1. Tên gọi
Tên gọi "Nam Phi" (South AfricaSouth AfricaEnglish) xuất phát từ vị trí địa lý của đất nước này, nằm ở cực nam của lục địa châu Phi. Khi mới thành lập, quốc gia này được đặt tên là Liên bang Nam Phi bằng tiếng Anh và Unie van Zuid-AfrikaUnie van Zuid-AfrikaDutch bằng tiếng Hà Lan, phản ánh nguồn gốc từ sự hợp nhất của bốn thuộc địa Anh. Kể từ năm 1961, tên gọi chính thức dài bằng tiếng Anh là "Republic of South Africa" (Cộng hòa Nam Phi) và bằng tiếng Afrikaans là Republiek van Suid-AfrikaRepubliek van Suid-AfrikaAfrikaans.
Nam Phi có tên gọi chính thức trong 12 ngôn ngữ chính thức của mình:
- Tiếng Afrikaans: Republiek van Suid-AfrikaRepubliek van Suid-AfrikaAfrikaans
- Tiếng Anh: Republic of South AfricaRepublic of South AfricaEnglish
- Tiếng Zulu: iRiphabhuliki yaseNingizimu AfrikaiRiphabhuliki yaseNingizimu AfrikaZulu
- Tiếng Ndebele Nam: iRiphabliki yeSewula AfrikaiRiphabliki yeSewula AfrikaNdebele, South
- Tiếng Bắc Sotho: Rephaboliki ya Afrika-BorwaRephaboliki ya Afrika-BorwaPedi
- Tiếng Sotho: Rephaboliki ya Afrika BorwaRephaboliki ya Afrika BorwaSotho, Southern
- Tiếng Swazi: iRiphabhulikhi yeNingizimu AfrikaiRiphabhulikhi yeNingizimu AfrikaSwati
- Tiếng Tsonga: Riphabliki ra Afrika DzongaRiphabliki ra Afrika DzongaTsonga
- Tiếng Tswana: Rephaboliki ya Aforika BorwaRephaboliki ya Aforika BorwaTswana
- Tiếng Venda: Riphabuḽiki ya Afurika TshipembeRiphabuḽiki ya Afurika TshipembeVenda
- Tiếng Xhosa: iRiphabliki yaseMzantsi AfrikaiRiphabliki yaseMzantsi AfrikaXhosa
- Ngôn ngữ ký hiệu Nam Phi
Mzansi, một tên gọi thông tục cho Nam Phi, bắt nguồn từ danh từ uMzantsiuMzantsiXhosa trong tiếng Xhosa có nghĩa là "nam". Một số đảng phái chính trị theo chủ nghĩa Liên Phi lại ưa dùng thuật ngữ "Azania".
2. Lịch sử
Lịch sử Nam Phi là một câu chuyện dài và phức tạp, bao gồm các giai đoạn từ thời tiền sử với sự sinh sống của các nhóm người bản địa, quá trình thám hiểm và thuộc địa hóa của người châu Âu, sự hình thành Liên bang Nam Phi, thời kỳ đen tối của chế độ Apartheid, cho đến quá trình dân chủ hóa và những thách thức của một quốc gia đa sắc tộc trong thời hiện đại. Lịch sử này phản ánh những cuộc đấu tranh vì đất đai, tài nguyên, quyền lực và nhân phẩm, đồng thời cho thấy những nỗ lực không ngừng hướng tới một xã hội công bằng và dân chủ hơn.
2.1. Thời tiền sử và người bản địa

Nam Phi chứa đựng một số địa điểm khảo cổ và hóa thạch loài người cổ xưa nhất trên thế giới. Các nhà khảo cổ đã thu hồi được nhiều di tích hóa thạch từ một loạt các hang động ở tỉnh Gauteng. Khu vực này, một Di sản Thế giới của UNESCO, đã được đặt tên là "Cái nôi của Nhân loại". Các địa điểm bao gồm Sterkfontein, một trong những địa điểm giàu hóa thạch hominin nhất thế giới, cũng như Swartkrans, hang Gondolin, Kromdraai, hang Cooper và Malapa. Raymond Dart đã xác định hóa thạch hominin đầu tiên được phát hiện ở châu Phi, Đứa bé Taung (tìm thấy gần Taung) vào năm 1924. Các di tích hominin khác đến từ các địa điểm Makapansgat ở tỉnh Limpopo; Cornelia và Florisbad ở tỉnh Free State; hang Border ở tỉnh KwaZulu-Natal; hang Klasies River ở tỉnh Đông Cape; và Pinnacle Point, Elandsfontein và hang Die Kelders ở tỉnh Tây Cape.
