1. Tổng quan
Trung Hoa Dân Quốc, thường được gọi là Đài Loan, là một quốc gia đảo ở Đông Á, bao gồm đảo chính Đài Loan (còn gọi là Formosa) cùng các quần đảo nhỏ hơn như Bành Hồ, Kim Môn và Mã Tổ. Với diện tích khoảng 36.19 K km2 và dân số hơn 23,9 triệu người, Đài Loan là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất thế giới. Thủ đô là Đài Bắc, và các thành phố lớn khác bao gồm Tân Bắc, Cao Hùng, Đài Trung và Đài Nam. Về mặt địa lý, Đài Loan nằm giữa Biển Hoa Đông, Biển Philippines và Biển Đông, đối diện với Trung Quốc đại lục qua eo biển Đài Loan. Địa hình chủ yếu là núi non ở hai phần ba phía đông và đồng bằng ở phía tây, nơi tập trung phần lớn dân cư.
Lịch sử Đài Loan kéo dài từ hàng ngàn năm trước với sự định cư của các dân tộc bản địa Nam Đảo. Vào thế kỷ 17, người Hà Lan và Tây Ban Nha thiết lập các thuộc địa, sau đó là sự cai trị của Vương quốc Đông Ninh do Trịnh Thành Công thành lập. Nhà Thanh sáp nhập Đài Loan vào năm 1683, tiếp theo là sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản từ năm 1895 đến năm 1945. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản Đài Loan. Năm 1949, sau thất bại trong Nội chiến Trung Quốc, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân Đảng lãnh đạo đã di dời đến Đài Loan. Từ đó, Đài Loan trải qua thời kỳ thiết quân luật kéo dài, nhưng cũng chứng kiến sự phát triển kinh tế vượt bậc được gọi là "Kỳ tích Đài Loan". Vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, Đài Loan chuyển đổi sang một nền dân chủ đa đảng, với các cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp bắt đầu từ năm 1996.
Về chính trị, Trung Hoa Dân Quốc là một nước cộng hòa bán tổng thống dựa trên nguyên tắc Ngũ quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát, khảo thí). Các chính đảng lớn bao gồm Quốc Dân Đảng và Đảng Dân chủ Tiến bộ, với các cuộc tranh luận chính trị xoay quanh bản sắc quốc gia và quan hệ với Trung Quốc đại lục. Đài Loan đã đạt được những tiến bộ đáng kể về quyền con người, bao gồm việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào năm 2019, trở thành nơi đầu tiên ở châu Á làm điều này, phản ánh cam kết với các giá trị dân chủ và tiến bộ xã hội.
Kinh tế Đài Loan là một nền kinh tế phát triển cao, định hướng xuất khẩu, đặc biệt mạnh về công nghệ cao như sản xuất chất bán dẫn và điện tử. Các ngành công nghiệp chủ chốt khác bao gồm thép, máy móc và hóa chất. Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, với các khu công nghệ cao và các viện nghiên cứu hàng đầu. Ngành du lịch cũng đóng góp đáng kể vào nền kinh tế, thu hút du khách bởi cảnh quan thiên nhiên, di sản văn hóa và ẩm thực đặc sắc.
Xã hội Đài Loan đa dạng về dân tộc, bao gồm người Hán (Phúc Kiến, Khách Gia, người ngoại tỉnh), thổ dân Đài Loan và các cư dân mới. Nhiều ngôn ngữ được sử dụng, bao gồm tiếng Quan Thoại (quốc ngữ), tiếng Đài Loan (tiếng Mân Nam), tiếng Khách Gia và các ngôn ngữ của thổ dân. Tôn giáo đa dạng với Phật giáo, Đạo giáo, Kitô giáo và các tín ngưỡng dân gian phổ biến. Hệ thống giáo dục và y tế công cộng (Bảo hiểm Y tế Quốc dân) được đánh giá cao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống.
Văn hóa Đài Loan là sự pha trộn giữa văn hóa truyền thống Trung Hoa, văn hóa bản địa, ảnh hưởng của Nhật Bản và phương Tây. Nghệ thuật truyền thống như kinh kịch và múa rối túi vải cùng tồn tại với nghệ thuật hiện đại và văn hóa đại chúng sôi động bao gồm điện ảnh, âm nhạc (Mandopop) và các chợ đêm nổi tiếng với ẩm thực đặc sắc. Thể thao, đặc biệt là bóng chày, rất phổ biến.
Vị thế chính trị của Đài Loan vẫn là một vấn đề phức tạp và gây tranh cãi trên trường quốc tế. Trung Hoa Dân Quốc duy trì quan hệ ngoại giao chính thức với một số ít quốc gia nhưng có quan hệ không chính thức rộng rãi với nhiều nước khác thông qua các văn phòng đại diện kinh tế và văn hóa. Quan hệ với Trung Quốc đại lục vẫn căng thẳng, với các vấn đề xoay quanh chủ quyền và khả năng thống nhất hoặc độc lập, trong bối cảnh Đài Loan nỗ lực bảo vệ nền dân chủ và tự chủ của mình.
2. Tên gọi
Phần này giải thích về các tên gọi khác nhau được sử dụng để chỉ hòn đảo và thực thể chính trị hiện tại, bao gồm "Đài Loan", "Formosa", "Trung Hoa Dân Quốc", và "Trung Hoa Đài Bắc", cùng với bối cảnh lịch sử, cách sử dụng hiện tại và các cuộc tranh luận liên quan.
2.1. Nguồn gốc các tên gọi
Trong Đảo夷誌略 (1349), Vương Đại Uyên đã sử dụng tên gọi "Lưu Cầu" để chỉ hòn đảo, hoặc phần của nó gần Bành Hồ nhất. Ở những nơi khác, tên này được dùng để chỉ chung quần đảo Ryukyu hoặc cụ thể là đảo Okinawa; tên Ryūkyū là dạng tiếng Nhật của Liúqiú. Tên này cũng xuất hiện trong Tùy thư (636) và các tác phẩm ban đầu khác, nhưng các học giả không thể thống nhất liệu những tài liệu tham khảo này có đề cập đến Ryukyu, Đài Loan hay thậm chí là Luzon.
Tên gọi Formosa (福爾摩沙Phúc Nhĩ Ma SaChinese (Chữ Hán)) xuất hiện từ năm 1542, khi các thủy thủ Bồ Đào Nha ghi chú nó trên bản đồ của họ là Ilha Formosa (tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là "hòn đảo xinh đẹp"). Tên gọi Formosa cuối cùng đã "thay thế tất cả các tên gọi khác trong văn học châu Âu" và vẫn được sử dụng phổ biến trong tiếng Anh cho đến thế kỷ 20.
Năm 1603, một hạm đội thám hiểm của Trung Quốc đã neo đậu tại một địa điểm ở Đài Loan gọi là Dayuan, một biến thể của "Đài Loan". Vào đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã thành lập một đồn thương mại tại Pháo đài Zeelandia (ngày nay là An Bình) trên một doi cát ven biển gọi là "Tayouan", theo tên gọi dân tộc của họ đối với một bộ lạc thổ dân Đài Loan gần đó, có thể là người Taivoan. Tên này cũng được chuyển thể sang tiếng Trung Quốc bản địa thành tên của doi cát và khu vực lân cận (Đài Nam). Từ "Đài Loan" hiện đại có nguồn gốc từ cách sử dụng này, được viết bằng các phiên âm khác nhau (大員,大圓,大灣,臺員,臺圓Chinese (Chữ Hán)) hoặc 臺窩灣Chinese (Chữ Hán)) trong các ghi chép lịch sử của Trung Quốc. Khu vực Đài Nam ngày nay là khu định cư lâu dài đầu tiên của cả thực dân châu Âu và người Hoa nhập cư. Khu định cư này đã phát triển thành trung tâm thương mại quan trọng nhất của hòn đảo và là thủ phủ cho đến năm 1887.
Việc sử dụng tên gọi tiếng Trung hiện tại (臺灣 / 台灣Đài LoanChinese (Chữ Hán)) đã trở thành chính thức sớm nhất là vào năm 1684 dưới thời nhà Thanh với việc thành lập Phủ Đài Loan tập trung ở Đài Nam ngày nay. Thông qua sự phát triển nhanh chóng của nó, toàn bộ đảo chính Đài Loan cuối cùng được biết đến với tên gọi "Đài Loan".
Quốc hiệu chính thức của đất nước bằng tiếng Anh là "Republic of China". Ngay sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm 1912, khi vẫn còn ở Trung Quốc đại lục, chính phủ đã sử dụng dạng rút gọn "Trung Quốc" (ZhōngguóTrung QuốcChinese (Hệ thống gõ Latin), 中國Trung QuốcChinese (Chữ Hán)) để tự gọi mình, bắt nguồn từ zhōngtrungChinese (Hệ thống gõ Latin) ("trung tâm" hoặc "giữa") và guóquốcChinese (Hệ thống gõ Latin) ("nhà nước, quốc gia"). Thuật ngữ này phát triển dưới thời nhà Chu để chỉ lãnh địa hoàng gia của mình, sau đó được áp dụng cho khu vực xung quanh Lạc Ấp (ngày nay là Lạc Dương) trong thời Đông Chu và sau đó là Trung Nguyên của Trung Quốc, trước khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa không thường xuyên cho nhà nước dưới thời nhà Thanh. Tên của nước cộng hòa bắt nguồn từ bản tuyên ngôn của đảng Đồng Minh Hội vào năm 1905, trong đó nêu rõ bốn mục tiêu của cách mạng Trung Quốc là "trục xuất những kẻ thống trị Mãn Châu, phục hưng Trung Hoa , thành lập một nước Cộng hòa, và phân chia đất đai đồng đều cho nhân dân." 驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權phiên âm Qūchú dálǔ, huīfù Zhōnghuá, chuànglì mínguó, píngjūn dì quánChinese (Chữ Hán) Lãnh tụ cách mạng Tôn Trung Sơn đã đề xuất tên gọi Trung Hoa Dân Quốc làm tên giả định của đất nước mới khi cách mạng thành công.
Trong những năm 1950 và 1960, sau khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan, nó thường được gọi là "Trung Hoa Quốc gia" (hoặc "Trung Hoa Tự do") để phân biệt với "Trung Quốc cộng sản" (hoặc "Trung Quốc Đỏ"). Trong những thập kỷ tiếp theo, Trung Hoa Dân Quốc ngày càng được biết đến với tên gọi "Đài Loan", theo tên hòn đảo chính. Để tránh nhầm lẫn, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan bắt đầu đặt "Đài Loan" bên cạnh tên chính thức của mình vào năm 2005. Trong các ấn phẩm của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, tên này được viết là "Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)", "Trung Hoa Dân Quốc/Đài Loan", hoặc đôi khi là "Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc)".
"Khu vực Đài Loan" được định nghĩa là đảo Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ và các lãnh thổ khác thuộc quyền kiểm soát hiệu quả của Trung Hoa Dân Quốc, trái ngược với "Khu vực Đại lục" dùng để chỉ lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc bên ngoài Khu vực Đài Loan và thuộc quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
2.2. Vấn đề sử dụng các tên gọi
Trung Hoa Dân Quốc tham gia hầu hết các diễn đàn và tổ chức quốc tế dưới tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa" như một sự thỏa hiệp với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH). Ví dụ, đây là tên gọi mà nước này đã tham gia Thế vận hội cũng như APEC. "Chính quyền Đài Loan" đôi khi được CHNDTH sử dụng để chỉ chính phủ ở Đài Loan.
3. Lịch sử
Phần này trình bày các sự kiện lịch sử quan trọng và quá trình biến đổi của khu vực Đài Loan từ thời tiền sử đến hiện đại theo trình tự thời gian, bao gồm các giai đoạn định cư ban đầu của con người, sự cai trị của các cường quốc thuộc địa, và sự phát triển của các chính thể bản địa và Trung Hoa.
3.1. Tiền sử và các dân tộc bản địa

Đài Loan từng nối liền với lục địa châu Á vào Hậu kỳ Pleistocene, cho đến khi mực nước biển dâng cao khoảng 10.000 năm trước. Các di tích của con người và các đồ tạo tác Thời đại đồ đá cũ có niên đại từ 20.000 đến 30.000 năm trước đã được tìm thấy. Nghiên cứu về các di hài cho thấy họ là những người Australo-Papuan tương tự như các quần thể người Negrito ở Philippines. Người Đài Loan thời kỳ đồ đá cũ có khả năng đã định cư tại quần đảo Ryukyu cách đây 30.000 năm. Các hoạt động nông nghiệp du canh du cư bắt đầu ít nhất 11.000 năm trước.
Các công cụ bằng đá của văn hóa Trường Tân đã được tìm thấy ở Đài Đông và Eluanbi. Các di tích khảo cổ cho thấy ban đầu họ là những người săn bắt hái lượm, dần dần chuyển sang đánh bắt cá chuyên sâu. Văn hóa Vương Hưng riêng biệt, được tìm thấy ở Miêu Lật, ban đầu là những người hái lượm sau đó chuyển sang săn bắn.
Khoảng 6.000 năm trước, Đài Loan được những người nông dân thuộc văn hóa Đại Bộn Khanh đến định cư, rất có thể họ đến từ vùng đông nam Trung Quốc ngày nay. Những nền văn hóa này là tổ tiên của thổ dân Đài Loan hiện đại và là những người khởi nguồn của ngữ hệ Nam Đảo. Thương mại với Philippines kéo dài từ đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, bao gồm cả việc sử dụng ngọc bích Đài Loan trong văn hóa ngọc bích của Philippines.
Văn hóa Đại Bộn Khanh được kế tục bởi nhiều nền văn hóa khác nhau trên khắp hòn đảo, bao gồm văn hóa Đại Hồ và văn hóa Doanh Phố; văn hóa Viên Sơn đặc trưng bởi việc thu hoạch lúa. Sắt xuất hiện trong các nền văn hóa như văn hóa Điểu Tùng, chịu ảnh hưởng của thương mại với Trung Quốc và Đông Nam Á hải đảo. Các thổ dân đồng bằng chủ yếu sống trong các làng có tường bao kiên cố, với lối sống dựa vào nông nghiệp, đánh bắt cá và săn bắn. Họ có xã hội truyền thống theo chế độ mẫu hệ.
3.2. Buổi đầu thuộc địa và Vương quốc Đông Ninh (thế kỷ 17)

Quần đảo Bành Hồ đã có ngư dân người Hán sinh sống từ năm 1171, và vào năm 1225, Bành Hồ được sáp nhập vào Tấn Giang. Nhà Nguyên chính thức hợp nhất Bành Hồ thuộc quyền tài phán của huyện Đồng An vào năm 1281. Bành Hồ bị nhà Minh sơ tán vào thế kỷ 15 như một phần của lệnh cấm biển, kéo dài đến cuối thế kỷ 16. Năm 1349, Vương Đại Uyên cung cấp ghi chép bằng văn bản đầu tiên về chuyến thăm Đài Loan. Đến những năm 1590, một số ít người Hoa từ Phúc Kiến đã bắt đầu trồng trọt đất ở tây nam Đài Loan. Khoảng 1.500-2.000 người Hoa sống hoặc ở lại tạm thời trên bờ biển phía nam Đài Loan, chủ yếu để đánh bắt cá theo mùa nhưng cũng để trồng trọt tự cung tự cấp và buôn bán, vào đầu thế kỷ 17. Năm 1603, Trần Đệ đến thăm Đài Loan trong một chuyến thám hiểm chống Oa khấu và ghi lại một tài liệu về người thổ dân Đài Loan.
Năm 1591, Nhật Bản cử sứ thần mang thư yêu cầu quan hệ triều cống với Đài Loan. Họ không tìm thấy nhà lãnh đạo nào để giao thư và trở về nhà. Năm 1609, một đoàn thám hiểm của Nhật Bản được cử đến khảo sát Đài Loan. Sau khi bị người bản địa tấn công, họ bắt một số tù nhân và trở về nhà. Năm 1616, một hạm đội gồm 13 tàu của Nhật Bản được cử đến Đài Loan. Do một cơn bão, chỉ có một con tàu đến được đó và được cho là đã trở về Nhật Bản.
Năm 1624, Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) thành lập Pháo đài Zeelandia trên đảo nhỏ ven biển Tayouan (ở Đài Nam hiện đại). Các vùng đất thấp bị chiếm đóng bởi 11 thủ lĩnh bộ lạc bản địa, một số trong đó nằm dưới sự kiểm soát của Hà Lan, bao gồm cả Vương quốc Middag. Khi người Hà Lan đến, tây nam Đài Loan đã có một lượng lớn dân số Trung Quốc chủ yếu là dân tạm trú, khoảng 1.500 người. VOC khuyến khích nông dân Trung Quốc nhập cư và làm việc trên các vùng đất thuộc quyền kiểm soát của Hà Lan và đến những năm 1660, khoảng 30.000 đến 50.000 người Trung Quốc đang sống trên đảo. Hầu hết nông dân trồng lúa để tiêu thụ tại địa phương và đường để xuất khẩu, trong khi một số người nhập cư tham gia săn hươu để xuất khẩu.
Năm 1626, Đế quốc Tây Ban Nha chiếm đóng miền bắc Đài Loan làm cơ sở giao thương, đầu tiên tại Cơ Long và vào năm 1628 xây dựng Pháo đài Santo Domingo tại Đạm Thủy. Thuộc địa này tồn tại cho đến năm 1642, khi pháo đài cuối cùng của Tây Ban Nha rơi vào tay lực lượng Hà Lan. Sau đó, người Hà Lan tiến quân về phía nam, chinh phục hàng trăm ngôi làng ở đồng bằng phía tây.

