:
Ngày nay, ẩm thực Hà Lan ngày càng đa dạng hơn do ảnh hưởng của các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là từ các thuộc địa cũ như Indonesia (với các món như nasi goreng, satay và rijsttafel) và Suriname. Các thành phố lớn có nhiều nhà hàng phục vụ ẩm thực quốc tế. Xu hướng ăn uống lành mạnh và sử dụng các sản phẩm hữu cơ, địa phương cũng ngày càng phổ biến.
Mặc dù ẩm thực Hà Lan có thể không nổi tiếng toàn cầu như ẩm thực Pháp hay Ý, nhưng nó vẫn có những nét độc đáo và hấp dẫn riêng, phản ánh lịch sử, văn hóa và điều kiện tự nhiên của đất nước.
8.7. Thể thao

Khoảng 4,5 triệu trong số 16,8 triệu người ở Hà Lan đã đăng ký tham gia một trong 35.000 câu lạc bộ thể thao trên toàn quốc. Khoảng hai phần ba dân số trong độ tuổi từ 15 đến 75 tham gia các hoạt động thể thao hàng tuần. Bóng đá là môn thể thao đồng đội phổ biến nhất, tiếp theo là khúc côn cầu trên cỏ và bóng chuyền. Quần vợt, thể dục dụng cụ và golf là ba môn thể thao cá nhân được tham gia rộng rãi nhất. Tổ chức các hoạt động thể thao bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Các liên đoàn thể thao được thành lập, các quy tắc được thống nhất và các câu lạc bộ thể thao ra đời. Một Ủy ban Olympic Quốc gia Hà Lan được thành lập vào năm 1912.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan đã về nhì tại World Cup các năm 1974, 1978 và 2010, và vô địch Giải vô địch châu Âu năm 1988. Trong số 50 cầu thủ bóng đá vĩ đại nhất mọi thời đại của SI, Johan Cruyff (#5), Marco van Basten (#19), Ruud Gullit (#25) và Johan Neeskens (#36) là người Hà Lan. Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Hà Lan đã về nhì tại World Cup nữ 2019 và vô địch Giải vô địch châu Âu năm 2017. Đội tuyển khúc côn cầu trên cỏ nữ quốc gia Hà Lan đã vô địch 9 trong số 15 World Cup khúc côn cầu nữ. Đội tuyển bóng chày quốc gia Hà Lan đã vô địch Giải vô địch châu Âu 24 lần trong số 33 lần tổ chức. Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Hà Lan đã vô địch Giải vô địch châu Âu năm 1995 và World Grand Prix năm 2007.
Hà Lan đã giành được 266 huy chương tại Thế vận hội Mùa hè và 110 huy chương tại Thế vận hội Mùa đông. Joop Zoetemelk đã vô địch Vuelta a España 1979, Tour de France 1980 và Giải vô địch thế giới UCI năm 1985. Jan Janssen đã vô địch Tour de France 1968, Tom Dumoulin vô địch Giro d'Italia 2017. Max Verstappen, tay đua Công thức 1 trẻ nhất ra mắt và giành chiến thắng trong một cuộc đua, là người Hà Lan đầu tiên giành chiến thắng một Grand Prix và một Giải vô địch thế giới Công thức 1. Các võ sĩ K-1 Hà Lan đã vô địch K-1 World Grand Prix 15 lần trong số 19 giải đấu.
8.8. Truyền thống và Lối sống (Cối xay gió, Hoa tulip, Lễ hội)

Văn hóa truyền thống và lối sống của Hà Lan được định hình bởi lịch sử, địa lý và các giá trị xã hội độc đáo. Một số yếu tố mang tính biểu tượng bao gồm:
- Cối xay gió (Windmolens): Cối xay gió là một hình ảnh mang tính biểu tượng của Hà Lan. Ban đầu, chúng được sử dụng để bơm nước ra khỏi các vùng đất lấn biển (polder), xay ngũ cốc và các mục đích công nghiệp khác. Ngày nay, nhiều cối xay gió lịch sử vẫn được bảo tồn và là điểm thu hút khách du lịch, như ở Kinderdijk (Di sản Thế giới UNESCO) và Zaanse Schans.