Những phát hiện này cho thấy các loài hominid khác nhau đã tồn tại ở Nam Phi từ khoảng ba triệu năm trước, bắt đầu với Australopithecus africanus, tiếp theo là Australopithecus sediba, Homo ergaster, Homo erectus, Homo rhodesiensis, Homo helmei, Homo naledi và con người hiện đại (Homo sapiens). Con người hiện đại đã sinh sống ở miền Nam châu Phi ít nhất 170.000 năm. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm thấy các công cụ đá cuội Oldowan trong thung lũng sông Vaal.
Các khu định cư của người nói tiếng Bantu, là những người nông dân và chăn nuôi sử dụng đồ sắt, đã có mặt ở phía nam sông Limpopo (nay là biên giới phía bắc với Botswana và Zimbabwe) vào thế kỷ thứ 4 hoặc thứ 5 sau Công nguyên. Người Bantu từ từ di chuyển về phía nam. Các công trình đồ sắt sớm nhất ở tỉnh KwaZulu-Natal ngày nay được cho là có từ khoảng năm 1050. Nhóm ở cực nam là người Xhosa, ngôn ngữ của họ kết hợp một số đặc điểm ngôn ngữ từ những người Khoisan trước đó. Người Xhosa đã đến sông Great Fish, ở tỉnh Đông Cape ngày nay. Khi di cư, những quần thể Thời đại đồ sắt lớn hơn này đã thay thế hoặc đồng hóa những người dân trước đó. Ở tỉnh Mpumalanga, một số vòng tròn đá đã được tìm thấy cùng với một cấu trúc đá được đặt tên là Adam's Calendar, và các di tích được cho là do người Bokoni, một dân tộc Bắc Sotho, tạo ra.
Khoảng năm 1220, tại lưu vực sông Limpopo-sông Shashe, giới tinh hoa của K2 đã chuyển đến định cư trên đỉnh đồi bằng phẳng Mapungubwe, với dân chúng định cư ở phía dưới. Nghi lễ cầu mưa rất quan trọng đối với sự phát triển của vương quyền thiêng liêng. Đến năm 1250, thủ đô có dân số 5.000 người và nhà nước bao phủ 30.00 K km2, trở nên giàu có nhờ buôn bán ở Ấn Độ Dương. Các sự kiện xung quanh sự sụp đổ của Mapungubwe vào khoảng năm 1300 không được biết rõ, tuy nhiên các tuyến đường thương mại đã chuyển dịch về phía bắc từ Limpopo đến sông Zambezi, tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của Đại Zimbabwe. Ngọn đồi bị bỏ hoang và dân số Mapungubwe phân tán.
2.2. Người châu Âu thám hiểm và thuộc địa hóa ban đầu


Năm 1487, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Bartolomeu Dias đã dẫn đầu chuyến hải hành châu Âu đầu tiên cập bến miền nam châu Phi. Vào ngày 4 tháng 12, ông đổ bộ lên Walfisch Bay (nay là Walvis Bay thuộc Namibia ngày nay). Vị trí này nằm ở phía nam điểm xa nhất mà người tiền nhiệm của ông, nhà hàng hải Bồ Đào Nha Diogo Cão (Cape Cross, phía bắc vịnh) đã đến vào năm 1485. Dias tiếp tục đi xuống bờ biển phía tây của miền nam châu Phi. Sau ngày 8 tháng 1 năm 1488, do bão tố cản trở việc đi dọc bờ biển, ông đã lái tàu ra khỏi tầm nhìn đất liền và vượt qua điểm cực nam của châu Phi mà không nhìn thấy nó. Ông đã đi xa đến bờ biển phía đông châu Phi, đến nơi mà ông gọi là Rio do InfanteRio do InfantePortuguese, có lẽ là sông Groot ngày nay, vào tháng 5 năm 1488. Khi trở về, ông nhìn thấy mũi đất mà ông đặt tên là Cabo das TormentasCabo das TormentasPortuguese ('Mũi Bão Tố'). Vua John II của Bồ Đào Nha đã đổi tên điểm này thành Cabo da Boa EsperançaCabo da Boa EsperançaPortuguese, hay Mũi Hảo Vọng, vì nó dẫn đến sự giàu có của Đông Ấn. Thành tựu hàng hải của Dias đã được bất tử hóa trong bài thơ sử thi Os Lusíadas năm 1572 của Luís de Camões.