Sau khi nhà Minh sụp đổ ở Bắc Kinh năm 1644, Trịnh Thành Công (Koxinga) cam kết trung thành với Vĩnh Lịch Đế và tấn công nhà Thanh dọc bờ biển đông nam Trung Quốc. Năm 1661, dưới áp lực ngày càng tăng của nhà Thanh, ông chuyển quân từ căn cứ ở Hạ Môn đến Đài Loan, trục xuất người Hà Lan vào năm sau. Người Hà Lan tái chiếm pháo đài phía bắc tại Cơ Long vào năm 1664, nhưng rời đảo vào năm 1668 trước sự kháng cự của người bản địa.
Chế độ họ Trịnh, được gọi là Vương quốc Đông Ninh, tuyên bố trung thành với nhà Minh bị lật đổ, nhưng cai trị độc lập. Tuy nhiên, việc Trịnh Kinh trở về Trung Quốc để tham gia Loạn Tam Phiên đã mở đường cho cuộc xâm lược và chiếm đóng Đài Loan của nhà Thanh vào năm 1683.
3.3. Sự cai trị của nhà Thanh (1683-1895)

Sau thất bại của cháu trai Koxinga trước một hạm đội do Đô đốc Thi Lang chỉ huy vào năm 1683, nhà Thanh chính thức sáp nhập Đài Loan vào tháng 5 năm 1684, biến nó thành một phủ của tỉnh Phúc Kiến trong khi vẫn giữ nguyên thủ phủ hành chính (nay là Đài Nam) dưới thời Koxinga làm thủ đô.
Chính quyền nhà Thanh thường cố gắng hạn chế di cư đến Đài Loan trong suốt thời gian cai trị vì họ tin rằng Đài Loan không thể duy trì dân số quá lớn mà không dẫn đến xung đột. Sau thất bại của Vương quốc Đông Ninh, hầu hết dân số của nó ở Đài Loan đã được gửi trở lại đại lục, khiến số dân chính thức chỉ còn 50.000 người, bao gồm 10.000 quân. Bất chấp những hạn chế chính thức, các quan chức ở Đài Loan đã mời những người định cư từ đại lục, khiến hàng chục ngàn người đến hàng năm vào năm 1711. Một hệ thống giấy phép đã được ghi nhận chính thức vào năm 1712, nhưng nó có khả năng đã tồn tại sớm nhất là vào năm 1684; những hạn chế của nó bao gồm chỉ cho phép những người có tài sản ở đại lục, gia đình ở Đài Loan và những người không đi cùng vợ hoặc con vào. Nhiều người di cư nam đã kết hôn với phụ nữ bản địa địa phương. Trong thế kỷ 18, các hạn chế đã được nới lỏng. Năm 1732, các gia đình được phép chuyển đến Đài Loan. Đến năm 1811, có hơn hai triệu người Hán định cư ở Đài Loan, và các ngành sản xuất đường và gạo có lợi nhuận đã cung cấp hàng xuất khẩu sang đại lục. Năm 1875, các hạn chế về việc vào Đài Loan đã được bãi bỏ.

Ba huyện trên danh nghĩa bao phủ toàn bộ đồng bằng phía tây, nhưng quyền kiểm soát thực tế bị giới hạn trong một khu vực nhỏ hơn. Cần phải có giấy phép của chính phủ để người định cư đi xa hơn sông Đại Giáp. Chính quyền nhà Thanh đã mở rộng khắp khu vực đồng bằng phía tây trong thế kỷ 18 do việc vượt biên và định cư bất hợp pháp tiếp tục diễn ra. Thổ dân Đài Loan được chính quyền nhà Thanh phân loại thành thổ dân đã đồng hóa, những người đã tiếp nhận văn hóa Hán, và thổ dân chưa đồng hóa, những người chưa tiếp nhận. Nhà Thanh đã làm rất ít để cai quản hoặc khuất phục họ. Khi Đài Loan bị sáp nhập, có 46 làng thổ dân thuộc quyền kiểm soát của nó, có khả năng được thừa hưởng từ Vương quốc Đông Ninh. Trong thời kỳ Càn Long đầu tiên, có 93 làng đã đồng hóa và 61 làng chưa đồng hóa phải nộp thuế. Để đối phó với cuộc nổi dậy của người định cư Chu Nhất Quý vào năm 1722, việc tách biệt thổ dân và người định cư đã trở thành chính sách chính thức thông qua 54 bia đá được sử dụng để đánh dấu ranh giới biên giới. Các dấu hiệu đã được thay đổi bốn lần trong nửa sau của thế kỷ 18 do sự xâm lấn liên tục của người định cư. Hai phó quận trưởng phụ trách các vấn đề thổ dân, một cho phía bắc và một cho phía nam, đã được bổ nhiệm vào năm 1766.
Trong 200 năm cai trị của nhà Thanh ở Đài Loan, các thổ dân đồng bằng hiếm khi nổi dậy chống lại chính phủ và các thổ dân miền núi được mặc kệ cho đến 20 năm cuối cùng của sự cai trị của nhà Thanh. Hầu hết trong số hơn 100 cuộc nổi dậy trong thời nhà Thanh, chẳng hạn như cuộc nổi dậy của Lâm Sảng Văn, đều do người Hán định cư gây ra. Tần suất của chúng được gợi lên bởi câu nói phổ biến "cứ ba năm một cuộc nổi dậy, cứ năm năm một cuộc nổi loạn" (三年一反、五年一亂Tam niên nhất phản, ngũ niên nhất loạnChinese), chủ yếu đề cập đến giai đoạn từ năm 1820 đến năm 1850.
Nhiều quan chức đóng quân ở Đài Loan đã kêu gọi một chính sách thuộc địa hóa tích cực trong thế kỷ 19. Năm 1788, Phủ Đài Loan Dương Đình Lý đã ủng hộ những nỗ lực của một người định cư tên là Ngô Sa để chiếm đất của người Kavalan. Năm 1797, Ngô Sa đã có thể tuyển mộ những người định cư với sự hỗ trợ tài chính từ chính quyền địa phương nhưng không thể đăng ký đất đai chính thức. Vào đầu những năm 1800, các quan chức địa phương đã thuyết phục hoàng đế chính thức hợp nhất khu vực bằng cách thổi phồng vấn đề cướp biển nếu đất đai bị bỏ hoang. Năm 1814, một số người định cư đã cố gắng thuộc địa hóa miền trung Đài Loan bằng cách bịa đặt quyền thuê đất của thổ dân. Họ đã bị quân đội chính phủ đuổi đi hai năm sau đó. Các quan chức địa phương tiếp tục ủng hộ việc thuộc địa hóa khu vực này nhưng đã bị phớt lờ.

Nhà Thanh đã thực hiện một chính sách thuộc địa hóa tích cực hơn sau năm 1874 khi Nhật Bản xâm chiếm lãnh thổ bản địa ở miền nam Đài Loan và chính quyền nhà Thanh buộc phải trả tiền bồi thường để họ rời đi. Việc quản lý Đài Loan được mở rộng với các phủ, tiểu phủ và huyện mới. Các con đường núi được xây dựng để làm cho nội địa Đài Loan dễ tiếp cận hơn. Các hạn chế về việc vào Đài Loan đã chấm dứt vào năm 1875 và các cơ quan tuyển mộ người định cư được thành lập ở đại lục, nhưng những nỗ lực thúc đẩy định cư đã kết thúc ngay sau đó. Năm 1884, Cơ Long ở phía bắc Đài Loan bị chiếm đóng trong Chiến tranh Pháp-Thanh nhưng lực lượng Pháp không thể tiến sâu hơn vào nội địa trong khi chiến thắng của họ tại Bành Hồ năm 1885 dẫn đến bệnh tật và rút lui ngay sau đó khi chiến tranh kết thúc. Những nỗ lực thuộc địa hóa được đổi mới dưới thời Lưu Minh Truyền. Năm 1887, vị thế của Đài Loan được nâng lên thành một tỉnh. Đài Bắc trở thành thủ đô thường trực vào năm 1893. Những nỗ lực của Lưu nhằm tăng doanh thu từ sản phẩm của Đài Loan đã bị cản trở bởi áp lực từ nước ngoài không tăng thuế. Một cuộc cải cách ruộng đất đã được thực hiện, làm tăng doanh thu nhưng vẫn không đạt được kỳ vọng. Các công nghệ hiện đại như chiếu sáng bằng điện, đường sắt, đường dây điện báo, dịch vụ tàu hơi nước và máy móc công nghiệp đã được giới thiệu dưới sự cai trị của Lưu, nhưng một số dự án này có kết quả hỗn hợp. Một chiến dịch chính thức khuất phục các dân tộc bản địa đã kết thúc với việc mất một phần ba quân đội sau sự kháng cự quyết liệt của các dân tộc Mkgogan và Msbtunux. Lưu từ chức vào năm 1891 do những lời chỉ trích về các dự án tốn kém này.
Đến cuối thời nhà Thanh, các đồng bằng phía tây đã được phát triển hoàn chỉnh thành đất nông nghiệp với khoảng 2,5 triệu người Hán định cư. Các vùng núi vẫn phần lớn tự trị dưới sự kiểm soát của các dân tộc bản địa. Việc mất đất của người bản địa dưới thời nhà Thanh diễn ra với tốc độ tương đối chậm do không có sự tước đoạt đất đai do nhà nước tài trợ trong phần lớn thời gian cai trị của nhà Thanh.
3.4. Sự cai trị của Đế quốc Nhật Bản (1895-1945)

Sau thất bại của nhà Thanh trong Chiến tranh Thanh-Nhật lần thứ nhất (1894-1895), Đài Loan, các đảo liên quan và quần đảo Bành Hồ đã được nhượng lại cho Đế quốc Nhật Bản theo Hiệp ước Shimonoseki. Những cư dân muốn vẫn là thần dân của nhà Thanh phải chuyển đến Trung Quốc đại lục trong thời gian gia hạn hai năm, điều mà ít người cho là khả thi. Ước tính có khoảng 4.000 đến 6.000 người rời đi trước khi hết thời gian gia hạn, và 200.000 đến 300.000 người theo sau trong tình trạng hỗn loạn sau đó. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1895, một nhóm quan chức cấp cao thân nhà Thanh đã tuyên bố thành lập Đài Loan dân chủ quốc để chống lại sự cai trị sắp tới của Nhật Bản. Lực lượng Nhật Bản tiến vào thủ đô Đài Nam và dẹp tan cuộc kháng cự này vào ngày 21 tháng 10 năm 1895. Khoảng 6.000 cư dân đã chết trong cuộc giao tranh ban đầu và khoảng 14.000 người chết trong năm đầu tiên Nhật Bản cai trị. Thêm 12.000 "phiến quân cướp bóc" đã bị giết từ năm 1898 đến năm 1902. Các cuộc nổi dậy sau đó chống lại người Nhật (cuộc Nổi dậy Bắc埔 năm 1907, Sự kiện Tapani năm 1915, và Sự kiện Musha năm 1930) đều không thành công nhưng đã thể hiện sự phản đối đối với sự cai trị của Nhật Bản.
Thời kỳ thuộc địa đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hòn đảo, với việc mở rộng đường sắt và các mạng lưới giao thông khác, xây dựng một hệ thống vệ sinh rộng khắp, thành lập một hệ thống giáo dục chính thức, và chấm dứt tục lệ săn đầu người. Các nguồn tài nguyên của Đài Loan được sử dụng để hỗ trợ sự phát triển của Nhật Bản. Việc sản xuất các cây công nghiệp như đường tăng mạnh, và các khu vực rộng lớn do đó đã được chuyển đổi từ sản xuất lúa gạo. Đến năm 1939, Đài Loan là nhà sản xuất đường lớn thứ bảy trên thế giới.
Dân số người Hán và người bản địa bị phân loại là công dân hạng hai và hạng ba, và nhiều vị trí chính phủ và kinh doanh có uy tín đã bị đóng cửa đối với họ. Sau khi đàn áp du kích người Hán trong thập kỷ đầu tiên cai trị, chính quyền Nhật Bản đã tham gia vào các chiến dịch đẫm máu chống lại người bản địa cư trú ở các vùng núi, mà đỉnh điểm là Sự kiện Musha năm 1930. Các trí thức và người lao động tham gia các phong trào cánh tả cũng bị bắt và thảm sát (ví dụ như Tưởng Vị Thủy và Masanosuke Watanabe). Khoảng năm 1935, người Nhật bắt đầu một dự án đồng hóa toàn đảo. Các tờ báo và chương trình giảng dạy bằng tiếng Trung Quốc đã bị bãi bỏ. Âm nhạc và sân khấu Đài Loan bị cấm. Một tôn giáo Thần đạo quốc gia được thúc đẩy song song với việc đàn áp các tín ngưỡng truyền thống của Đài Loan. Bắt đầu từ năm 1940, các gia đình cũng được yêu cầu lấy họ Nhật Bản, mặc dù chỉ có 2% đã làm như vậy vào năm 1943. Đến năm 1938, 309.000 người Nhật đang cư trú tại Đài Loan.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hòn đảo được phát triển thành một căn cứ hải quân và không quân trong khi nông nghiệp, công nghiệp và thương mại của nó bị ảnh hưởng. Các cuộc không kích và cuộc xâm lược Philippines sau đó được phát động từ Đài Loan. Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động mạnh mẽ từ các cảng của Đài Loan, và viện nghiên cứu "Nhóm Tấn công phía Nam" của nó đặt tại Đại học Đế quốc Taihoku. Các căn cứ quân sự và trung tâm công nghiệp, chẳng hạn như Cao Hùng và Cơ Long, trở thành mục tiêu của các cuộc không kích nặng nề của Đồng minh, phá hủy nhiều nhà máy, đập và các cơ sở giao thông do người Nhật xây dựng. Vào tháng 10 năm 1944, Không chiến Đài Loan - Philippines đã diễn ra giữa các tàu sân bay Mỹ và lực lượng Nhật Bản tại Đài Loan. Hơn 200.000 người Đài Loan phục vụ trong quân đội Nhật Bản, với hơn 30.000 người thương vong. Hơn 2.000 phụ nữ, được gọi một cách mỹ miều là "phụ nữ giải khuây", đã bị ép buộc làm nô lệ tình dục cho quân đội Đế quốc Nhật Bản.
Sau sự đầu hàng của Nhật Bản, hầu hết cư dân Nhật Bản đã bị trục xuất.
3.5. Sự cai trị của Trung Hoa Dân Quốc (1945-nay)