- Hoa tulip (Tulpen): Mặc dù không có nguồn gốc từ Hà Lan (hoa tulip có nguồn gốc từ Trung Á), hoa tulip đã trở thành một biểu tượng quan trọng của đất nước này. Vào thế kỷ 17, Hà Lan trải qua một cơn sốt đầu cơ hoa tulip được gọi là "Hội chứng hoa tulip". Ngày nay, Hà Lan là nhà sản xuất và xuất khẩu hoa tulip hàng đầu thế giới. Các vườn hoa như Keukenhof thu hút hàng triệu du khách mỗi năm.
- Guốc gỗ (Klompen): Guốc gỗ là một loại giày dép truyền thống của Hà Lan, được làm từ gỗ và được nông dân và công nhân sử dụng trong nhiều thế kỷ. Mặc dù ngày nay ít được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, guốc gỗ vẫn là một biểu tượng văn hóa và là một món quà lưu niệm phổ biến.
- Phô mai (Kaas): Hà Lan nổi tiếng với các loại phô mai như Gouda và Edam. Các chợ phô mai truyền thống, nơi các nhà sản xuất phô mai mặc trang phục truyền thống và trình diễn quy trình mua bán phô mai, là một nét văn hóa độc đáo.
- Đồ gốm Delft (Delfts blauw): Loại đồ gốm màu xanh trắng này có nguồn gốc từ thành phố Delft vào thế kỷ 17, ban đầu là sự mô phỏng đồ sứ Trung Quốc. Đồ gốm Delft với các họa tiết cối xay gió, cảnh quan và hoa tulip là một sản phẩm thủ công mỹ nghệ nổi tiếng.
- Lễ hội:
- Ngày Vua (Koningsdag): Được tổ chức vào ngày 27 tháng 4 (sinh nhật của Vua Willem-Alexander), đây là một ngày lễ quốc gia lớn với các hoạt động ăn mừng trên khắp đất nước. Mọi người mặc đồ màu cam (màu của Hoàng gia Orange-Nassau), tham gia các bữa tiệc đường phố, chợ trời (vrijmarkt) và các buổi hòa nhạc.
- Sinterklaas: Được tổ chức vào tối ngày 5 tháng 12, đây là một lễ hội truyền thống dành cho trẻ em, tương tự như lễ Giáng sinh ở một số quốc gia khác. Sinterklaas (Thánh Nicholas) cùng với người giúp việc của mình là Zwarte Piet (một nhân vật gây tranh cãi trong những năm gần đây do các vấn đề liên quan đến phân biệt chủng tộc) mang quà đến cho trẻ em ngoan.
- Các giá trị quan của quốc gia: Xã hội Hà Lan thường được đặc trưng bởi sự khoan dung, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng và sự cởi mở. Người Hà Lan coi trọng sự bình đẳng, đúng giờ và sự thẳng thắn trong giao tiếp. Lối sống thường giản dị và không phô trương.
Những yếu tố này, cùng với nhiều truyền thống và phong tục khác, tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng và độc đáo của Hà Lan.
8.9. Di sản văn hóa thế giới
Hà Lan tự hào có nhiều địa điểm được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, phản ánh lịch sử phong phú và những đóng góp độc đáo của quốc gia này cho văn hóa và công nghệ nhân loại. Tính đến nay, Hà Lan có 13 di sản thế giới, bao gồm 12 di sản văn hóa và 1 di sản tự nhiên.
Các di sản văn hóa bao gồm:
1. Schokland và vùng phụ cận (1995): Một khu định cư cũ trên một hòn đảo ở Zuiderzee, minh chứng cho cuộc đấu tranh của con người chống lại biển cả và sự thích ứng với môi trường thay đổi.
2. Tuyến phòng thủ Amsterdam (1996): Một vành đai công sự dài 135 km xung quanh Amsterdam, được xây dựng từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, là một ví dụ điển hình về kỹ thuật quân sự và quản lý nước.
3. Mạng lưới cối xay gió tại Kinderdijk-Elshout (1997): Một nhóm gồm 19 cối xay gió lịch sử ở gần Rotterdam, minh chứng cho công nghệ quản lý nước của Hà Lan.