Với sự suy giảm sức mạnh hàng hải của Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 17, các thương nhân Anh và Hà Lan đã cạnh tranh để giành lấy sự độc quyền sinh lợi của Bồ Đào Nha trong thương mại gia vị. Đại diện của Công ty Đông Ấn Anh thỉnh thoảng ghé qua mũi đất để tìm kiếm lương thực sớm nhất là vào năm 1601 nhưng sau đó lại ưa chuộng Đảo Ascension và Saint Helena làm cảng trú ẩn. Mối quan tâm của Hà Lan được khơi dậy sau năm 1647, khi hai nhân viên của Công ty Đông Ấn Hà Lan bị đắm tàu tại mũi đất trong vài tháng. Các thủy thủ đã có thể sống sót bằng cách lấy nước ngọt và thịt từ người bản địa. Họ cũng gieo rau trong đất đai màu mỡ. Khi trở về Hà Lan, họ đã báo cáo một cách thuận lợi về tiềm năng của mũi đất như một "kho hàng và khu vườn" để cung cấp lương thực cho các tàu đi qua trong các chuyến đi dài.
Năm 1652, một thế kỷ rưỡi sau khi phát hiện ra tuyến đường biển qua mũi đất, Jan van Riebeeck đã thành lập một trạm cung cấp lương thực tại Mũi Hảo Vọng, nơi sau này trở thành Cape Town, thay mặt cho Công ty Đông Ấn Hà Lan. Theo thời gian, mũi đất trở thành nơi sinh sống của một lượng lớn vrijliedenvrijliedenDutch, còn được gọi là vrijburgersvrijburgersDutch (nghĩa đen là "công dân tự do"), những cựu nhân viên công ty ở lại các lãnh thổ hải ngoại của Hà Lan sau khi hết hạn hợp đồng. Các thương nhân Hà Lan cũng đưa hàng ngàn nô lệ đến thuộc địa non trẻ từ Indonesia, Madagascar và miền đông châu Phi ngày nay. Một số cộng đồng lai sớm nhất trong nước được hình thành giữa vrijburgersvrijburgersDutch, nô lệ và người bản địa. Điều này dẫn đến sự phát triển của một nhóm dân tộc mới, người Cape Coloureds, hầu hết họ đều chấp nhận ngôn ngữ Hà Lan và đức tin Kitô giáo.
Xung đột về tài nguyên giữa người Khoisan bản địa của Nam Phi và những người định cư Hà Lan bắt đầu vào thế kỷ 17 và kéo dài hàng thế kỷ.
Sự bành trướng về phía đông của những người thuộc địa Hà Lan đã gây ra các cuộc chiến tranh với bộ tộc Xhosa di cư về phía tây nam, được gọi là Chiến tranh Xhosa, khi cả hai bên cạnh tranh giành đồng cỏ gần sông Great Fish, mà những người thuộc địa mong muốn để chăn thả gia súc. Vrijburgers trở thành nông dân độc lập ở biên giới được gọi là Boer, một số người áp dụng lối sống bán du mục được gọi là trekboerstrekboersDutch ([trekboers]]). Người Boer thành lập các dân quân lỏng lẻo, mà họ gọi là commandos, và thành lập liên minh với các dân tộc Khoisan để đẩy lùi các cuộc đột kích của người Xhosa. Cả hai bên đều phát động các cuộc tấn công đẫm máu nhưng không có kết quả, và bạo lực lẻ tẻ, thường đi kèm với trộm cắp gia súc, vẫn phổ biến trong nhiều thập kỷ.