Trong khi Đài Loan nằm dưới sự cai trị của Nhật Bản, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập tại Trung Quốc đại lục vào ngày 1 tháng 1 năm 1912 sau Cách mạng Tân Hợi năm 1911. Chính quyền trung ương lên xuống theo chủ nghĩa quân phiệt (1915-28), cuộc xâm lược của Nhật Bản (1937-45), và Nội chiến Trung Quốc (1927-49), với chính quyền trung ương mạnh nhất trong Thập niên Nam Kinh (1927-37), khi hầu hết Trung Quốc nằm dưới sự kiểm soát của Quốc Dân Đảng (KMT). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tuyên bố Cairo năm 1943 quy định rằng Formosa và Pescadores sẽ được Nhật Bản trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc; các điều khoản sau đó được lặp lại trong Tuyên bố Potsdam năm 1945 mà Nhật Bản đã đồng ý thực hiện trong văn kiện đầu hàng của mình. Vào 25 tháng 10 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng Đài Loan cho Trung Hoa Dân Quốc, và trong Hiệp ước San Francisco, Nhật Bản chính thức từ bỏ các yêu sách của mình đối với các hòn đảo, mặc dù không nêu rõ chúng được đầu hàng cho ai. Cùng năm đó, Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc đã ký một hiệp ước hòa bình.
Trong khi ban đầu nhiệt tình về sự trở lại của chính quyền Trung Quốc và Chủ nghĩa Tam Dân, người Formosa ngày càng bất mãn về việc bị loại trừ khỏi các vị trí cao hơn, việc hoãn các cuộc bầu cử địa phương ngay cả sau khi ban hành hiến pháp ở đại lục, việc buôn lậu các vật có giá trị ra khỏi đảo, việc chiếm đoạt các doanh nghiệp thành các công ty độc quyền do chính phủ điều hành, và lạm phát phi mã năm 1945-1949. Vụ bắn một thường dân vào ngày 28 tháng 2 năm 1947 đã gây ra tình trạng bất ổn trên toàn đảo, bị đàn áp bằng vũ lực quân sự trong cái mà ngày nay gọi là Sự kiện 28 tháng 2. Ước tính chính thống về số người thiệt mạng dao động từ 18.000 đến 30.000 người. Trần sau đó được thay thế bởi Ngụy Đạo Minh, người đã nỗ lực khắc phục những sai lầm quản lý trước đó bằng cách bổ nhiệm lại một tỷ lệ lớn người dân đảo và tư nhân hóa lại các doanh nghiệp.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nội chiến Trung Quốc tiếp tục. Một loạt các cuộc tấn công của Cộng sản Trung Quốc vào năm 1949 đã dẫn đến việc chiếm được thủ đô Nam Kinh vào ngày 23 tháng 4 và thất bại sau đó của những người theo chủ nghĩa Quốc gia ở đại lục. Những người Cộng sản đã thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1 tháng 10. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1949, Tưởng Giới Thạch đã di tản chính phủ Quốc gia của mình đến Đài Loan và biến Đài Bắc thành Thủ đô lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc. Khoảng 2 triệu người, chủ yếu là binh lính, thành viên của Quốc Dân Đảng cầm quyền và giới tinh hoa trí thức và kinh doanh, đã được sơ tán đến Đài Loan, bổ sung vào dân số trước đó khoảng sáu triệu người. Những người này và con cháu của họ được biết đến ở Đài Loan với tên gọi Ngoại tỉnh nhân (外省人Chinese). Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã mang đến Đài Bắc nhiều bảo vật quốc gia và phần lớn vàng và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Hầu hết vàng được sử dụng để trả lương cho binh lính, một phần được sử dụng để phát hành Tân Đài tệ, một phần của chương trình bình ổn giá để làm chậm lạm phát ở Đài Loan.
Sau khi mất quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục vào năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc vẫn giữ quyền kiểm soát Đài Loan và Bành Hồ (Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc), các bộ phận của Phúc Kiến (Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc)-cụ thể là Kim Môn, Ô Khâu (nay là một phần của Kim Môn) và quần đảo Mã Tổ và hai hòn đảo lớn ở Biển Đông. Trung Hoa Dân Quốc cũng giữ quyền kiểm soát trong một thời gian ngắn toàn bộ Hải Nam, các bộ phận của Chiết Giang (Chiết Giang)-cụ thể là quần đảo Đại Trần và quần đảo Nhất Giang Sơn-và các bộ phận của Tây Tạng, Thanh Hải, Tân Cương và Vân Nam. Những người Cộng sản đã chiếm được Hải Nam vào năm 1950, chiếm được quần đảo Đại Trần và quần đảo Nhất Giang Sơn trong Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất vào năm 1955 và đánh bại các cuộc nổi dậy của Trung Hoa Dân Quốc ở Tây Bắc Trung Quốc vào năm 1958. Lực lượng Trung Hoa Dân Quốc tiến vào Miến Điện và Thái Lan vào những năm 1950 và bị những người Cộng sản đánh bại vào năm 1961. Kể từ khi mất quyền kiểm soát Trung Quốc đại lục, Quốc Dân Đảng tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với 'toàn bộ Trung Quốc', mà nó định nghĩa bao gồm Trung Quốc đại lục (bao gồm cả Tây Tạng), Đài Loan (bao gồm cả Bành Hồ), Ngoại Mông, và các lãnh thổ nhỏ khác.
3.5.1. Thời kỳ Thiết quân luật (1949-1987)

Thiết quân luật, được ban bố tại Đài Loan vào tháng 5 năm 1949, tiếp tục có hiệu lực cho đến năm 1987, và được sử dụng để đàn áp phe đối lập chính trị. Trong thời kỳ Khủng bố trắng, như cách gọi của giai đoạn này, 140.000 người đã bị bỏ tù hoặc hành quyết vì bị coi là chống Quốc Dân Đảng hoặc thân Cộng sản. Nhiều công dân đã bị bắt, tra tấn, bỏ tù hoặc hành quyết vì mối liên hệ thực sự hoặc bị nghi ngờ với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vì những người này chủ yếu thuộc giới trí thức và tinh hoa xã hội, nên cả một thế hệ lãnh đạo chính trị và xã hội đã bị tiêu diệt. Việc này đã gây ra những vết sẹo sâu sắc trong xã hội Đài Loan và là một chủ đề nhạy cảm, đòi hỏi sự nhìn nhận khách quan và nỗ lực hòa giải.
Sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã điều động Hạm đội Bảy Hoa Kỳ vào eo biển Đài Loan để ngăn chặn các hành động thù địch giữa Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hoa Kỳ cũng thông qua Hiệp ước Phòng thủ chung Trung-Mỹ và Nghị quyết Formosa năm 1955, cấp viện trợ nước ngoài đáng kể cho chế độ Quốc Dân Đảng từ năm 1951 đến năm 1965. Viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ đã ổn định giá cả ở Đài Loan vào năm 1952. Chính phủ Quốc Dân Đảng đã ban hành nhiều luật lệ và cải cách ruộng đất mà họ chưa bao giờ thực hiện hiệu quả ở Trung Quốc đại lục. Phát triển kinh tế được khuyến khích bởi viện trợ của Mỹ và các chương trình như Ủy ban Liên hợp về Tái thiết Nông thôn, đã biến ngành nông nghiệp thành cơ sở cho sự tăng trưởng sau này. Dưới sự kích thích kết hợp của cải cách ruộng đất và các chương trình phát triển nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp tăng trưởng với tốc độ trung bình hàng năm là 4% từ năm 1952 đến năm 1959. Chính phủ cũng thực hiện chính sách công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, cố gắng sản xuất hàng hóa nhập khẩu trong nước. Chính sách này đã thúc đẩy sự phát triển của các ngành dệt may, thực phẩm và các ngành công nghiệp thâm dụng lao động khác.
Khi Nội chiến Trung Quốc tiếp diễn, chính phủ đã xây dựng các công sự quân sự trên khắp Đài Loan. Các cựu chiến binh đã xây dựng Đường cao tốc Trung ương xuyên đảo qua Hẻm núi Taroko vào những năm 1950. Trong Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai năm 1958, tên lửa Nike Hercules đã được bổ sung vào đội hình các khẩu đội tên lửa trên khắp hòn đảo.

Trong những năm 1960 và 1970, Trung Hoa Dân Quốc duy trì một chính phủ độc tài, độc đảng dưới hệ thống Đảng Quốc của Quốc Dân Đảng trong khi nền kinh tế của nó trở nên công nghiệp hóa và định hướng công nghệ. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng này, được gọi là Kỳ tích Đài Loan, xảy ra sau một chiến lược ưu tiên nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, theo thứ tự đó. Công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu đã đạt được bằng cách hoàn thuế cho hàng xuất khẩu, xóa bỏ hạn chế nhập khẩu, chuyển từ hệ thống tỷ giá hối đoái đa dạng sang hệ thống tỷ giá hối đoái duy nhất và phá giá đồng Tân Đài tệ. Các dự án cơ sở hạ tầng như Đường cao tốc Trung Sơn, Sân bay quốc tế Đào Viên, Cảng Đài Trung, và Nhà máy điện hạt nhân Kim Sơn đã được khởi động, trong khi sự trỗi dậy của các ngành công nghiệp thép, hóa dầu và đóng tàu ở miền nam Đài Loan đã chứng kiến sự chuyển đổi của Cao Hùng thành một đô thị đặc biệt ngang hàng với Đài Bắc. Vào những năm 1970, Đài Loan trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai ở châu Á. Tăng trưởng thực tế của GDP trung bình hơn 10%. Năm 1978, sự kết hợp giữa các ưu đãi thuế và lực lượng lao động rẻ, được đào tạo tốt đã thu hút hơn 1.90 B USD đầu tư từ Hoa kiều, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đến năm 1980, ngoại thương đạt 39.00 B USD mỗi năm và tạo ra thặng dư 46.50 M USD. Cùng với Hồng Kông, Singapore và Hàn Quốc, Đài Loan được biết đến như một trong Bốn con hổ châu Á.
Do Chiến tranh Lạnh, hầu hết các quốc gia phương Tây và Liên Hợp Quốc coi Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc cho đến những năm 1970. Cuối cùng, đặc biệt là sau khi Đài Loan bị trục xuất khỏi Liên Hợp Quốc, hầu hết các quốc gia đã chuyển công nhận ngoại giao sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cho đến những năm 1970, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc bị các nhà phê bình phương Tây coi là phi dân chủ vì duy trì thiết quân luật, đàn áp nghiêm trọng mọi phe đối lập chính trị và kiểm soát truyền thông. Quốc Dân Đảng không cho phép thành lập các đảng mới và các cuộc bầu cử dân chủ cạnh tranh không tồn tại.
Từ cuối những năm 1970 đến những năm 1990, Đài Loan đã trải qua những cải cách chính trị và xã hội đã biến nó thành một nền dân chủ. Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch, giữ chức thủ tướng từ năm 1972 và lên nắm quyền tổng thống vào năm 1978. Ông tìm cách chuyển giao nhiều quyền lực hơn cho "người bản tỉnh" (cư dân Đài Loan trước khi Nhật Bản đầu hàng và con cháu của họ). Các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ Đảng Ngoại nổi lên như một phe đối lập. Năm 1979, Sự kiện Cao Hùng diễn ra tại Cao Hùng vào Ngày Nhân quyền. Mặc dù cuộc biểu tình nhanh chóng bị chính quyền dập tắt, nhưng nó được coi là sự kiện chính đã đoàn kết phe đối lập của Đài Loan, thúc đẩy phong trào dân chủ và đấu tranh cho quyền tự do bày tỏ ý kiến.
Năm 1984, Tưởng Kinh Quốc chọn Lý Đăng Huy làm phó tổng thống của mình. Sau khi Đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) được thành lập (bất hợp pháp) với tư cách là đảng đối lập đầu tiên ở Đài Loan để chống lại Quốc Dân Đảng vào năm 1986, Tưởng tuyên bố rằng ông sẽ cho phép thành lập các đảng mới. Vào ngày 15 tháng 7 năm 1987, Tưởng dỡ bỏ thiết quân luật trên đảo chính Đài Loan.
3.5.2. Thời kỳ Dân chủ hóa (1987-nay)

Sau khi Tưởng Kinh Quốc qua đời năm 1988, Lý Đăng Huy trở thành tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc sinh ra tại Đài Loan. Chính quyền của Lý giám sát một giai đoạn dân chủ hóa trong đó Điều khoản lâm thời chống nổi dậy cộng sản bị bãi bỏ và Các điều khoản bổ sung của Hiến pháp được đưa ra. Đại diện quốc hội chỉ được phân bổ cho Khu vực Đài Loan, và Đài Loan trải qua một quá trình bản địa hóa trong đó văn hóa và lịch sử Đài Loan được đề cao hơn quan điểm toàn Trung Quốc trong khi các chính sách đồng hóa được thay thế bằng sự hỗ trợ cho chủ nghĩa đa văn hóa. Năm 1996, Lý được tái đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên. Dưới thời Lý, cả ông và đảng của ông đều dính vào các vụ bê bối tham nhũng được gọi là chính trị "vàng đen", cho thấy những thách thức trong quá trình chuyển đổi dân chủ.
Trần Thủy Biển của Đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) được bầu làm tổng thống phi Quốc Dân Đảng đầu tiên vào năm 2000. Tuy nhiên, Trần thiếu đa số lập pháp. Phe đối lập Quốc Dân Đảng đã phát triển Liên minh Pan-Blue với các đảng khác, tập hợp được đa số sít sao so với Liên minh Pan-Green do DPP lãnh đạo. Chính trị phân cực nổi lên ở Đài Loan với phe Pan-Blue ủng hộ thống nhất Trung Quốc cuối cùng, trong khi phe Pan-Green ủng hộ độc lập Đài Loan.
Việc Trần đề cập đến "Mỗi bên một quốc gia" của eo biển Đài Loan đã làm suy yếu quan hệ hai bờ eo biển vào năm 2002. Ông đã thúc đẩy cuộc trưng cầu dân ý quốc gia đầu tiên về quan hệ hai bờ eo biển, và kêu gọi chấm dứt Hội đồng Thống nhất Quốc gia. Các công ty nhà nước bắt đầu bỏ các tham chiếu "Trung Quốc" trong tên của họ và bao gồm "Đài Loan". Năm 2008, các cuộc trưng cầu dân ý đã hỏi liệu Đài Loan có nên tham gia Liên Hợp Quốc hay không. Hành động này đã xa lánh các cử tri ôn hòa ủng hộ hiện trạng, cũng như những người có quan hệ kinh tế hai bờ eo biển. Nó cũng tạo ra căng thẳng với đại lục và bất đồng với Hoa Kỳ. Chính quyền của Trần cũng bị ám ảnh bởi những lo ngại của công chúng về tăng trưởng kinh tế giảm sút, bế tắc lập pháp và các cuộc điều tra tham nhũng.

Ứng cử viên của Quốc Dân Đảng, Mã Anh Cửu, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008 trên một cương lĩnh tăng trưởng kinh tế và quan hệ tốt đẹp hơn với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo chính sách "không phủ nhận lẫn nhau". Dưới thời Mã, Đài Loan và Trung Quốc đã mở các chuyến bay thẳng và vận chuyển hàng hóa. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thậm chí đã đưa ra quyết định không điển hình là không yêu cầu Đài Loan bị cấm tham gia Hội đồng Y tế Thế giới hàng năm. Mã cũng đã chính thức xin lỗi về Khủng bố trắng. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với Trung Quốc đã làm dấy lên những lo ngại về hậu quả chính trị của nó. Năm 2014, các sinh viên đại học đã chiếm đóng Lập pháp viện và ngăn chặn việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Dịch vụ xuyên eo biển trong cái được gọi là Phong trào sinh viên Hoa Hướng Dương. Phong trào này đã làm nảy sinh các đảng thứ ba dựa trên giới trẻ như Đảng Quyền lực Mới, và được cho là đã góp phần vào chiến thắng của DPP trong cuộc bầu cử tổng thống và lập pháp năm 2016, cuộc bầu cử sau này đã dẫn đến đa số lập pháp DPP đầu tiên trong lịch sử Đài Loan.
Vào tháng 1 năm 2024, Lại Thanh Đức của Đảng Dân chủ Tiến bộ cầm quyền đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan. Tuy nhiên, không có đảng nào giành được đa số trong cuộc bầu cử lập pháp đồng thời của Đài Loan lần đầu tiên kể từ năm 2004, nghĩa là 51 ghế cho Đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP), 52 ghế cho Quốc Dân Đảng (KMT), và Đảng Nhân dân Đài Loan (TPP) giành được tám ghế.
4. Địa lý
Phần này mô tả các đặc điểm địa lý chính của Đài Loan, bao gồm địa hình đa dạng với núi non và đồng bằng, các kiểu khí hậu từ nhiệt đới đến ôn đới, cũng như sự phong phú của môi trường tự nhiên và hệ sinh thái độc đáo của hòn đảo.