4. Khu vực lịch sử của Willemstad, Nội thành và Bến cảng, Curaçao (1997): Một ví dụ nổi bật về một thị trấn thuộc địa Hà Lan ở Caribe, với kiến trúc độc đáo chịu ảnh hưởng của Hà Lan và Tây Ban Nha. (Lưu ý: Curaçao là một quốc gia cấu thành của Vương quốc Hà Lan, không phải là một phần của quốc gia Hà Lan)
5. Nhà máy hơi nước D.F. Wouda (Ir.D.F. Woudagemaal) (1998): Nhà máy bơm nước bằng hơi nước lớn nhất thế giới vẫn còn hoạt động, nằm ở Lemmer, Friesland, đại diện cho đỉnh cao của kỹ thuật quản lý nước bằng hơi nước.
6. Droogmakerij de Beemster (Polder Beemster) (1999): Một vùng đất lấn biển từ thế kỷ 17, được quy hoạch theo một mạng lưới hình học chặt chẽ, là một ví dụ điển hình về cảnh quan polder của Hà Lan.
7. Nhà Rietveld Schröder (2000): Một ngôi nhà ở Utrecht được thiết kế bởi kiến trúc sư Gerrit Rietveld theo phong cách De Stijl, là một biểu tượng của kiến trúc hiện đại.
8. Vùng kênh đào thế kỷ 17 của Amsterdam bên trong Singelgracht (2010): Một mạng lưới kênh đào và các tòa nhà lịch sử ở trung tâm Amsterdam, phản ánh sự phát triển đô thị và thương mại của thành phố trong Thời kỳ Hoàng kim.
9. Nhà máy Van Nelle (2014): Một nhà máy cũ ở Rotterdam, được xây dựng vào những năm 1920 theo phong cách Kiến trúc Hiện đại, là một ví dụ điển hình về kiến trúc công nghiệp chức năng.
10. Colonies of Benevolence (2021): Các khu định cư nông nghiệp được thành lập vào thế kỷ 19 để chống đói nghèo, một di sản xuyên quốc gia cùng với Bỉ.
11. Biên giới La Mã Hạ Germanicus (2021): Phần biên giới phía bắc của Đế quốc La Mã, một di sản xuyên quốc gia cùng với Đức.
12. Cung thiên văn Eisinga (2023): Một mô hình cơ học của hệ mặt trời được xây dựng vào thế kỷ 18, vẫn còn hoạt động.
Di sản tự nhiên:
1. Biển Wadden (2009, mở rộng 2014): Một hệ sinh thái bãi triều độc đáo và quan trọng trên toàn cầu, là một di sản xuyên quốc gia cùng với Đức và Đan Mạch.
Những di sản này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với Hà Lan mà còn đóng góp vào sự hiểu biết chung của nhân loại về lịch sử, văn hóa và thiên nhiên.
9. Nhân vật nổi bật
Hà Lan đã sản sinh ra nhiều nhân vật xuất sắc trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp quan trọng cho lịch sử, khoa học, nghệ thuật và thể thao thế giới. Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu, được đánh giá từ góc độ tác động đến dân chủ, nhân quyền và tiến bộ xã hội:
Lịch sử và Chính trị:
- William Trầm lặng (Willem de Zwijger, 1533-1584): Lãnh đạo cuộc Cách mạng Hà Lan chống lại sự cai trị của Tây Ban Nha, được coi là "Cha già dân tộc" của Hà Lan. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc đấu tranh cho quyền tự quyết và tự do tôn giáo, đặt nền móng cho một nhà nước Hà Lan độc lập.
- Johan de Witt (1625-1672): Chính khách lỗi lạc của Cộng hòa Hà Lan trong Thời kỳ Hoàng kim. Dù đại diện cho một hình thức cộng hòa đầu tiên, thời kỳ của ông cũng chứng kiến những xung đột nội bộ và chiến tranh, và kết cục bi thảm của ông phản ánh sự phức tạp của chính trị đương thời.
- Wilhelmina của Hà Lan (1880-1962): Nữ hoàng Hà Lan trị vì qua cả hai cuộc Chiến tranh Thế giới, trở thành biểu tượng của sự kháng cự trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Vai trò của bà trong việc duy trì tinh thần dân tộc và chống lại chủ nghĩa phát xít là rất quan trọng, đóng góp vào việc bảo vệ các giá trị dân chủ.
- Wim Kok (1938-2018): Cựu Thủ tướng Hà Lan, người đóng vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa kinh tế và xã hội Hà Lan vào cuối thế kỷ 20. Các chính sách của ông, bao gồm mô hình Polder, nhằm mục đích đạt được sự đồng thuận xã hội và duy trì nhà nước phúc lợi, thúc đẩy công bằng xã hội.