2.3. Sự cai trị của Anh và cuộc Di cư lớn của người Boer

Anh Quốc chiếm đóng Cape Town từ năm 1795 đến 1803 để ngăn chặn nó rơi vào tay Đệ nhất Cộng hòa Pháp, quốc gia đã xâm chiếm Vùng đất thấp. Sau một thời gian ngắn trở lại dưới sự cai trị của Hà Lan dưới thời Cộng hòa Batavia vào năm 1803, Cape lại bị người Anh chiếm đóng vào năm 1806. Sau khi Chiến tranh Napoléon kết thúc, nó được chính thức nhượng lại cho Anh Quốc và trở thành một phần không thể thiếu của Đế quốc Anh. Người Anh di cư đến Nam Phi bắt đầu vào khoảng năm 1818, sau đó đạt đến đỉnh điểm với sự xuất hiện của những người định cư năm 1820 (1820 Settlers). Những người định cư mới được khuyến khích định cư vì nhiều lý do, cụ thể là để tăng quy mô lực lượng lao động châu Âu và củng cố các vùng biên giới chống lại các cuộc xâm nhập của người Xhosa.
Đầu những năm 1800, Mfecane (nghĩa đen là 'sự nghiền nát') chứng kiến một giai đoạn xung đột, di cư và hình thành nhà nước gia tăng giữa các nhóm bản địa, gây ra bởi sự tương tác phức tạp của thương mại quốc tế, bất ổn môi trường và sự thuộc địa hóa của châu Âu. Các tù trưởng ngày càng giàu có và cạnh tranh về các tuyến đường thương mại và đất chăn thả, dẫn đến sự hình thành của các Ndwandwe và Mthethwa Paramountcies ở phía đông. Ndwandwe đã đánh bại Mthethwa, khiến nó chia thành các nhóm khác nhau, một trong số đó do Shaka của amaZulu lãnh đạo. Những năm 1810 chứng kiến các cuộc Chiến tranh Xhosa thứ tư và thứ năm khi sự thuộc địa hóa của Anh mở rộng. Ndwandwe tan rã giữa các cuộc đột kích tốn kém và Vương quốc Zulu của Shaka đã trỗi dậy để lấp đầy khoảng trống quyền lực. Vương quốc Gaza được thành lập. Người Zulu đã hoàn toàn đánh bại Ndwandwe, tuy nhiên lại bị Gaza đẩy lùi.
Trong đầu thế kỷ 19, nhiều người định cư Hà Lan đã rời khỏi Thuộc địa Cape, nơi họ phải chịu sự kiểm soát của Anh, trong một loạt các nhóm di cư được gọi là VoortrekkersVoortrekkersDutch ([Voortrekkers]]), có nghĩa là "người mở đường" hoặc "người tiên phong". Họ di cư đến các vùng Natal, Free State, và Transvaal trong tương lai. Người Boer đã thành lập các nước cộng hòa Boer: Cộng hòa Nam Phi, Cộng hòa Natalia, và Quốc gia Tự do Orange. Ở nội địa, Thuộc địa Cape mở rộng với cái giá của người Tswana và người Griqua, và sự bành trướng của người Boer gây ra sự bất ổn lớn ở vùng Trung sông Orange. Vương quốc Matabele thống trị phía đông nội địa và đột kích Vương quốc Venda.
Việc phát hiện kim cương vào năm 1867 và vàng vào năm 1884 ở nội địa đã bắt đầu Cách mạng Khoáng sản và làm tăng trưởng kinh tế và nhập cư. Điều này đã tăng cường sự khuất phục của Anh đối với người bản địa. Cuộc đấu tranh để kiểm soát các nguồn tài nguyên kinh tế quan trọng này là một yếu tố trong mối quan hệ giữa người châu Âu và dân bản địa cũng như giữa người Boer và người Anh.

Vào ngày 16 tháng 5 năm 1876, Tổng thống Thomas François Burgers của Cộng hòa Nam Phi đã tuyên chiến với người Pedi. Vua Sekhukhune đã đánh bại quân đội vào ngày 1 tháng 8 năm 1876. Một cuộc tấn công khác của Lydenburg Volunteer Corps cũng bị đẩy lùi. Vào ngày 16 tháng 2 năm 1877, hai bên đã ký một hiệp ước hòa bình tại Botshabelo. Sự bất lực của người Boer trong việc khuất phục người Pedi đã dẫn đến sự ra đi của Burgers để nhường chỗ cho Paul Kruger và sự sáp nhập Cộng hòa Nam Phi của Anh. Năm 1878 và 1879, ba cuộc tấn công của Anh đã bị đẩy lùi thành công cho đến khi Garnet Wolseley đánh bại Sekhukhune vào tháng 11 năm 1879 với một đội quân gồm 2.000 binh sĩ Anh, người Boer và 10.000 người Swazi.