Vùng đất do Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát bao gồm 168 hòn đảo với tổng diện tích 36.19 K km2. Đảo chính, được biết đến trong lịch sử với tên gọi Formosa, chiếm 99% diện tích này, có kích thước NaN Q 0 và nằm cách bờ biển đông nam của Trung Quốc đại lục khoảng 180 0 qua eo biển Đài Loan. Biển Hoa Đông nằm ở phía bắc, Biển Philippines ở phía đông, Eo biển Luzon ở phía nam và Biển Đông ở phía tây nam. Các đảo nhỏ hơn bao gồm quần đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan, các đảo Kim Môn, Mã Tổ và Ô Khâu gần bờ biển Trung Quốc, và một số đảo thuộc Biển Đông.
4.1. Địa hình
Đảo chính là một khối đứt gãy nghiêng, đặc trưng bởi sự tương phản giữa hai phần ba phía đông, chủ yếu bao gồm năm dãy núi hiểm trở chạy song song với bờ biển phía đông, và các đồng bằng bằng phẳng đến thoai thoải ở một phần ba phía tây, nơi phần lớn dân số Đài Loan sinh sống. Có một số đỉnh núi cao trên 3.50 K m, cao nhất là Ngọc Sơn với độ cao NaN Q m (NaN Q ft), khiến Đài Loan trở thành hòn đảo cao thứ tư thế giới. Ranh giới kiến tạo hình thành nên các dãy núi này vẫn còn hoạt động, và hòn đảo thường xuyên xảy셔ng ra nhiều trận động đất. Cũng có nhiều núi lửa ngầm đang hoạt động ở eo biển Đài Loan.
Đài Loan có bốn vùng sinh thái trên cạn: Rừng thường xanh cận nhiệt đới Jian Nan, Quần đảo Biển Đông, Rừng mưa gió mùa Nam Đài Loan, và Rừng thường xanh cận nhiệt đới Đài Loan. Các ngọn núi phía đông có rừng rậm bao phủ và là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật đa dạng, trong khi việc sử dụng đất ở các vùng đất thấp phía tây và phía bắc rất chuyên sâu. Quốc gia này có điểm trung bình Chỉ số Toàn vẹn Cảnh quan Rừng năm 2019 là 6,38/10, xếp thứ 76 trên toàn cầu trong số 172 quốc gia.
4.2. Khí hậu
Đài Loan nằm trên chí tuyến Bắc, và khí hậu chung của nó là nhiệt đới hải dương. Các khu vực phía bắc và trung tâm là cận nhiệt đới, trong khi phía nam là nhiệt đới và các vùng núi là ôn đới. Lượng mưa trung bình là 2.60 K abbr=off mỗi năm cho riêng hòn đảo; mùa mưa trùng với sự khởi đầu của gió mùa Đông Á mùa hè vào tháng Năm và tháng Sáu. Toàn bộ hòn đảo trải qua thời tiết nóng ẩm từ tháng Sáu đến tháng Chín. Bão phổ biến nhất vào tháng Bảy, tháng Tám và tháng Chín. Trong mùa đông (tháng Mười Một đến tháng Ba), vùng đông bắc có mưa đều đặn, trong khi các vùng trung tâm và phía nam của hòn đảo chủ yếu có nắng.
Do biến đổi khí hậu, nhiệt độ trung bình ở Đài Loan đã tăng 1.4 °C trong 100 năm qua, gấp đôi mức tăng nhiệt độ trên toàn thế giới. Mục tiêu của chính phủ Đài Loan là cắt giảm phát thải carbon 20% vào năm 2030 và 50% vào năm 2050, so với mức năm 2005. Lượng khí thải carbon tăng 0,92% từ năm 2005 đến năm 2016.
4.3. Môi trường tự nhiên và hệ sinh thái
Các vùng sinh thái chính của Đài Loan bao gồm rừng cận nhiệt đới thường xanh, rừng mưa gió mùa và các khu vực núi cao. Do địa hình đa dạng, Đài Loan sở hữu một hệ động thực vật phong phú và nhiều loài đặc hữu. Các loài động vật nổi bật bao gồm gấu đen Formosa, hươu sao Formosa, và nhiều loài chim đặc hữu. Hệ thực vật cũng rất đa dạng với nhiều loài lan quý hiếm và các loại cây rừng đặc trưng.
Đài Loan đã thành lập nhiều khu bảo tồn thiên nhiên và công viên quốc gia để bảo vệ sự đa dạng sinh học, như Công viên quốc gia Thái Lỗ Các, Công viên quốc gia Ngọc Sơn và Công viên quốc gia Khẩn Đinh. Tuy nhiên, Đài Loan cũng đối mặt với các vấn đề môi trường như ô nhiễm không khí và nước do công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng. Biến đổi khí hậu cũng đang gây ra những tác động tiêu cực như mực nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan thường xuyên hơn. Chính phủ Đài Loan đang nỗ lực thực hiện các chính sách nhằm giảm thiểu tác động môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững.
5. Chính trị
Phần này trình bày về hệ thống chính trị của Trung Hoa Dân Quốc, bao gồm cấu trúc chính phủ dựa trên nguyên tắc Ngũ quyền phân lập, các cơ quan chủ chốt, hiến pháp, các chính đảng lớn, tình hình bản sắc quốc gia và dư luận, cũng như các vấn đề chính trị đương đại như quyền LGBT.
5.1. Cấu trúc chính phủ

Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc được thành lập dựa trên Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc năm 1947 và ba nguyên tắc của nhân dân, trong đó nêu rõ Trung Hoa Dân Quốc "sẽ là một nước cộng hòa dân chủ của nhân dân, do nhân dân cai trị và vì nhân dân". Hiến pháp đã trải qua những sửa đổi đáng kể trong những năm 1990, được gọi chung là Các Điều khoản Bổ sung. Chính phủ được chia thành năm nhánh (viện): Hành chính viện (nội các), Lập pháp viện (Quốc hội hoặc Nghị viện), Tư pháp viện, Giám sát viện (cơ quan kiểm toán), và Khảo thí viện (cơ quan khảo thí công vụ).

Nguyên thủ quốc gia và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang là Tổng thống, người được bầu bằng phiếu phổ thông với tối đa 2 nhiệm kỳ bốn năm trên cùng một liên danh với phó tổng thống. Tổng thống bổ nhiệm các thành viên của Hành chính viện làm nội các của mình, bao gồm một Viện trưởng Hành chính viện, người chính thức là Chủ tịch Hành chính viện; các thành viên chịu trách nhiệm về chính sách và quản lý.
Cơ quan lập pháp chính là đơn viện Lập pháp viện với 113 ghế. Bảy mươi ba ghế được bầu bằng phiếu phổ thông từ các khu vực bầu cử một thành viên; ba mươi bốn ghế được bầu dựa trên tỷ lệ phiếu bầu toàn quốc mà các đảng chính trị tham gia nhận được trong một cuộc bỏ phiếu danh sách đảng riêng biệt; và sáu ghế được bầu từ hai khu vực bầu cử thổ dân ba thành viên. Các thành viên phục vụ nhiệm kỳ bốn năm. Ban đầu, Đại hội Quốc dân đơn viện, với tư cách là một hội nghị lập hiến thường trực và cử tri đoàn, nắm giữ một số chức năng nghị viện, nhưng Đại hội Quốc dân đã bị bãi bỏ vào năm 2005 với quyền sửa đổi hiến pháp được giao cho Lập pháp viện và tất cả các cử tri đủ điều kiện của Trung Hoa Dân Quốc thông qua trưng cầu dân ý.

Viện trưởng Hành chính viện được tổng thống lựa chọn mà không cần sự chấp thuận của cơ quan lập pháp, và cả tổng thống lẫn viện trưởng đều không có quyền phủ quyết. Trong lịch sử, Trung Hoa Dân Quốc bị chi phối bởi chính trị độc đảng mạnh mẽ. Di sản này đã dẫn đến việc quyền hành pháp hiện đang tập trung vào văn phòng tổng thống thay vì viện trưởng.
Tư pháp viện là cơ quan tư pháp cao nhất. Nó giải thích hiến pháp và các luật lệ, nghị định khác, xét xử các vụ kiện hành chính và kỷ luật các công chức. Viện trưởng và Phó Viện trưởng Tư pháp viện cùng mười ba thẩm phán khác tạo thành Tòa án Hiến pháp, được thành lập vào năm 1993 để giải quyết các tranh chấp hiến pháp, điều chỉnh hoạt động của các đảng chính trị và đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa. Tòa án Hiến pháp trước đây được gọi là Hội đồng Đại Pháp quan. Họ được tổng thống đề cử và bổ nhiệm, với sự đồng ý của Lập pháp viện. Tòa án cao nhất, Tòa án Tối cao, bao gồm một số bộ phận dân sự và hình sự, mỗi bộ phận được thành lập bởi một thẩm phán chủ tọa và bốn thẩm phán liên kết, tất cả đều được bổ nhiệm trọn đời. Quyền được xét xử công bằng, công khai được pháp luật bảo vệ và tôn trọng trên thực tế. Không có xét xử bởi bồi thẩm đoàn, tuy nhiên nhiều vụ án được chủ trì bởi nhiều thẩm phán.
Giám sát viện là một cơ quan giám sát các hành động của cơ quan hành pháp. Nó có thể được coi là một ủy ban thường trực để điều tra hành chính, giống như Tòa án Kiểm toán của Liên minh châu Âu hoặc Văn phòng Trách nhiệm giải trình của Chính phủ Hoa Kỳ. Nó cũng chịu trách nhiệm về Ủy ban Nhân quyền Quốc gia.
Khảo thí viện chịu trách nhiệm xác nhận tư cách của công chức. Nó dựa trên hệ thống thi cử của hoàng gia được sử dụng ở Trung Quốc thời phong kiến. Nó có thể được so sánh với Văn phòng Tuyển chọn Nhân sự châu Âu của Liên minh châu Âu hoặc Văn phòng Quản lý Nhân sự của Hoa Kỳ. Nó đã bị thu hẹp quy mô vào năm 2019, và đã có những lời kêu gọi bãi bỏ nó.
5.2. Hiến pháp
Hiến pháp được Quốc Dân Đảng soạn thảo khi Trung Hoa Dân Quốc vẫn còn cai trị Trung Quốc đại lục. Các cải cách chính trị bắt đầu vào cuối những năm 1970 đã dẫn đến việc chấm dứt thiết quân luật vào năm 1987, và Đài Loan chuyển đổi thành một nền dân chủ đa đảng vào đầu những năm 1990. Cơ sở hiến pháp cho quá trình chuyển đổi sang dân chủ này dần dần được đặt ra trong Các Điều khoản Bổ sung của Hiến pháp. Các điều khoản này đã đình chỉ các phần của Hiến pháp được thiết kế để quản lý Trung Quốc đại lục và thay thế chúng bằng các điều khoản được điều chỉnh để quản lý và đảm bảo các quyền chính trị của cư dân Khu vực Đài Loan, như được định nghĩa trong Đạo luật Xuyên eo biển.
Ranh giới quốc gia không được quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 1947, và Tòa án Hiến pháp đã từ chối xác định các ranh giới này trong một diễn giải năm 1993, coi vấn đề này là một vấn đề chính trị cần được giải quyết bởi Hành chính viện và Lập pháp viện. Hiến pháp năm 1947 bao gồm các điều khoản liên quan đến các đại biểu từ các lãnh thổ cũ của nhà Thanh bao gồm Tây Tạng và các minh của Mông Cổ. Trung Hoa Dân Quốc công nhận Mông Cổ là một quốc gia độc lập vào năm 1946 sau khi ký Hiệp ước Hữu nghị và Liên minh Trung-Xô năm 1945, nhưng sau khi rút về Đài Loan năm 1949, họ đã từ bỏ để bảo vệ yêu sách của mình đối với Trung Quốc đại lục. Các Điều khoản Bổ sung của những năm 1990 không thay đổi ranh giới quốc gia, nhưng đã đình chỉ các điều khoản liên quan đến các đại biểu Mông Cổ và Tây Tạng. Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu chấp nhận hộ chiếu Mông Cổ và loại bỏ các điều khoản đề cập đến Ngoại Mông khỏi Đạo luật Quản lý Quan hệ giữa Nhân dân Khu vực Đài Loan và Khu vực Đại lục vào năm 2002. Năm 2012, Hội đồng Các vấn đề Đại lục đã ban hành một tuyên bố làm rõ rằng Ngoại Mông không phải là một phần lãnh thổ quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1947. Ủy ban Các vấn đề Mông Cổ và Tây Tạng thuộc Hành chính viện đã bị bãi bỏ vào năm 2017.
5.3. Các chính đảng chủ yếu và cục diện chính trị