Khoa học và Triết học:
- Erasmus của Rotterdam (khoảng 1466-1536): Nhà nhân văn học, nhà thần học và học giả lỗi lạc, có ảnh hưởng lớn đến Cải cách Tin Lành và tư tưởng châu Âu. Các tác phẩm của ông đề cao lý trí, khoan dung và phê phán sự lạm dụng quyền lực, góp phần vào sự phát triển của tư tưởng nhân văn và tự do.
- Baruch Spinoza (1632-1677): Nhà triết học duy lý có những đóng góp quan trọng cho siêu hình học, nhận thức luận và đạo đức học. Tư tưởng của ông về tự do tư tưởng, dân chủ và sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà khai sáng sau này.
- Christiaan Huygens (1629-1695): Nhà toán học, nhà vật lý, nhà thiên văn học và nhà phát minh. Những khám phá khoa học của ông đã thúc đẩy sự hiểu biết của nhân loại về vũ trụ và các quy luật tự nhiên, đặt nền móng cho tiến bộ khoa học.
- Antonie van Leeuwenhoek (1632-1723): "Cha đẻ của vi sinh vật học", người đầu tiên quan sát và mô tả vi khuẩn và các vi sinh vật khác. Khám phá của ông đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới, có ý nghĩa to lớn đối với y học và sức khỏe con người.
- Paul J. Crutzen (1933-2021): Nhà hóa học khí quyển, đoạt giải Nobel Hóa học năm 1995 cho công trình nghiên cứu về sự suy giảm tầng ôzôn. Công trình của ông đã nâng cao nhận thức toàn cầu về các vấn đề môi trường và thúc đẩy các hành động bảo vệ hành tinh.
Nghệ thuật và Văn học:
- Rembrandt (1606-1669): Một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử nghệ thuật châu Âu. Các tác phẩm của ông thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về thân phận con người và các giá trị nhân văn.
- Johannes Vermeer (1632-1675): Họa sĩ nổi tiếng với các tác phẩm miêu tả cuộc sống nội thất yên bình, với kỹ thuật sử dụng ánh sáng bậc thầy. Tranh của ông phản ánh vẻ đẹp của cuộc sống thường nhật và các giá trị gia đình.
- Vincent van Gogh (1853-1890): Họa sĩ Hậu ấn tượng có ảnh hưởng lớn. Các tác phẩm của ông, dù phản ánh những đấu tranh cá nhân, cũng thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với người lao động và vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Piet Mondrian (1872-1944): Họa sĩ tiên phong của nghệ thuật trừu tượng, người sáng lập phong trào De Stijl. Các tác phẩm của ông tìm kiếm sự hài hòa và trật tự phổ quát.
- Anne Frank (1929-1945): Cô gái Do Thái gốc Đức, tác giả của Nhật ký Anne Frank. Nhật ký của cô là một bằng chứng mạnh mẽ về sự tàn bạo của chủ nghĩa phát xít và tầm quan trọng của việc đấu tranh cho nhân quyền và phẩm giá con người.
- Harry Mulisch (1927-2010): Một trong những nhà văn Hà Lan quan trọng nhất thời hậu chiến. Các tác phẩm của ông thường khám phá các chủ đề về đạo đức, trách nhiệm và hậu quả của chiến tranh.
Thể thao:
- Johan Cruyff (1947-2016): Huyền thoại bóng đá thế giới. Ngoài những thành tựu thể thao, ông còn được biết đến với những đóng góp cho các hoạt động xã hội và từ thiện, đặc biệt là thông qua Quỹ Cruyff.
- Fanny Blankers-Koen (1918-2004): Vận động viên điền kinh đoạt 4 huy chương vàng tại Thế vận hội London 1948. Bà là một biểu tượng của sự vượt lên trên những định kiến về giới và tuổi tác trong thể thao, truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ.
- Max Verstappen (sinh 1997): Tay đua Công thức 1, nhà vô địch thế giới nhiều lần.
Danh sách này chỉ là một phần nhỏ những nhân vật nổi bật của Hà Lan, những người đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và văn hóa thế giới, đồng thời phản ánh những đóng góp đa dạng của Hà Lan cho sự phát triển của nhân loại trên nhiều phương diện, bao gồm cả việc thúc đẩy các giá trị dân chủ, nhân quyền và tiến bộ xã hội.