Chiến tranh Anh-Zulu diễn ra vào năm 1879 giữa người Anh và Vương quốc Zulu. Sau khi Lord Carnarvon thành công trong việc giới thiệu liên bang ở Canada, người ta cho rằng những nỗ lực chính trị tương tự, cùng với các chiến dịch quân sự, có thể thành công với các vương quốc châu Phi, các khu vực bộ lạc và các nước cộng hòa Boer ở Nam Phi. Năm 1874, Henry Bartle Frere được cử đến Nam Phi với tư cách là Cao ủy Anh để thực hiện các kế hoạch đó. Trong số những trở ngại có sự hiện diện của các quốc gia độc lập của người Boer và quân đội Zululand. Quốc gia Zulu đã đánh bại người Anh trong Trận Isandlwana. Cuối cùng Zululand đã thua trận, dẫn đến việc chấm dứt nền độc lập của quốc gia Zulu.
2.4. Các cuộc chiến tranh Boer


Các nước cộng hòa Boer đã chống lại thành công các cuộc xâm lấn của Anh trong Chiến tranh Boer lần thứ nhất (1880-1881) bằng cách sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích, rất phù hợp với điều kiện địa phương. Người Anh quay trở lại với số lượng lớn hơn, nhiều kinh nghiệm hơn và chiến lược mới trong Chiến tranh Boer lần thứ hai (1899-1902) và, mặc dù chịu tổn thất nặng nề do chiến thuật chiến tranh tiêu hao của người Boer, cuối cùng họ đã thành công một phần nhờ vào chiến thuật tiêu thổ và các trại tập trung, nơi 27.000 thường dân Boer đã chết do sự kết hợp của bệnh tật và sự bỏ mặc.
Dân số đô thị của Nam Phi tăng nhanh từ cuối thế kỷ 19 trở đi. Sau sự tàn phá của các cuộc chiến tranh, nông dân Boer đã chạy trốn vào các thành phố của Thuộc địa Transvaal và Orange Free State, tạo thành một tầng lớp nghèo da trắng ở đô thị.
2.5. Liên bang Nam Phi và nền độc lập
Các chính sách chống Anh trong cộng đồng người Nam Phi da trắng tập trung vào độc lập. Trong những năm thuộc địa Hà Lan và Anh, sự phân biệt chủng tộc chủ yếu là không chính thức, mặc dù một số luật lệ đã được ban hành để kiểm soát việc định cư và di chuyển của người bản địa, bao gồm Đạo luật Vị trí Bản địa năm 1879 và hệ thống luật thông hành.
Tám năm sau khi kết thúc Chiến tranh Boer lần thứ hai và sau bốn năm đàm phán, Đạo luật Nam Phi 1909 đã trao độc lập danh nghĩa đồng thời thành lập Liên bang Nam Phi vào ngày 31 tháng 5 năm 1910. Liên bang là một lãnh địa tự trị bao gồm các lãnh thổ cũ của các thuộc địa Cape, Transvaal và Natal, cũng như nước cộng hòa Orange Free State. Đạo luật Đất đai Bản xứ, 1913 đã hạn chế nghiêm ngặt quyền sở hữu đất đai của người da đen; vào thời điểm đó, họ chỉ kiểm soát 7% đất đai của đất nước. Số lượng đất dành riêng cho người bản địa sau đó đã được tăng lên một chút.
Năm 1931, liên bang hoàn toàn có chủ quyền từ Vương quốc Anh với việc thông qua Quy chế Westminster 1931, bãi bỏ quyền hạn cuối cùng của Nghị viện Vương quốc Anh trong việc lập pháp tại đất nước này. Chỉ có ba quốc gia châu Phi khác-Liberia, Ethiopia và Ai Cập-đã độc lập trước thời điểm đó. Năm 1934, Đảng Nam Phi và Đảng Quốc gia sáp nhập để thành lập Đảng Thống nhất, tìm kiếm sự hòa giải giữa người Afrikaner và người da trắng nói tiếng Anh. Năm 1939, đảng này chia rẽ về việc liên bang tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai với tư cách là đồng minh của Vương quốc Anh, một động thái mà những người theo Đảng Quốc gia phản đối.