Bối cảnh chính trị của Đài Loan được phân chia thành hai phe chính về quan hệ hai bờ eo biển, tức là cách Đài Loan nên liên hệ với Trung Quốc hoặc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Liên minh Pan-Green (ví dụ: Đảng Dân chủ Tiến bộ) nghiêng về độc lập, và Liên minh Pan-Blue (ví dụ: Quốc Dân Đảng) nghiêng về thống nhất. Những người ôn hòa trong cả hai phe đều coi Trung Hoa Dân Quốc là một quốc gia độc lập có chủ quyền, nhưng Liên minh Pan-Green coi Trung Hoa Dân Quốc là đồng nghĩa với Đài Loan, trong khi những người ôn hòa trong Liên minh Pan-Blue coi nó là đồng nghĩa với Trung Quốc. Các lập trường này hình thành trong bối cảnh Luật chống ly khai của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đe dọa sử dụng "các biện pháp phi hòa bình" để đối phó với nền độc lập chính thức của Đài Loan. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc hiểu điều này có nghĩa là một cuộc xâm lược quân sự vào Đài Loan.
Liên minh Pan-Green chủ yếu do Đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) ủng hộ độc lập, Đảng Kiến quốc Đài Loan (TSP) và Đảng Xanh (GPT) lãnh đạo. Họ phản đối ý tưởng Đài Loan là một phần của Trung Quốc, và tìm kiếm sự công nhận ngoại giao rộng rãi và cuối cùng là tuyên bố độc lập chính thức của Đài Loan. Vào tháng 9 năm 2007, DPP cầm quyền lúc đó đã thông qua một nghị quyết khẳng định bản sắc riêng biệt với Trung Quốc và kêu gọi ban hành một hiến pháp mới cho một "quốc gia bình thường". Nó cũng kêu gọi sử dụng chung "Đài Loan" làm tên của đất nước, mà không bãi bỏ tên chính thức của nó, "Trung Hoa Dân Quốc". Tên gọi "Đài Loan" ngày càng được sử dụng thường xuyên hơn sau sự xuất hiện của phong trào độc lập Đài Loan. Một số thành viên của liên minh, chẳng hạn như cựu Tổng thống Trần Thủy Biển, cho rằng không cần thiết phải tuyên bố độc lập vì "Đài Loan đã là một quốc gia độc lập, có chủ quyền" và Trung Hoa Dân Quốc cũng chính là Đài Loan. Mặc dù là thành viên của Quốc Dân Đảng trước và trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, Lý Đăng Huy cũng có quan điểm tương tự và là người ủng hộ phong trào Đài Loan hóa. TSP và GPT đã áp dụng một đường lối quyết liệt hơn DPP, để giành được phiếu bầu của những người ủng hộ độc lập không hài lòng với lập trường bảo thủ của DPP.
Liên minh Pan-Blue, bao gồm Quốc Dân Đảng (KMT) ủng hộ thống nhất, Đảng Thân Dân (PFP) và Tân Đảng nói chung ủng hộ tinh thần của Đồng thuận 1992, trong đó Quốc Dân Đảng tuyên bố rằng chỉ có một Trung Quốc, nhưng Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có những cách giải thích khác nhau về ý nghĩa của "Trung Quốc". Họ ủng hộ việc thống nhất cuối cùng với Trung Quốc. Về vấn đề độc lập, lập trường chính của Pan-Blue là duy trì hiện trạng, đồng thời từ chối thống nhất ngay lập tức. Tổng thống Mã Anh Cửu tuyên bố rằng sẽ không có thống nhất cũng như tuyên bố độc lập trong nhiệm kỳ tổng thống của ông. Mã Anh Cửu tuyên bố rằng quan hệ hai bờ eo biển không phải là giữa hai Trung Quốc hay hai nhà nước. Đó là một mối quan hệ đặc biệt. Hơn nữa, ông tuyên bố rằng các vấn đề chủ quyền giữa hai bên không thể được giải quyết ở hiện tại. Một số thành viên Pan-Blue tìm cách cải thiện quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tập trung vào việc cải thiện quan hệ kinh tế.
5.4. Bản sắc quốc gia và dư luận
Khoảng 84% dân số Đài Loan là hậu duệ của những người Hoa nhập cư từ năm 1683 đến 1895. Một phần đáng kể khác là hậu duệ của những người Hoa nhập cư từ Trung Quốc đại lục vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950. Nguồn gốc văn hóa chung cũng như sự thù địch giữa Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối địch đã dẫn đến việc bản sắc dân tộc trở thành một vấn đề gây tranh cãi mang màu sắc chính trị.
Kể từ khi cải cách dân chủ và dỡ bỏ thiết quân luật, một bản sắc Đài Loan riêng biệt thường là trung tâm của các cuộc tranh luận chính trị. Việc chấp nhận nó làm cho hòn đảo khác biệt với Trung Quốc đại lục, và do đó có thể được coi là một bước tiến tới hình thành một sự đồng thuận cho nền độc lập de jure của Đài Loan. Phe Pan-Green ủng hộ một bản sắc Đài Loan chủ yếu (mặc dù "Trung Quốc" có thể được coi là di sản văn hóa), trong khi phe Pan-Blue ủng hộ một bản sắc Trung Quốc chủ yếu (với "Đài Loan" là một bản sắc Trung Quốc khu vực/hải ngoại). Quốc Dân Đảng đã giảm nhẹ lập trường này trong những năm gần đây và hiện ủng hộ một bản sắc Đài Loan như một phần của bản sắc Trung Quốc.
Sự nhận diện là người Đài Loan đã tăng đáng kể từ đầu những năm 1990, trong khi sự nhận diện là người Trung Quốc đã giảm xuống mức thấp, và sự nhận diện là cả hai cũng đã giảm. Năm 1992, 17,6% số người được hỏi tự nhận là người Đài Loan, 25,5% là người Trung Quốc, 46,4% là cả hai, và 10,5% không trả lời. Vào tháng 6 năm 2021, 63,3% tự nhận là người Đài Loan, 2,6% là người Trung Quốc, 31,4% là cả hai, và 2,7% không trả lời. Một cuộc khảo sát được thực hiện tại Đài Loan bởi Trung tâm Nghiên cứu Khảo sát Toàn cầu vào tháng 7 năm 2009 cho thấy 82,8% số người được hỏi coi Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là hai quốc gia riêng biệt, mỗi quốc gia phát triển theo cách riêng của mình, nhưng 80,2% cho rằng họ là thành viên của người Trung Quốc.
5.5. Quyền LGBT
Vào ngày 24 tháng 5 năm 2017, Tòa án Hiến pháp đã ra phán quyết rằng các luật hôn nhân hiện hành đã vi phạm Hiến pháp bằng cách từ chối quyền kết hôn của các cặp đồng giới. Tòa án phán quyết rằng nếu Lập pháp viện không thông qua các sửa đổi thích hợp đối với luật hôn nhân của Đài Loan trong vòng hai năm, hôn nhân đồng giới sẽ tự động trở thành hợp pháp tại Đài Loan. Tuy nhiên, trong một câu hỏi trưng cầu dân ý năm 2018, cử tri đã bày tỏ sự phản đối áp đảo đối với hôn nhân đồng giới và ủng hộ việc loại bỏ nội dung về đồng tính luyến ái khỏi sách giáo khoa tiểu học. Theo New York Times, các câu hỏi trưng cầu dân ý là đối tượng của một "chiến dịch được tài trợ tốt và tổ chức cao do những người Cơ đốc giáo bảo thủ và các nhóm khác dẫn đầu" liên quan đến việc sử dụng thông tin sai lệch. Tuy nhiên, cuộc bỏ phiếu chống lại hôn nhân đồng giới không ảnh hưởng đến phán quyết của tòa án, và vào ngày 17 tháng 5 năm 2019, quốc hội Đài Loan đã thông qua một dự luật hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới, biến nước này thành quốc gia đầu tiên ở châu Á làm điều đó.
Đài Loan có một sự kiện tự hào hàng năm, Taiwan Pride. Hiện tại, nó giữ kỷ lục là cuộc tụ họp LGBT lớn nhất ở Đông Á, sánh ngang với Tel Aviv Pride ở Israel. Sự kiện này thu hút hơn 200.000 người.
6. Đơn vị hành chính
Theo hiến pháp năm 1947, lãnh thổ của Trung Hoa Dân Quốc là theo "ranh giới quốc gia hiện có". Trung Hoa Dân Quốc, de jure theo hiến pháp, được chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (được chia nhỏ thành các quận để quản lý địa phương), và Khu vực Tây Tạng cấp tỉnh. Mỗi tỉnh được chia nhỏ thành thành phố và huyện, được chia nhỏ thành các hương và thành phố thuộc huyện, mỗi nơi đều có thị trưởng và ủy viên hội đồng thành phố được bầu cử, những người chia sẻ nhiệm vụ với huyện. Một số đơn vị là đơn vị bản địa có mức độ tự trị khác nhau so với các đơn vị tiêu chuẩn. Ngoài ra, các quận, thành phố và hương được chia nhỏ thành các thôn và khu phố. Các tỉnh đã được "hợp lý hóa" và không còn hoạt động nữa. Tương tự, các minh Mông Cổ cho Nội Mông của Trung Quốc cũng tồn tại, nhưng chúng đã bị bãi bỏ vào năm 2006 và Trung Hoa Dân Quốc tái khẳng định việc công nhận Mông Cổ (trước đây gọi là Ngoại Mông ở Đài Loan) vào năm 2002, như quy định trong hiến pháp năm 1946.
Với các tỉnh không còn hoạt động, Đài Loan trên thực tế được chia thành 22 đơn vị hành chính cấp dưới quốc gia, mỗi đơn vị có một cơ quan tự quản do một nhà lãnh đạo được bầu cử đứng đầu và một cơ quan lập pháp với các thành viên được bầu cử. Nhiệm vụ của chính quyền địa phương bao gồm các dịch vụ xã hội, giáo dục, quy hoạch đô thị, xây dựng công cộng, quản lý nước, bảo vệ môi trường, giao thông, an toàn công cộng, v.v.
Khi Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan năm 1949, lãnh thổ mà họ tuyên bố bao gồm 35 tỉnh, 12 thành phố trực thuộc trung ương, 1 đặc khu hành chính và 2 khu tự trị. Tuy nhiên, kể từ khi rút lui, Trung Hoa Dân Quốc chỉ kiểm soát Tỉnh Đài Loan và một số đảo thuộc Tỉnh Phúc Kiến. Trung Hoa Dân Quốc cũng kiểm soát Quần đảo Đông Sa và Đảo Ba Bình thuộc Quần đảo Trường Sa, là một phần của Quần đảo Biển Đông đang tranh chấp. Chúng được đặt dưới quyền quản lý của Cao Hùng sau khi rút về Đài Loan.
6.1. Các đô thị chủ yếu
Đài Loan có nhiều thành phố lớn đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa.
Hạng | Thành phố | Phân khu | Dân số (Ước tính 2019) | Hình ảnh |
---|---|---|---|---|
1 | Tân Bắc | Thành phố Tân Bắc | 4.000.164 | ![]() |
2 | Đài Trung | Thành phố Đài Trung | 2.809.004 | ![]() |
3 | Cao Hùng | Thành phố Cao Hùng | 2.773.229 | ![]() |
4 | Đài Bắc | Thành phố Đài Bắc | 2.661.317 | ![]() |
5 | Đào Viên | Thành phố Đào Viên | 2.230.653 | |
6 | Đài Nam | Thành phố Đài Nam | 1.883.078 | |
7 | Tân Trúc | Thành phố Tân Trúc | 446.701 | |
8 | Cơ Long | Thành phố Cơ Long | 369.820 | |
9 | Gia Nghĩa | Thành phố Gia Nghĩa | 268.474 | |
10 | Chương Hóa | Huyện Chương Hóa | 232.505 |
- Đài Bắc (臺北Đài BắcChinese) là thủ đô và trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Đài Loan. Đây là một đô thị hiện đại với dân số đông đúc, nổi tiếng với tòa nhà Đài Bắc 101.
- Tân Bắc (新北Tân BắcChinese) là thành phố đông dân nhất Đài Loan, bao quanh Đài Bắc. Tân Bắc có nhiều khu công nghiệp, khu dân cư và các điểm du lịch tự nhiên.
- Cao Hùng (高雄Cao HùngChinese) là thành phố lớn thứ ba và là cảng biển quan trọng nhất của Đài Loan. Đây là trung tâm công nghiệp nặng và vận tải biển của hòn đảo.
- Đài Trung (臺中Đài TrungChinese) là một trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng ở miền trung Đài Loan, nổi tiếng với khí hậu dễ chịu và các trường đại học.
- Đài Nam (臺南Đài NamChinese) là thành phố cổ nhất Đài Loan, từng là thủ phủ dưới thời nhà Thanh và Vương quốc Đông Ninh. Đài Nam giàu có về di sản lịch sử và văn hóa.
7. Quan hệ đối ngoại
Vị thế chính trị và pháp lý của Đài Loan là những vấn đề gây tranh cãi. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) tuyên bố rằng Đài Loan là lãnh thổ của Trung Quốc và CHNDTH đã thay thế chính phủ Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1949, trở thành chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Hoa Dân Quốc có tiền tệ riêng, hộ chiếu được chấp nhận rộng rãi, tem thư, TLD Internet, lực lượng vũ trang, hiến pháp và các thể chế riêng. Nước này chưa chính thức từ bỏ yêu sách của mình đối với đại lục, nhưng các ấn phẩm của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ngày càng giảm nhẹ yêu sách lịch sử này.
Cho đến năm 1928, chính sách đối ngoại của Trung Hoa Dân Quốc phức tạp do thiếu sự thống nhất nội bộ-các trung tâm quyền lực cạnh tranh đều tuyên bố tính hợp pháp. Tình hình này thay đổi sau thất bại của Chính phủ Bắc Dương trước Quốc Dân Đảng (KMT), dẫn đến sự công nhận ngoại giao rộng rãi của Trung Hoa Dân Quốc. Sau khi Quốc Dân Đảng rút về Đài Loan, hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia thuộc Khối phương Tây - ngoại trừ Vương quốc Anh, công nhận CHNDTH năm 1950 - tiếp tục duy trì quan hệ chính thức với Trung Hoa Dân Quốc; nhưng sự công nhận dần bị xói mòn và nhiều quốc gia chuyển sang công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào những năm 1970. Vào ngày 25 tháng 10 năm 1971, Nghị quyết 2758 của Liên Hợp Quốc được thông qua với 76 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 17 phiếu trắng, công nhận CHNDTH là đại diện duy nhất của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc.
CHNDTH từ chối có quan hệ ngoại giao với bất kỳ quốc gia nào có quan hệ ngoại giao với Trung Hoa Dân Quốc, và yêu cầu tất cả các quốc gia mà họ có quan hệ ngoại giao phải đưa ra tuyên bố về các yêu sách của mình đối với Đài Loan. Do đó, chỉ có 11 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc và Tòa Thánh duy trì quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Hoa Dân Quốc. Trung Hoa Dân Quốc duy trì quan hệ không chính thức với các quốc gia khác thông qua các văn phòng đại diện kinh tế và văn hóa Đài Bắc (TECRO), với các văn phòng chi nhánh được gọi là "Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc" (TECO). Cả TECRO và TECO đều là "các thực thể thương mại không chính thức" của Trung Hoa Dân Quốc chịu trách nhiệm duy trì quan hệ ngoại giao, cung cấp dịch vụ lãnh sự và phục vụ lợi ích quốc gia của Trung Hoa Dân Quốc.
Từ năm 1954 đến năm 1979, Hoa Kỳ là đối tác của Đài Loan trong một hiệp ước phòng thủ chung. Hoa Kỳ vẫn là một trong những người ủng hộ chính của Đài Loan và, thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan được thông qua năm 1979, đã tiếp tục bán vũ khí và cung cấp huấn luyện quân sự cho Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. CHNDTH coi sự can dự của Hoa Kỳ là gây rối cho sự ổn định của khu vực. Lập trường chính thức của Hoa Kỳ là CHNDTH dự kiến sẽ "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan" và Trung Hoa Dân Quốc phải "thận trọng trong việc quản lý mọi khía cạnh của quan hệ hai bờ eo biển." Cả hai bên đều phải kiềm chế thực hiện các hành động hoặc đưa ra các tuyên bố "sẽ đơn phương thay đổi vị thế của Đài Loan." Mặc dù không được chính thức xếp hạng là một đồng minh lớn ngoài NATO, nhưng trên thực tế, Đài Loan đã được Hoa Kỳ đối xử theo cách này ít nhất là từ năm 2003.
Đài Loan, kể từ năm 2016 theo Chính sách Hướng Nam Mới của chính quyền Thái Anh Văn, đã theo đuổi quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với các nước Nam và Đông Nam Á, tăng cường hợp tác đầu tư và giao lưu nhân dân bất chấp việc khu vực này nói chung thiếu quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Bắc. Chính sách này đã dẫn đến việc Đài Loan tiếp nhận số lượng người di cư và sinh viên từ khu vực này ngày càng tăng. Tuy nhiên, một vài vụ bê bối về việc người Đông Nam Á, đặc biệt là người Indonesia, bị bóc lột trong các chương trình học bổng và trong một số ngành công nghiệp lao động đã nổi lên như những trở ngại cho chính sách này cũng như cho quan hệ Indonesia-Đài Loan.
7.1. Quan hệ hai bờ
Hội đồng Các vấn đề Đại lục (MAC) của Đài Loan chịu trách nhiệm về quan hệ với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), trong khi Văn phòng Các vấn đề Đài Loan (TAO) của CHNDTH chịu trách nhiệm về quan hệ với Đài Loan. Các cuộc trao đổi được thực hiện thông qua các tổ chức tư nhân được thành lập vào năm 1991: Quỹ Giao lưu Eo biển (SEF) của Đài Loan và Hiệp hội Quan hệ Xuyên Eo biển Đài Loan (ARATS) của CHNDTH.
Vào tháng 11 năm 1992, ARATS và SEF đã tổ chức một cuộc họp mà sau này được gọi là Đồng thuận 1992. SEF tuyên bố rằng cả hai bên đều đồng ý rằng chỉ có một Trung Quốc, nhưng không đồng ý về định nghĩa Trung Quốc (tức là Trung Hoa Dân Quốc so với CHNDTH), trong khi ARATS tuyên bố rằng hai bên đã đồng ý về nguyên tắc Một Trung Quốc, nhưng không đề cập đến những khác biệt liên quan đến định nghĩa của nó được đưa ra trong tuyên bố của SEF. Tại Đài Loan, Đảng Dân chủ Tiến bộ cầm quyền đã bác bỏ Đồng thuận 1992 kể từ đầu năm 2019. Tổng thống Lại Thanh Đức đã tuyên bố rằng Trung Hoa Dân Quốc và CHNDTH không phụ thuộc vào nhau.
Nguyên tắc Một Trung Quốc của CHNDTH tuyên bố rằng cả Đài Loan và Trung Quốc đại lục đều là một phần của Trung Quốc, và CHNDTH là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc. Nó tìm cách ngăn chặn hoặc giảm bớt bất kỳ sự công nhận chính thức nào đối với Trung Hoa Dân Quốc như một quốc gia có chủ quyền độc lập, có nghĩa là Đài Loan tham gia nhiều diễn đàn quốc tế với tư cách là thành viên phi nhà nước dưới các tên gọi như "Đài Bắc Trung Hoa". CHNDTH đã đề xuất mô hình "một quốc gia, hai chế độ" được áp dụng tại Hồng Kông làm mô hình cho việc thống nhất hòa bình với Đài Loan. Mặc dù nhằm mục đích thống nhất hòa bình, CHNDTH không loại trừ việc sử dụng vũ lực. Môi trường chính trị phức tạp bởi tiềm năng xung đột quân sự nếu các sự kiện được nêu trong Luật chống ly khai của CHNDTH xảy ra, chẳng hạn như Đài Loan tuyên bố độc lập de jure. Có một sự hiện diện quân sự đáng kể trên bờ biển Phúc Kiến cũng như các cuộc xuất kích của CHNDTH vào vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Đài Loan.
7.2. Vị thế và sự tham gia trong cộng đồng quốc tế
Trung Hoa Dân Quốc là một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc, và giữ ghế của Trung Quốc tại Hội đồng Bảo an và các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc cho đến năm 1971, khi bị trục xuất bởi Nghị quyết 2758 và được thay thế bằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vì Trung Hoa Dân Quốc hiện không có tư cách thành viên chính thức cũng như tư cách quan sát viên trong tổ chức này. Kể từ năm 1993, Trung Hoa Dân Quốc đã kiến nghị Liên Hợp Quốc cho gia nhập, nhưng các đơn xin của họ chưa vượt qua được giai đoạn ủy ban. Do chính sách Một Trung Quốc, hầu hết các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, bao gồm cả Hoa Kỳ, không muốn thảo luận về vấn đề vị thế chính trị của Trung Hoa Dân Quốc vì sợ làm xấu đi quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã chuyển trọng tâm sang các tổ chức liên kết với Liên Hợp Quốc, cũng như các tổ chức ngoài hệ thống Liên Hợp Quốc. Chính phủ đã tìm cách tham gia Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) từ năm 1997, những nỗ lực của họ đã bị từ chối cho đến năm 2009, khi họ tham gia với tư cách quan sát viên dưới tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa" sau khi đạt được thỏa thuận với Bắc Kinh. Năm 2017, Đài Loan lại bắt đầu bị loại trừ khỏi WHO ngay cả với tư cách quan sát viên. Việc loại trừ này đã gây ra một số vụ bê bối trong đợt bùng phát COVID-19.
Nghị quyết Nagoya năm 1979 được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) thông qua đã đưa ra một thỏa hiệp để Trung Hoa Dân Quốc sử dụng tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa" trong các sự kiện quốc tế mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tham gia, chẳng hạn như Thế vận hội. Theo hiến chương IOC, cờ Trung Hoa Dân Quốc không được treo tại bất kỳ địa điểm hoặc cuộc tụ họp Olympic chính thức nào. Trung Hoa Dân Quốc cũng tham gia diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (từ năm 1991) và Tổ chức Thương mại Thế giới (từ năm 2002) dưới các tên gọi lần lượt là "Đài Bắc Trung Hoa" và "Lãnh thổ Hải quan Riêng biệt của Đài Loan, Bành Hồ, Kim Môn và Mã Tổ". Nó là thành viên sáng lập của Ngân hàng Phát triển châu Á, nhưng kể từ khi Trung Quốc gia nhập năm 1986 đã tham gia dưới tên gọi "Đài Bắc, Trung Quốc". Trung Hoa Dân Quốc có thể tham gia với tư cách "Trung Quốc" trong các tổ chức mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không tham gia, chẳng hạn như Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới.
Do sự công nhận quốc tế hạn chế, Trung Hoa Dân Quốc đã là thành viên của Tổ chức các Quốc gia và Dân tộc không có Đại diện (UNPO) kể từ khi thành lập tổ chức này vào năm 1991, được đại diện bởi một tổ chức do chính phủ tài trợ, Quỹ Dân chủ Đài Loan (TFD), dưới tên gọi "Đài Loan".
7.3. Quan hệ với các quốc gia chủ yếu
Mối quan hệ của Đài Loan với Hoa Kỳ rất phức tạp và có nhiều sắc thái. Mặc dù Hoa Kỳ không chính thức công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập, nhưng họ duy trì mối quan hệ không chính thức mạnh mẽ thông qua Đạo luật Quan hệ Đài Loan. Đạo luật này cam kết Hoa Kỳ cung cấp cho Đài Loan các phương tiện để tự vệ và tuyên bố rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm xác định tương lai của Đài Loan bằng các biện pháp phi hòa bình sẽ được coi là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh của Tây Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng bán vũ khí cho Đài Loan và thường xuyên tiến hành các hoạt động tự do hàng hải ở eo biển Đài Loan.
Quan hệ của Đài Loan với Nhật Bản cũng rất quan trọng. Nhật Bản từng cai trị Đài Loan từ năm 1895 đến năm 1945, và di sản của giai đoạn này vẫn còn ảnh hưởng đến mối quan hệ. Mặc dù Nhật Bản không có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, nhưng hai bên duy trì quan hệ kinh tế và văn hóa chặt chẽ. Nhật Bản ủng hộ việc Đài Loan tham gia các tổ chức quốc tế và bày tỏ quan ngại về sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực. Cả Hoa Kỳ và Nhật Bản đều coi trọng sự ổn định ở eo biển Đài Loan và đã tăng cường hợp tác ba bên về các vấn đề an ninh khu vực. Các quốc gia này thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các vấn đề xuyên eo biển.
8. Quân sự

Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc có nguồn gốc từ Quốc dân Cách mạng Quân, được thành lập bởi Tôn Trung Sơn vào năm 1924 tại Quảng Đông với mục tiêu thống nhất Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng. Khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc giành chiến thắng trong Nội chiến Trung Quốc, phần lớn Quốc dân Cách mạng Quân đã rút về Đài Loan cùng với chính phủ. Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc năm 1947 đã cải tổ nó thành Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, biến nó thành quân đội quốc gia chứ không phải quân đội của một đảng phái chính trị. Các đơn vị đầu hàng và ở lại Trung Quốc đại lục hoặc bị giải tán hoặc được sáp nhập vào Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Từ năm 1949 đến những năm 1970, nhiệm vụ chính của quân đội Đài Loan là "giải phóng Trung Quốc đại lục" thông qua Kế hoạch Quốc Quang. Khi nhiệm vụ này chuyển từ tấn công do sức mạnh tương đối của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tăng lên đáng kể, quân đội Trung Hoa Dân Quốc đã bắt đầu chuyển trọng tâm từ Lục quân truyền thống sang Không quân và Hải quân. Quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang cũng đã được chuyển giao cho chính phủ dân sự.
Trung Hoa Dân Quốc đã bắt đầu một loạt kế hoạch cắt giảm lực lượng kể từ những năm 1990 để giảm quy mô quân đội từ mức 450.000 người vào năm 1997 xuống còn 380.000 người vào năm 2001. Kể từ năm 2021, tổng quân số của Lực lượng Vũ trang được giới hạn ở mức 215.000 người với tỷ lệ biên chế 90% cho quân đội tình nguyện. Chế độ quân dịch vẫn phổ biến đối với nam giới đủ điều kiện đủ 18 tuổi, nhưng như một phần của nỗ lực cắt giảm, nhiều người được trao cơ hội hoàn thành nghĩa vụ quân sự thông qua các dịch vụ thay thế. Lực lượng dự bị của quân đội là khoảng 2,5 triệu người bao gồm cả lực lượng dự bị đợt đầu tiên lên tới 300.000 người tính đến năm 2022. Chi tiêu quốc phòng của Đài Loan tính theo tỷ lệ phần trăm GDP đã giảm xuống dưới ba phần trăm vào năm 1999 và có xu hướng giảm trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cam kết tăng chi tiêu lên mức đề xuất là ba phần trăm GDP. Năm 2024, Đài Loan đề xuất 2,45% GDP dự kiến cho chi tiêu quốc phòng vào năm sau.

Trung Hoa Dân Quốc và Hoa Kỳ đã ký Hiệp ước Phòng thủ chung Trung-Mỹ vào năm 1954, và thành lập Bộ Tư lệnh Phòng thủ Đài Loan của Hoa Kỳ. Khoảng 30.000 quân Hoa Kỳ đã đóng quân tại Đài Loan, cho đến khi Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1979. Một lượng đáng kể khí tài quân sự đã được mua từ Hoa Kỳ, và tiếp tục được Đạo luật Quan hệ Đài Loan đảm bảo về mặt pháp lý. Pháp và Hà Lan cũng đã bán vũ khí và khí tài quân sự cho Trung Hoa Dân Quốc, nhưng họ gần như hoàn toàn ngừng lại vào những năm 1990 dưới áp lực của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Không có sự đảm bảo nào trong Đạo luật Quan hệ Đài Loan hay bất kỳ hiệp ước nào khác rằng Hoa Kỳ sẽ bảo vệ Đài Loan, ngay cả trong trường hợp bị xâm lược. Tuyên bố chung về an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản được ký năm 1996 có thể ngụ ý rằng Nhật Bản sẽ tham gia vào bất kỳ phản ứng nào. Tuy nhiên, Nhật Bản đã từ chối quy định liệu "khu vực xung quanh Nhật Bản" được đề cập trong hiệp ước có bao gồm Đài Loan hay không. Hiệp ước An ninh Úc, New Zealand, Hoa Kỳ (Hiệp ước ANZUS) có thể có nghĩa là các đồng minh khác của Hoa Kỳ, chẳng hạn như Úc, có thể tham gia. Mặc dù điều này có nguy cơ làm tổn hại đến quan hệ kinh tế với Trung Quốc, nhưng một cuộc xung đột về Đài Loan có thể dẫn đến một cuộc phong tỏa kinh tế Trung Quốc bởi một liên minh lớn hơn.
9. Kinh tế

Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng và tăng trưởng nhanh chóng của Đài Loan trong nửa sau của thế kỷ 20 được gọi là "Kỳ tích Đài Loan". Đài Loan là một trong "Bốn con hổ châu Á" cùng với Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore. Tính đến tháng 10 năm 2022, Đài Loan là nền kinh tế lớn thứ 21 trên thế giới theo GDP danh nghĩa.
Từ năm 2001, nông nghiệp chiếm dưới 2% GDP, giảm từ 32% vào năm 1951. Không giống như các nước láng giềng Hàn Quốc và Nhật Bản, nền kinh tế Đài Loan bị chi phối bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chứ không phải là các tập đoàn kinh doanh lớn. Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động truyền thống đang dần được chuyển ra nước ngoài và được thay thế bằng các ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ nhiều hơn. Các khu công nghệ cao đã xuất hiện ở Đài Loan.
Ngày nay Đài Loan có một nền kinh tế năng động, tư bản chủ nghĩa, định hướng xuất khẩu với sự tham gia ngày càng giảm của nhà nước vào đầu tư và ngoại thương. Theo xu hướng này, một số ngân hàng và công ty công nghiệp lớn thuộc sở hữu nhà nước đang được tư nhân hóa. Xuất khẩu đã tạo động lực chính cho công nghiệp hóa. Thặng dư thương mại là đáng kể, và Đài Loan vẫn là một trong những nước nắm giữ dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Tổng kim ngạch thương mại của Đài Loan năm 2022 đạt 907.00 B USD. Cả xuất khẩu và nhập khẩu trong năm đều đạt mức kỷ lục, lần lượt là 479.52 B USD và 427.60 B USD. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là ba đối tác thương mại lớn nhất của Đài Loan, chiếm hơn 40% tổng kim ngạch thương mại.
Kể từ đầu những năm 1990, quan hệ kinh tế giữa Đài Loan và Trung Quốc đã rất rộng rãi. Năm 2002, Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ để trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Đài Loan lần đầu tiên. Trung Quốc cũng là mục tiêu quan trọng nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài ra nước ngoài. Từ năm 1991 đến năm 2022, hơn 200.00 B USD đã được các công ty Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc. Trung Quốc có khoảng 4.200 doanh nghiệp Đài Loan và hơn 240.000 người Đài Loan làm việc tại Trung Quốc. Mặc dù nền kinh tế Đài Loan được hưởng lợi từ tình hình này, một số người đã bày tỏ quan điểm rằng hòn đảo ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc đại lục. Những người khác cho rằng quan hệ kinh tế chặt chẽ giữa Đài Loan và Trung Quốc đại lục sẽ khiến bất kỳ sự can thiệp quân sự nào của PLA chống lại Đài Loan trở nên rất tốn kém, và do đó ít có khả năng xảy ra hơn.
Từ những năm 1980, một số công ty công nghệ có trụ sở tại Đài Loan đã mở rộng phạm vi hoạt động ra toàn thế giới. Đài Loan là một nhân tố chủ chốt trong chuỗi cung ứng chip tiên tiến. Sự trỗi dậy của Đài Loan trong ngành công nghiệp bán dẫn chủ chốt phần lớn được cho là nhờ Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan (TSMC) và Tổng công ty Vi điện tử Thống nhất (UMC). TSMC được thành lập vào ngày 21 tháng 2 năm 1987 và tính đến tháng 12 năm 2021, vốn hóa thị trường của nó tương đương khoảng 90% GDP của Đài Loan. Công ty này là công ty lớn thứ 9 trên thế giới theo vốn hóa thị trường cũng như là công ty sản xuất chất bán dẫn lớn nhất thế giới, vượt qua Intel và Samsung. UMC, một công ty lớn khác trong lĩnh vực xuất khẩu công nghệ cao và chất bán dẫn toàn cầu của Đài Loan, cạnh tranh với GlobalFoundries của Mỹ và các công ty khác về các quy trình bán dẫn ít tiên tiến hơn và về wafer silicon. Các công ty công nghệ quốc tế nổi tiếng khác có trụ sở tại Đài Loan bao gồm các nhà sản xuất máy tính cá nhân Acer Inc. và Asus, cũng như Foxconn, một nhà sản xuất theo hợp đồng điện tử.
9.1. Quá trình phát triển kinh tế
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đài Loan chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Giai đoạn này chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế cao độ, được gọi là "Kỳ tích Đài Loan". Các yếu tố chính đóng góp vào thành công này bao gồm cải cách ruộng đất, đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, chính sách công nghiệp hóa hiệu quả của chính phủ, và sự hỗ trợ kinh tế từ Hoa Kỳ. Nền kinh tế tập trung vào các ngành công nghiệp nhẹ và sau đó là các ngành công nghiệp nặng và công nghệ cao. Tuy nhiên, quá trình phát triển này cũng đặt ra những thách thức về công bằng xã hội và phát triển bền vững, đòi hỏi các chính sách điều chỉnh để đảm bảo sự thịnh vượng chung và bảo vệ môi trường.
9.2. Các ngành công nghiệp chủ yếu
Đài Loan nổi tiếng với các ngành công nghiệp cốt lõi có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.
- Công nghiệp bán dẫn: Đây là ngành công nghiệp quan trọng nhất của Đài Loan, với các công ty hàng đầu thế giới như TSMC. Đài Loan đóng vai trò then chốt trong chuỗi cung ứng chip toàn cầu.
- Sản phẩm điện tử: Sản xuất các thiết bị điện tử tiêu dùng, linh kiện máy tính và thiết bị ngoại vi là một thế mạnh của Đài Loan. Các công ty như Foxconn, Asus, Acer là những tên tuổi lớn.
- Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT): Đài Loan có một hệ sinh thái ICT phát triển mạnh mẽ, bao gồm phần cứng, phần mềm và dịch vụ.
Các ngành công nghiệp này, mặc dù mang lại sự thịnh vượng kinh tế, cũng đối mặt với các vấn đề về điều kiện lao động và tác động môi trường, đòi hỏi sự quan tâm và cải thiện liên tục.
9.3. Khoa học kỹ thuật
Đài Loan đã đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D) khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao. Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp (ITRI) và Khu công nghệ Tân Trúc là những trung tâm nghiên cứu và đổi mới quan trọng. Các thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực bán dẫn, quang điện tử, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Sự tiến bộ công nghệ đã đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng đặt ra các câu hỏi về tác động xã hội, như tự động hóa và sự thay đổi trong cơ cấu việc làm, đòi hỏi các chính sách thích ứng để đảm bảo lợi ích được chia sẻ rộng rãi.
9.4. Ngành du lịch
Đài Loan sở hữu nhiều tài nguyên du lịch đa dạng, từ các cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ như Công viên quốc gia Thái Lỗ Các và Hồ Nhật Nguyệt, đến các di sản văn hóa và lịch sử phong phú tại các thành phố như Đài Bắc và Đài Nam. Các chợ đêm sôi động với ẩm thực đường phố đặc sắc cũng là một điểm thu hút lớn. Chính phủ Đài Loan đã triển khai nhiều chính sách để thúc đẩy ngành du lịch, bao gồm cải thiện cơ sở hạ tầng, quảng bá hình ảnh và đơn giản hóa thủ tục thị thực cho du khách quốc tế. Ngành du lịch đóng góp đáng kể vào kinh tế, tạo việc làm và thúc đẩy giao lưu văn hóa. Tuy nhiên, sự phát triển du lịch cũng đặt ra những thách thức về môi trường và bảo tồn di sản, cần được quản lý một cách bền vững.
10. Giao thông
Phần này mô tả tình hình và đặc điểm của các mạng lưới giao thông chính (đường bộ, đường sắt, hàng không, hàng hải) của Đài Loan. Đánh giá về khả năng tiếp cận, hiệu quả và tác động đến môi trường và xã hội của hệ thống giao thông vận tải.
10.1. Đường bộ
Mạng lưới đường bộ của Đài Loan rất phát triển, bao gồm các đường cao tốc hiện đại kết nối các thành phố lớn và các quốc lộ trải dài khắp hòn đảo. Đường cao tốc Trung Sơn và Đường cao tốc Formosa là hai trục đường bộ chính theo hướng Bắc-Nam. Các phương tiện giao thông chính bao gồm ô tô và xe máy tay ga, trong đó xe máy rất phổ biến do tính linh hoạt và chi phí thấp. Tuy nhiên, mật độ giao thông cao ở các khu đô thị lớn thường dẫn đến các vấn đề về an toàn giao thông và tắc nghẽn, đặc biệt vào giờ cao điểm. Chính phủ đang nỗ lực cải thiện an toàn giao thông và khuyến khích sử dụng phương tiện công cộng.
10.2. Đường sắt
Hệ thống đường sắt của Đài Loan đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các vùng và giảm tải cho giao thông đường bộ.
- Cục quản lý Đường sắt Đài Loan (TRA): Điều hành mạng lưới đường sắt thông thường, bao gồm các tuyến vòng quanh đảo và các tuyến nhánh, phục vụ cả vận chuyển hành khách và hàng hóa.
- Đường sắt cao tốc Đài Loan (THSR): Cung cấp dịch vụ đường sắt cao tốc hiện đại, kết nối các thành phố lớn ở bờ tây Đài Loan, từ Đài Bắc đến Cao Hùng, giúp rút ngắn đáng kể thời gian di chuyển.
- Hệ thống giao thông nhanh (MRT): Các thành phố lớn như Đài Bắc, Cao Hùng, Đào Viên, Tân Bắc và Đài Trung đều có hệ thống tàu điện ngầm (MRT) phát triển, là phương tiện di chuyển công cộng hiệu quả và phổ biến cho người dân đô thị.
10.3. Hàng không