2.6. Thời kỳ Apartheid

Năm 1948, Đảng Quốc gia được bầu lên nắm quyền. Đảng này đã củng cố sự phân biệt chủng tộc bắt đầu dưới thời cai trị thuộc địa của Hà Lan và Anh. Lấy Đạo luật Ấn Độ của Canada làm khuôn khổ, chính phủ chủ nghĩa dân tộc đã phân loại tất cả mọi người thành ba chủng tộc (Người da trắng, Người da đen, Người Ấn Độ và Người da màu (người lai)) và phát triển các quyền và giới hạn cho mỗi nhóm. Thiểu số da trắng (dưới 20%) kiểm soát đa số da đen lớn hơn nhiều. Sự phân biệt chủng tộc được thể chế hóa hợp pháp này được gọi là apartheid. Trong khi người da trắng được hưởng mức sống cao nhất ở toàn châu Phi, tương đương với các quốc gia phương Tây Thế giới thứ nhất, đa số người da đen vẫn chịu thiệt thòi ở hầu hết mọi tiêu chuẩn, bao gồm thu nhập, giáo dục, nhà ở và tuổi thọ. Hiến chương Tự do, được Đồng minh Đại hội thông qua vào năm 1955, yêu cầu một xã hội không phân biệt chủng tộc và chấm dứt phân biệt đối xử.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1961, đất nước trở thành một nước cộng hòa sau một cuộc trưng cầu dân ý (chỉ dành cho cử tri da trắng) với kết quả sít sao; tỉnh Natal do người Anh thống trị phần lớn đã bỏ phiếu chống lại đề xuất này. Elizabeth II mất danh hiệu Nữ hoàng Nam Phi, và Toàn quyền cuối cùng, Charles Robberts Swart, trở thành Tổng thống nhà nước. Như một sự nhượng bộ đối với Hệ thống Westminster, việc bổ nhiệm tổng thống vẫn do quốc hội thực hiện và gần như không có quyền lực cho đến Đạo luật Hiến pháp năm 1983 của P. W. Botha, đạo luật này đã loại bỏ chức vụ Thủ tướng và thiết lập một "tổng thống mạnh" độc đáo chịu trách nhiệm trước quốc hội. Bị áp lực bởi các quốc gia Khối Thịnh vượng chung khác, Nam Phi đã rút khỏi tổ chức này vào năm 1961. Nước này sẽ tái gia nhập vào năm 1994, sau khi chế độ apartheid kết thúc.
Bất chấp sự phản đối apartheid cả trong và ngoài nước, chính phủ đã lập pháp để tiếp tục chế độ apartheid. Lực lượng an ninh đã đàn áp những người bất đồng chính kiến trong nước, và bạo lực lan rộng, với các tổ chức chống apartheid như Đại hội Dân tộc Phi (ANC), Tổ chức Nhân dân Azania, và Đại hội Liên Phi Azania tiến hành chiến tranh du kích và phá hoại đô thị. Ba phong trào kháng chiến đối địch này cũng thỉnh thoảng tham gia vào các cuộc đụng độ giữa các phe phái khi họ tranh giành ảnh hưởng trong nước. Apartheid ngày càng gây tranh cãi, và một số quốc gia bắt đầu tẩy chay kinh doanh với chính phủ Nam Phi vì các chính sách chủng tộc của họ. Các cuộc tẩy chay và hạn chế sau đó đã được mở rộng thành các biện pháp trừng phạt quốc tế và việc thoái vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
2.7. Dân chủ hóa và thời kỳ hậu Apartheid

Tuyên ngôn Đức tin Mahlabatini, được ký bởi Mangosuthu Buthelezi và Harry Schwarz vào năm 1974, đã ghi nhận các nguyên tắc chuyển giao quyền lực hòa bình và bình đẳng cho tất cả mọi người, đây là thỏa thuận đầu tiên như vậy của các nhà lãnh đạo chính trị da đen và da trắng ở Nam Phi. Cuối cùng, F. W. de Klerk đã mở các cuộc thảo luận song phương với Nelson Mandela vào năm 1993 để chuyển đổi chính sách và chính phủ.
Năm 1990, chính phủ Đảng Quốc gia đã thực hiện bước đầu tiên hướng tới việc dỡ bỏ phân biệt đối xử khi dỡ bỏ lệnh cấm đối với ANC và các tổ chức chính trị khác. Chính phủ đã thả Nelson Mandela khỏi tù sau 27 năm thụ án vì tội phá hoại. Một quá trình đàm phán đã diễn ra sau đó. Với sự chấp thuận của cử tri da trắng trong một cuộc trưng cầu dân ý năm 1992, chính phủ đã tiếp tục đàm phán để chấm dứt chế độ apartheid. Nam Phi đã tổ chức cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu đầu tiên vào năm 1994, trong đó ANC đã giành chiến thắng với đa số áp đảo. ANC đã nắm quyền kể từ đó. Đất nước này tái gia nhập Khối Thịnh vượng chung và trở thành thành viên của Cộng đồng Phát triển Nam Phi.