Đài Loan có một mạng lưới hàng không phát triển, phục vụ cả các chuyến bay nội địa và quốc tế.
- Sân bay quốc tế chính: Sân bay quốc tế Đào Viên Đài Loan (TPE) là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn nhất, tiếp theo là Sân bay quốc tế Cao Hùng (KHH), Sân bay Tùng Sơn Đài Bắc (TSA) và Sân bay Đài Trung (RMQ).
- Hãng hàng không quốc gia: China Airlines và EVA Air là hai hãng hàng không lớn nhất của Đài Loan, khai thác nhiều tuyến bay đến các điểm đến trên toàn thếษย์ giới.
- Tuyến bay: Các tuyến bay quốc tế kết nối Đài Loan với các trung tâm lớn ở châu Á, Bắc Mỹ, châu Âu và châu Đại Dương. Các chuyến bay nội địa chủ yếu kết nối đảo chính với các đảo nhỏ hơn như Bành Hồ, Kim Môn và Mã Tổ.
Ngành hàng không đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối Đài Loan với thế giới, thúc đẩy du lịch và thương mại.
10.4. Vận tải biển
Với vị thế là một quốc đảo, vận tải biển đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với thương mại quốc tế của Đài Loan.
- Các cảng quốc tế chính: Cảng Cao Hùng là cảng container lớn nhất và bận rộn nhất Đài Loan, là một trong những cảng hàng đầu thế giới. Các cảng quan trọng khác bao gồm Cảng Cơ Long, Cảng Đài Bắc và Cảng Đài Trung.
- Vận chuyển hàng hóa và hành khách: Phần lớn hàng hóa xuất nhập khẩu của Đài Loan được vận chuyển bằng đường biển. Các tuyến vận tải hành khách chủ yếu kết nối đảo chính với các đảo xa và một số tuyến quốc tế hạn chế.
Ngành vận tải biển là huyết mạch của nền kinh tế định hướng xuất khẩu của Đài Loan, hỗ trợ cho vị thế của Đài Loan trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
11. Xã hội
Phần này trình bày các khía cạnh xã hội chính của Đài Loan, bao gồm cơ cấu dân số, các nhóm dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, giáo dục, y tế công cộng và phúc lợi xã hội, đồng thời chú trọng đến sự bình đẳng, hòa nhập xã hội và chất lượng cuộc sống.
11.1. Thống kê dân số
Dân số Đài Loan khoảng 23,9 triệu người, phần lớn tập trung ở đảo chính Đài Loan. Phần còn lại sống trên các đảo xa bờ như Bành Hồ (101.758), Kim Môn (127.723), và Mã Tổ (12.506).
- Tổng dân số: Khoảng 23,9 triệu người.
- Mật độ dân số: Rất cao, đặc biệt ở các đồng bằng phía tây và các khu đô thị lớn.
- Tốc độ tăng trưởng dân số: Thấp, đối mặt với tình trạng già hóa dân số.
- Cơ cấu tuổi: Tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng, trong khi tỷ lệ sinh giảm.
- Tỷ lệ sinh và tử: Tỷ lệ sinh thấp, tuổi thọ trung bình cao.
- Tỷ lệ đô thị hóa: Rất cao, với phần lớn dân số sống ở các thành phố và khu vực đô thị.
11.2. Dân tộc
Xã hội Đài Loan đa dạng về thành phần dân tộc, phản ánh lịch sử di cư và giao thoa văn hóa phức tạp.
- Người Hán: Chiếm đa số dân số, bao gồm:
- Người Phúc Kiến (Hoklo): Nhóm người Hán lớn nhất, có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc đại lục. Tiếng Phúc Kiến Đài Loan (thường gọi là tiếng Đài Loan) được sử dụng rộng rãi.
- Người Khách Gia (Hakka): Nhóm người Hán lớn thứ hai, có nguồn gốc từ các tỉnh như Quảng Đông, Phúc Kiến. Họ có ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt.
- Ngoại tỉnh nhân: Những người Hán và con cháu của họ di cư từ Trung Quốc đại lục đến Đài Loan sau năm 1945, chủ yếu sau Nội chiến Trung Quốc.
- Thổ dân Đài Loan: Là những cư dân đầu tiên của hòn đảo, thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Hiện có 16 bộ tộc được chính phủ công nhận, mỗi bộ tộc có ngôn ngữ và văn hóa riêng. Chính phủ Đài Loan đang nỗ lực bảo tồn và phát huy văn hóa của các nhóm thổ dân, cũng như đảm bảo quyền lợi của họ.
- Cư dân mới (Tân di dân): Bao gồm những người nhập cư từ Đông Nam Á (chủ yếu là Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Philippines) và Trung Quốc đại lục, thường thông qua hôn nhân hoặc lao động. Họ đóng góp vào sự đa dạng văn hóa và lực lượng lao động của Đài Loan.
Chính phủ Đài Loan thúc đẩy các chính sách hòa nhập và tôn trọng sự đa dạng văn hóa, đảm bảo quyền của các nhóm thiểu số và xây dựng một xã hội đa nguyên.
11.3. Ngôn ngữ
Đài Loan không có ngôn ngữ chính thức được chỉ định hợp pháp. Tiếng Quan Thoại là ngôn ngữ chính được sử dụng trong kinh doanh và giáo dục, và được đại đa số dân chúng sử dụng. Chữ Hán phồn thể được sử dụng làm hệ thống chữ viết.
Khoảng 70% dân số Đài Loan thuộc nhóm dân tộc người Phúc Kiến và là người bản ngữ của tiếng Phúc Kiến Đài Loan. Nhóm người Khách Gia, chiếm khoảng 14-18% dân số, nói tiếng Khách Gia. Mặc dù tiếng Quan Thoại là ngôn ngữ giảng dạy trong trường học và chiếm ưu thế trên truyền hình và đài phát thanh, các phương ngữ tiếng Trung không phải Quan Thoại đã trải qua một sự phục hưng trong đời sống công cộng ở Đài Loan, đặc biệt kể từ khi các hạn chế sử dụng chúng được dỡ bỏ vào những năm 1990.
Các ngôn ngữ Formosa chủ yếu được nói bởi các dân tộc bản địa của Đài Loan. Chúng không thuộc ngữ hệ Hán-Tạng hay Trung Quốc, mà thuộc ngữ hệ Nam Đảo, và được viết bằng chữ Latinh. Việc sử dụng chúng trong các nhóm thiểu số bản địa đã suy giảm khi việc sử dụng tiếng Quan Thoại tăng lên. Trong số 14 ngôn ngữ còn tồn tại, năm ngôn ngữ được coi là sắp chết.
Kể từ Phong trào Ngũ Tứ, văn ngôn đã được thay thế bằng bạch thoại và nổi lên như là tiếng Trung viết chính thống tại Trung Hoa Dân Quốc. Văn ngôn tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu chính phủ cho đến những cải cách vào những năm 1970 nhằm chuyển đổi phong cách viết sang một phong cách kết hợp giữa bạch thoại và văn ngôn (文白合一行文văn bạch hợp nhất hành vănChinese (Chữ Hán)). Vào ngày 1 tháng 1 năm 2005, Hành chính viện cũng đã thay đổi quy ước lâu đời về hướng viết trong các tài liệu chính thức từ dọc sang ngang. Văn ngôn độc lập thỉnh thoảng được sử dụng trong các dịp trang trọng hoặc nghi lễ, chẳng hạn như các nghi lễ tôn giáo hoặc văn hóa. Quốc ca Trung Hoa Dân Quốc (中華民國國歌Trung Hoa Dân Quốc Quốc caChinese (Chữ Hán)), ví dụ, được viết bằng văn ngôn. Hầu hết các tài liệu chính thức của chính phủ, pháp luật, và tư pháp, cũng như các phán quyết của tòa án đều sử dụng một phong cách kết hợp giữa bạch thoại và văn ngôn. Vì nhiều tài liệu pháp lý vẫn được viết bằng văn ngôn, vốn không dễ hiểu đối với công chúng, một nhóm người Đài Loan đã phát động Phong trào Bạch thoại Pháp lý, hy vọng đưa nhiều bạch thoại hơn vào các văn bản pháp lý của Trung Hoa Dân Quốc.
Đài Loan chính thức là đa ngôn ngữ. Một ngôn ngữ quốc gia ở Đài Loan được định nghĩa hợp pháp là "một ngôn ngữ tự nhiên được sử dụng bởi một nhóm dân tộc gốc của Đài Loan và Ngôn ngữ ký hiệu Đài Loan".
11.4. Tôn giáo
Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ tự do tôn giáo và các hoạt động tín ngưỡng của người dân. Chính phủ tôn trọng tự do tôn giáo, và Đài Loan đạt điểm cao trong Chỉ số Tình trạng Dân chủ Toàn cầu của IDEA Quốc tế về tự do tôn giáo.
Theo ước tính của Pew Research năm 2020, thành phần tôn giáo của Đài Loan bao gồm: Tín ngưỡng dân gian Trung Quốc (kể cả Nho giáo) chiếm 43,8%, Phật tử 21,2%, các tôn giáo khác (bao gồm Đạo sĩ) 15,5%, không liên kết tôn giáo 13,7%, Kitô hữu 5,8%, và Hồi giáo 1%.
Năm 2005, điều tra dân số báo cáo rằng năm tôn giáo lớn nhất là: Phật giáo, Đạo giáo, Nhất Quán Đạo, Tin Lành, và Công giáo La Mã. Thổ dân Đài Loan chiếm một nhóm nhỏ đáng chú ý trong số những người theo đạo Kitô. Đã có một cộng đồng Hồi giáo nhỏ của người Hồi ở Đài Loan từ thế kỷ 17.
Nho giáo đóng vai trò là nền tảng của cả văn hóa Trung Quốc và văn hóa Đài Loan. Phần lớn người Đài Loan thường kết hợp các giáo lý đạo đức thế tục của Nho giáo với bất kỳ tôn giáo nào họ theo.
Tính đến năm 2019, có 15.175 công trình tôn giáo ở Đài Loan, xấp xỉ một nơi thờ tự cho mỗi 1.572 cư dân. 12.279 ngôi đền thờ Đạo giáo và Phật giáo. Có 9.684 đền thờ Đạo giáo và 2.317 đền thờ Phật giáo. Đối với Kitô giáo, có 2.845 nhà thờ. Trung bình, cứ mỗi kilômét vuông lại có một ngôi đền hoặc nhà thờ (nhà thờ) hoặc công trình tôn giáo. Mật độ tôn giáo và các công trình tôn giáo ở Đài Loan thuộc hàng cao nhất thế giới.
Một tỷ lệ đáng kể dân số không theo tôn giáo nào. Việc Đài Loan không có sự phân biệt đối xử do nhà nước bảo trợ, và nhìn chung tôn trọng cao quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã mang lại cho nước này vị trí đồng hạng #1 trong Báo cáo Tự do Tư tưởng năm 2018. Mặt khác, cộng đồng Lao động nhập cư Indonesia ở Đài Loan (ước tính tổng cộng 258.084 người) đã trải qua những hạn chế về tôn giáo bởi các chủ lao động địa phương hoặc chính phủ.
11.5. Giáo dục
Đài Loan nổi tiếng với việc tuân thủ mô hình Nho giáo coi trọng giáo dục như một phương tiện để cải thiện vị thế kinh tế xã hội của một người trong xã hội. Đầu tư mạnh mẽ và sự coi trọng giáo dục về mặt văn hóa đã giúp quốc gia nghèo tài nguyên này liên tục được xếp hạng hàng đầu trong các bảng xếp hạng giáo dục toàn cầu. Đài Loan là một trong những quốc gia có thành tích cao nhất về khả năng đọc hiểu, toán học và khoa học. Năm 2015, học sinh Đài Loan đạt được một trong những kết quả tốt nhất thế giới về toán học, khoa học và đọc hiểu, được kiểm tra bởi Chương trình Đánh giá Học sinh Quốc tế (PISA), với điểm trung bình của học sinh là 519, so với mức trung bình của OECD là 493, xếp thứ bảy trên thế giới.
Hệ thống giáo dục Đài Loan đã được ca ngợi vì kết quả kiểm tra tương đối cao và vai trò chính trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của Đài Loan đồng thời tạo ra một trong những lực lượng lao động có trình độ học vấn cao nhất thế giới. Đài Loan cũng được ca ngợi vì tỷ lệ vào đại học cao, trong đó tỷ lệ chấp nhận vào đại học đã tăng từ khoảng 20% trước những năm 1980 lên 49% vào năm 1996 và hơn 95% kể từ năm 2008, thuộc hàng cao nhất ở châu Á. Tỷ lệ vào đại học cao của quốc gia đã tạo ra một lực lượng lao động có tay nghề cao, đưa Đài Loan trở thành một trong những quốc gia có trình độ học vấn cao nhất thế giới với 68,5% học sinh trung học Đài Loan tiếp tục theo học đại học. Đài Loan có tỷ lệ công dân có bằng cấp đại học cao, trong đó 45% người Đài Loan trong độ tuổi 25-64 có bằng cử nhân trở lên so với mức trung bình 33% trong số các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Mặt khác, hệ thống giáo dục đã bị chỉ trích vì gây áp lực quá lớn cho học sinh đồng thời né tránh sự sáng tạo và tạo ra nguồn cung dư thừa sinh viên tốt nghiệp đại học được giáo dục quá mức. Nhiều sinh viên tốt nghiệp do đó phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm do thiếu các công việc ở trình độ sau đại học. Các trường đại học của Đài Loan cũng bị chỉ trích vì không thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và đòi hỏi của thị trường lao động đang chuyển động nhanh chóng của Đài Loan trong thế kỷ 21, với lý do có sự không phù hợp về kỹ năng giữa một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp tự đánh giá là được giáo dục quá mức nhưng không phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động Đài Loan hiện đại. Chính phủ Đài Loan đã bị chỉ trích vì không giải quyết thỏa đáng sự chênh lệch này trong cung và cầu lao động.
Vì nền kinh tế Đài Loan chủ yếu dựa trên khoa học và công nghệ, thị trường lao động đòi hỏi những người đã đạt được một số hình thức giáo dục đại học, đặc biệt liên quan đến khoa học và kỹ thuật để có được lợi thế cạnh tranh khi tìm kiếm việc làm. Mặc dù luật pháp Đài Loan hiện hành chỉ bắt buộc học chín năm, 95% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở tiếp tục theo học tại một trường trung học phổ thông chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng cơ sở, trường dạy nghề hoặc các cơ sở giáo dục đại học khác. Nhiều học sinh Đài Loan theo học tại các trường luyện thi, hay buxiban, để cải thiện kỹ năng và kiến thức giải quyết vấn đề cho các kỳ thi.
Kể từ khi Made in China 2025 được công bố vào năm 2015, các chiến dịch tích cực nhằm tuyển dụng nhân tài ngành chip Đài Loan để hỗ trợ các nhiệm vụ của nó đã dẫn đến việc mất hơn 3.000 kỹ sư chip sang Trung Quốc đại lục, và làm dấy lên lo ngại về tình trạng "chảy máu chất xám" ở Đài Loan.
Tính đến năm 2020, tỷ lệ biết chữ ở Đài Loan là 99,03%.
11.6. Y tế công cộng

Hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện tại, được gọi là Bảo hiểm Y tế Quốc gia (NHI), được thành lập vào năm 1995. NHI là một chương trình bảo hiểm xã hội bắt buộc một người chi trả tập trung hóa việc giải ngân các quỹ chăm sóc sức khỏe. Hệ thống này hứa hẹn khả năng tiếp cận bình đẳng với chăm sóc sức khỏe cho tất cả công dân, và độ bao phủ dân số đã đạt 99% vào cuối năm 2004. NHI chủ yếu được tài trợ thông qua phí bảo hiểm, dựa trên thuế tiền lương, và được bổ sung bằng các khoản đồng thanh toán tự chi trả và tài trợ trực tiếp của chính phủ. Các gia đình có thu nhập thấp, cựu chiến binh, người sống trăm tuổi, trẻ em dưới ba tuổi và các bệnh hiểm nghèo được miễn đồng thanh toán. Các khoản đồng thanh toán được giảm cho các hộ gia đình khuyết tật và thu nhập thấp duy trì 100% phạm vi bảo hiểm.
Trong giai đoạn đầu của chương trình, hệ thống thanh toán chủ yếu là phí dịch vụ. Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ y tế hoạt động trong khu vực tư nhân và hình thành một thị trường cạnh tranh về phía cung cấp dịch vụ y tế. Tuy nhiên, nhiều nhà cung cấp dịch vụ y tế đã lợi dụng hệ thống bằng cách cung cấp các dịch vụ không cần thiết. Trước tình trạng thua lỗ ngày càng tăng và nhu cầu kiềm chế chi phí, NHI đã thay đổi hệ thống thanh toán từ phí dịch vụ sang ngân sách toàn cầu, một loại hệ thống thanh toán tiềm năng, vào năm 2002.
Việc triển khai chăm sóc sức khỏe toàn dân đã tạo ra ít chênh lệch về sức khỏe hơn cho các công dân có thu nhập thấp ở Đài Loan. Theo một cuộc khảo sát được công bố gần đây, trong số 3.360 bệnh nhân được khảo sát tại một bệnh viện được chọn ngẫu nhiên, 75,1% bệnh nhân cho biết họ "rất hài lòng" với dịch vụ của bệnh viện; 20,5% cho biết họ "ổn" với dịch vụ. Chỉ có 4,4% bệnh nhân cho biết họ "không hài lòng" hoặc "rất không hài lòng" với dịch vụ hoặc sự chăm sóc được cung cấp.
Cơ quan kiểm soát dịch bệnh của Đài Loan là Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Đài Loan (CDC). Trong đợt bùng phát SARS vào tháng 3 năm 2003, có 347 trường hợp được xác nhận. Trong đợt bùng phát, CDC và chính quyền địa phương đã thiết lập các trạm giám sát trên các phương tiện giao thông công cộng, các địa điểm giải trí và các khu vực công cộng khác. Với việc ngăn chặn hoàn toàn vào tháng 7 năm 2003, không có trường hợp SARS nào kể từ đó. Nhờ những bài học từ SARS, một Trung tâm Chỉ huy Y tế Quốc gia đã được thành lập vào năm 2004, bao gồm Trung tâm Chỉ huy Dịch bệnh Trung ương (CECC). CECC đã đóng một vai trò trung tâm trong cách tiếp cận của Đài Loan đối với các dịch bệnh, bao gồm cả COVID-19.
Năm 2019, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 4,2 ca tử vong trên 1.000 ca sinh sống, với 20 bác sĩ và 71 giường bệnh trên 10.000 người. Tuổi thọ trung bình khi sinh vào năm 2020 là 77,5 tuổi và 83,9 tuổi đối với nam và nữ.
11.7. Phúc lợi xã hội
Đài Loan có một hệ thống phúc lợi xã hội tương đối toàn diện, nhằm hỗ trợ các nhóm dân cư khác nhau.
- Người cao tuổi: Có các chương trình lương hưu, trợ cấp chăm sóc dài hạn và các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng cho người cao tuổi. Tình trạng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức cho tính bền vững của hệ thống này.
- Trẻ em: Chính phủ cung cấp trợ cấp nuôi con, các dịch vụ chăm sóc trẻ em và giáo dục mầm non. Các chính sách nhằm bảo vệ quyền trẻ em và hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
- Người khuyết tật: Có các chương trình hỗ trợ việc làm, trợ cấp tài chính, dịch vụ phục hồi chức năng và các biện pháp đảm bảo khả năng tiếp cận cho người khuyết tật.
- Hệ thống hưu trí: Bao gồm cả lương hưu công và lương hưu tư, nhằm đảm bảo thu nhập cho người dân sau khi nghỉ hưu.
- Hệ thống bảo trợ xã hội: Cung cấp hỗ trợ cho các cá nhân và gia đình gặp khó khăn, bao gồm trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ nhà ở và các dịch vụ xã hội khác.
Mặc dù hệ thống phúc lợi xã hội của Đài Loan được đánh giá cao, nhưng vẫn còn những thách thức liên quan đến tính hiệu quả, bền vững và khả năng tiếp cận công bằng cho tất cả các nhóm yếu thế. Chính phủ đang tiếp tục cải cách và điều chỉnh chính sách để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
12. Văn hóa
Các nền văn hóa của Đài Loan là sự pha trộn kết hợp từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các yếu tố của văn hóa Trung Quốc truyền thống đa số, văn hóa bản địa, ảnh hưởng văn hóa Nhật Bản, tín ngưỡng Nho giáo truyền thống, và ngày càng nhiều giá trị phương Tây.
Trong thời kỳ thiết quân luật, Quốc Dân Đảng đã quảng bá một văn hóa Trung Quốc truyền thống chính thức trên khắp Đài Loan để nhấn mạnh rằng Trung Hoa Dân Quốc đại diện cho tính chính thống thực sự của Văn hóa Trung Quốc trái ngược với Trung Quốc Cộng sản. Chính phủ đã phát động cái gọi là phong trào Phục hưng văn hóa Trung Hoa tại Đài Loan để phản đối sự tàn phá văn hóa do Đảng Cộng sản Trung Quốc gây ra trong Cách mạng Văn hóa. Đại hội đồng Văn hóa Trung Hoa được thành lập để giúp quảng bá văn hóa Trung Quốc tại Đài Loan và hải ngoại. Đây là kế hoạch có cấu trúc đầu tiên của Quốc Dân Đảng nhằm phát triển văn hóa tại Đài Loan. Phong trào Phục hưng Văn hóa Trung Hoa tại Đài Loan đã dẫn đến một số khía cạnh của Văn hóa Trung Quốc được bảo tồn tốt hơn ở đó so với Trung Quốc đại lục, ví dụ như việc tiếp tục sử dụng Chữ Hán phồn thể. Ảnh hưởng của Nho giáo có thể được tìm thấy trong hành vi của người Đài Loan, những người nổi tiếng với sự thân thiện và lịch sự.

Việc dỡ bỏ thiết quân luật đã mở ra một giai đoạn dân chủ hóa trong đó Tự do Ngôn luận và Bày tỏ ý kiến đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của văn học Đài Loan và truyền thông đại chúng tại Đài Loan. Hiến pháp Đài Loan bảo vệ "lời nói, giảng dạy, viết và xuất bản." Năm 2022, Chỉ số Dân chủ của Economist Intelligence Unit đã xếp hạng Đài Loan có điểm dân chủ cao thứ hai ở châu Á và châu Úc. Freedom House đã xếp hạng Đài Loan là nơi tự do thứ hai ở châu Á trong khi CIVICUS xếp hạng Đài Loan và New Zealand là những quốc gia "mở" duy nhất ở châu Á-Thái Bình Dương. Sau khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát Hồng Kông và hạn chế tự do ngôn luận và biểu tình, 36.789 cư dân Hồng Kông đã chuyển đến Đài Loan từ năm 2019 đến năm 2022, trung bình khoảng 9.000 người nhập cư mỗi năm. Năm 2018, Đài Loan chỉ có 4.000 người nhập cư Hồng Kông.
Phản ánh cuộc tranh cãi đang diễn ra xung quanh vị thế chính trị của Đài Loan, chính trị tiếp tục đóng một vai trò trong quan niệm và phát triển bản sắc văn hóa Đài Loan, đặc biệt là trong mối quan hệ với văn hóa Trung Quốc. Trong những năm gần đây, khái niệm đa văn hóa Đài Loan đã được đề xuất như một quan điểm thay thế tương đối phi chính trị, cho phép bao gồm cả người đại lục và các nhóm thiểu số khác vào việc tái định nghĩa liên tục văn hóa Đài Loan như các hệ thống ý nghĩa được nắm giữ chung và các khuôn mẫu tư duy và hành vi theo thông lệ được người dân Đài Loan chia sẻ. Chính trị bản sắc, cùng với hơn một trăm năm chia cắt chính trị với Trung Quốc đại lục, đã dẫn đến các truyền thống riêng biệt trong nhiều lĩnh vực, bao gồm ẩm thực và âm nhạc.
12.1. Nghệ thuật


Các nghệ sĩ cổ điển nổi tiếng bao gồm nghệ sĩ vĩ cầm Lâm Chiêu Lượng, nghệ sĩ dương cầm Hồ Tịnh Vân, và giám đốc nghệ thuật của Hiệp hội Âm nhạc thính phòng Lincoln Center Ngô Hán. Các nhạc sĩ khác bao gồm Đặng Lệ Quân, Châu Kiệt Luân và các nhóm nhạc như Mayday và ban nhạc heavy metal Chthonic, do ca sĩ Freddy Lim dẫn đầu, được gọi là "Black Sabbath của châu Á".
Các bộ phim Đài Loan đã giành được nhiều giải thưởng quốc tế tại các liên hoan phim trên toàn thế giới. Lý An, một đạo diễn người Đài Loan, đã đạo diễn các bộ phim được giới phê bình đánh giá cao như: Ngọa hổ tàng long; Ẩm thực nam nữ; Lý trí và tình cảm; Chuyện tình sau núi; Cuộc đời của Pi; và Sắc, Giới. Các đạo diễn nổi tiếng khác của Đài Loan bao gồm Thái Minh Lượng, Dương Đức Xương, và Hầu Hiếu Hiền. Đài Loan đã tổ chức Giải thưởng và Liên hoan phim Kim Mã từ năm 1962.
Bảo tàng Cố cung Quốc gia lưu giữ hơn 650.000 hiện vật bằng đồng, ngọc bích, thư pháp, hội họa và đồ sứ của Trung Quốc và được coi là một trong những bộ sưu tập nghệ thuật và đồ vật Trung Quốc vĩ đại nhất thế giới.
12.2. Văn hóa đại chúng
Karaoke cực kỳ phổ biến ở Đài Loan, nơi nó được gọi là KTV. Các doanh nghiệp KTV hoạt động theo kiểu khách sạn, cho thuê các phòng nhỏ và phòng khiêu vũ tùy theo số lượng khách. Nhiều cơ sở KTV hợp tác với các nhà hàng và tiệc tự chọn để tạo thành các buổi tối toàn diện và công phu. Các xe buýt du lịch đi vòng quanh Đài Loan có một số TV, chủ yếu để hát karaoke.
Đài Loan có mật độ cao các cửa hàng tiện lợi 24 giờ, cung cấp dịch vụ thay mặt cho các tổ chức tài chính hoặc cơ quan chính phủ, chẳng hạn như thu phí đậu xe, hóa đơn tiện ích, tiền phạt giao thông và thanh toán thẻ tín dụng. Các chuỗi cửa hàng như FamilyMart cung cấp dịch vụ giặt là quần áo tại một số cửa hàng chọn lọc, và vé TRA và THSR có bán tại 7-Eleven, FamilyMart, Hi-Life và OK Mart.
Sự phát triển của văn hóa đại chúng Đài Loan chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, bao gồm lịch sử, chính trị và sự giao thoa với các nền văn hóa khác.
- Điện ảnh và Phim truyền hình: Điện ảnh Đài Loan đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ với các đạo diễn tên tuổi như Lý An, Hầu Hiếu Hiền, Thái Minh Lượng và Dương Đức Xương. Phim truyền hình thần tượng Đài Loan từng rất phổ biến ở châu Á.
- Âm nhạc (Mandopop): Đài Loan là một trung tâm quan trọng của Mandopop (nhạc pop tiếng Quan Thoại), với nhiều ca sĩ và nhóm nhạc nổi tiếng có ảnh hưởng rộng khắp châu Á như Châu Kiệt Luân, Thái Y Lâm, Ngũ Nguyệt Thiên.
- Phát thanh truyền hình: Các kênh truyền hình và đài phát thanh đa dạng, cung cấp nhiều chương trình giải trí, tin tức và văn hóa.
- Ảnh hưởng của Hallyu và J-pop: Làn sóng Hàn Quốc (Hallyu) và J-pop (nhạc pop Nhật Bản) có ảnh hưởng đáng kể đến giới trẻ Đài Loan, thể hiện qua âm nhạc, thời trang và phim ảnh.
- Văn hóa giải trí: Karaoke (KTV) là một hình thức giải trí phổ biến. Các trò chơi điện tử và văn hóa truyện tranh, hoạt hình cũng rất phát triển.
12.3. Ẩm thực
Lịch sử ẩm thực Đài Loan rất phức tạp và gắn liền với các mô hình di cư và thuộc địa hóa. Ẩm thực Đài Loan địa phương và quốc tế, bao gồm cả lịch sử của nó, là một chủ đề gây tranh cãi về mặt chính trị. Các món ăn nổi tiếng của Đài Loan bao gồm mì bò Đài Loan, gua bao (bánh mì kẹp thịt), zongzi (bánh ú), khong bah png (thịt kho tàu), gà rán Đài Loan, hàu và mì sợi, sanbeiji (gà ba chén), và thạch ái ngọc. Trà sữa trân châu, được tạo ra ở Đài Loan vào những năm 1980, hiện đã trở nên phổ biến trên toàn cầu. Năm 2014, The Guardian gọi các chợ đêm Đài Loan là "những khu chợ ẩm thực đường phố tốt nhất thế giới". Michelin Guide bắt đầu đánh giá các nhà hàng ở Đài Loan vào năm 2018.
12.4. Thể thao

Bóng chày thường được coi là môn thể thao quốc gia của Đài Loan và là một môn thể thao phổ biến đối với khán giả. Đội tuyển nam đã giành huy chương ở tất cả các cấp độ bóng chày vào năm 2022, bao gồm các giải đấu U-12, U-15, U-18, U-23, và Baseball5, là đội duy nhất làm được điều này trong lịch sử bóng chày. Kết quả này đã đưa đội tuyển bóng chày quốc gia Đài Loan trở thành một trong những đội xếp hạng hàng đầu trong Bảng xếp hạng Thế giới WBSC. Bóng chày chuyên nghiệp tại Đài Loan bắt đầu với việc thành lập Giải bóng chày chuyên nghiệp Trung Hoa (CPBL) vào năm 1989. Tính đến năm 2024, CPBL có sáu đội, với số lượng khán giả trung bình hơn 7.000 người mỗi trận. Một số cầu thủ ưu tú đã ký hợp đồng với các đội chuyên nghiệp ở nước ngoài trong Major League Baseball (MLB) hoặc Nippon Professional Baseball (NPB). Đã có mười bảy cầu thủ MLB người Đài Loan tính đến mùa giải MLB 2024, bao gồm các cựu vận động viên ném bóng Vương Kiến Dân và Trần Vĩ Ân. Về các biến thể của bóng chày, Đài Loan cũng có một đội bóng mềm nữ mạnh. Đội tuyển bóng mềm nữ quốc gia Trung Hoa Đài Bắc đã giành huy chương đồng tại Đại hội Thể thao Thế giới 2022.
Bóng rổ là môn thể thao lớn khác của Đài Loan. P. League+ và Giải bóng rổ chuyên nghiệp Đài Loan là hai giải bóng rổ chuyên nghiệp của đất nước. Một giải bóng rổ bán chuyên nghiệp Super Basketball League (SBL) cũng đã được tổ chức từ năm 2003. Các môn thể thao đồng đội khác bao gồm bóng chuyền và bóng đá. Đài Loan cũng là một đối thủ cạnh tranh lớn trong môn korfball.
Đài Loan tham gia các tổ chức và sự kiện thể thao quốc tế dưới tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa". Đài Loan đã tổ chức một số sự kiện thể thao đa môn trong quá khứ, bao gồm Đại hội Thể thao Thế giới 2009 tại Cao Hùng và Deaflympics Mùa hè 2009 và Universiade Mùa hè 2017 tại Đài Bắc. Đài Bắc và Tân Bắc sẽ đăng cai Đại hội Thể thao Bậc thầy Thế giới Mùa hè 2025. Hoa Liên sẽ đăng cai Đại hội Thể thao Trẻ em Quốc tế năm 2026. Các sự kiện lớn định kỳ khác do Đài Loan tổ chức bao gồm:
- Marathon Đài Bắc (marathon)
- Marathon Vạn Kim Thạch thành phố Tân Bắc (marathon)
- Đài Bắc Mở rộng (cầu lông)
- Giải vô địch bóng chày U-12 thế giới (bóng chày)
- Cúp William Jones (bóng rổ)
- Tour de Taiwan (đua xe đạp đường trường)

Taekwondo được giới thiệu đến Đài Loan vào năm 1966 để huấn luyện quân sự và đã trở thành một môn thể thao chiến đấu trưởng thành và thành công ở Đài Loan. Hai huy chương vàng Olympic đầu tiên mà các vận động viên Đài Loan giành được thuộc về môn thể thao này. Tại Thế vận hội 2004, Trần Thi Hân và Chu Mộc Viêm đã giành huy chương vàng ở nội dung hạng ruồi nữ và hạng ruồi nam. Các đối thủ taekwondo tiếp theo đã củng cố văn hóa taekwondo của Đài Loan.
Có nhiều vận động viên Đài Loan xuất sắc ở các môn thể thao cá nhân khác, chẳng hạn như cầu lông, quần vợt, bóng bàn, và golf. Sức mạnh của Đài Loan trong môn cầu lông được thể hiện qua Đới Tư Dĩnh, người đã có nhiều tuần nhất là tay vợt đơn nữ số 1 thế giới trong Bảng xếp hạng thế giới BWF, và các đồng hương của cô trong BWF World Tour. Đài Loan cũng có một lịch sử lâu dài về sự hiện diện quốc tế mạnh mẽ trong môn bóng bàn. Trang Trí Uyên, người từng sáu lần tham dự Thế vận hội, là vận động viên Đài Loan tham dự nhiều kỳ Thế vận hội nhất. Tăng Nhã Ni là tay golf trẻ nhất từ trước đến nay, nam hay nữ, giành được năm chức vô địch lớn và được xếp hạng số 1 trong Bảng xếp hạng golf thế giới nữ trong 109 tuần liên tiếp từ năm 2011 đến năm 2013. Trong môn quần vợt, Tạ Thục Vi là tay vợt nữ thành công nhất của đất nước.
12.5. Lịch và các ngày nghỉ lễ
Lịch Gregory tiêu chuẩn được sử dụng cho hầu hết các mục đích. Năm thường được biểu thị bằng hệ thống kỷ nguyên Dân Quốc bắt đầu từ năm 1912, năm Trung Hoa Dân Quốc được thành lập. Năm 2024 là năm Dân Quốc 113 (民國113年). Định dạng ngày tháng Đông Á được sử dụng trong tiếng Trung. Trước khi được tiêu chuẩn hóa vào năm 1929, lịch Trung Quốc được chính thức sử dụng. Đây là một hệ thống âm dương lịch vẫn được sử dụng cho các lễ hội truyền thống như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, và Tết Đoan Ngọ.