Ở Nam Phi thời hậu apartheid do ANC cai trị, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên hơn 30% và bất bình đẳng thu nhập gia tăng. Trong khi nhiều người da đen đã vươn lên tầng lớp trung lưu hoặc thượng lưu, tỷ lệ thất nghiệp chung của người da đen trở nên tồi tệ hơn từ năm 1994 đến năm 2003 theo các số liệu chính thức nhưng đã giảm đáng kể nếu sử dụng các định nghĩa mở rộng. Tình trạng nghèo đói trong cộng đồng người Nam Phi da trắng, trước đây hiếm khi xảy ra, đã gia tăng. Chính phủ đã phải vật lộn để đạt được kỷ luật tiền tệ và tài khóa nhằm đảm bảo cả việc tái phân phối của cải và tăng trưởng kinh tế. Chỉ số Phát triển Con người của Liên Hợp Quốc tăng đều đặn cho đến giữa những năm 1990, sau đó giảm từ năm 1995 đến năm 2005 trước khi phục hồi mức đỉnh năm 1995 vào năm 2013. Sự sụt giảm này phần lớn là do đại dịch HIV/AIDS ở Nam Phi khiến tuổi thọ của người Nam Phi giảm từ mức cao nhất là 62 tuổi vào năm 1992 xuống mức thấp nhất là 53 tuổi vào năm 2005, và do chính phủ đã không thực hiện các biện pháp để giải quyết đại dịch trong những năm đầu.


Vào tháng 5 năm 2008, các cuộc bạo loạn đã khiến hơn 60 người thiệt mạng. Trung tâm Quyền Nhà ở và Trục xuất ước tính có hơn 100.000 người bị đuổi khỏi nhà của họ. Các mục tiêu chủ yếu là người nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp, và những người tị nạn tìm kiếm nơi ẩn náu, nhưng một phần ba số nạn nhân là công dân Nam Phi. Trong một cuộc khảo sát năm 2006, Dự án Di cư Nam Phi kết luận rằng người Nam Phi phản đối nhập cư nhiều hơn bất kỳ nhóm quốc gia nào khác. Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn vào năm 2008 đã báo cáo rằng hơn 200.000 người tị nạn đã xin tị nạn ở Nam Phi, gần gấp bốn lần so với năm trước. Những người này chủ yếu đến từ Zimbabwe, mặc dù nhiều người cũng đến từ Burundi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Rwanda, Eritrea, Ethiopia và Somalia. Sự cạnh tranh về việc làm, cơ hội kinh doanh, dịch vụ công và nhà ở đã dẫn đến căng thẳng giữa người tị nạn và cộng đồng sở tại. Mặc dù bài ngoại ở Nam Phi vẫn là một vấn đề, Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn vào năm 2011 đã báo cáo rằng bạo lực gần đây không lan rộng như lo ngại ban đầu. Tuy nhiên, khi Nam Phi tiếp tục vật lộn với các vấn đề chủng tộc, một trong những giải pháp được đề xuất là thông qua luật pháp, chẳng hạn như Dự luật Tội phạm Thù ghét và Lời nói Thù ghét đang chờ xử lý, để duy trì lệnh cấm phân biệt chủng tộc của Nam Phi và cam kết bình đẳng.
Vào ngày 14 tháng 2 năm 2018, Jacob Zuma từ chức tổng thống. Kể từ ngày 15 tháng 2, chủ tịch ANC Cyril Ramaphosa đã là Tổng thống Nam Phi. Vào ngày 16 tháng 3 năm 2018, chỉ hơn một tháng sau khi Tổng thống Jacob Zuma từ chức, Giám đốc Quốc gia về Truy tố Công cộng Shaun Abrahams tuyên bố rằng Zuma sẽ lại phải đối mặt với việc truy tố về 16 tội danh hình sự - 12 tội gian lận, hai tội tham nhũng, và mỗi tội danh về tống tiền có tổ chức và rửa tiền, giống như trong bản cáo trạng năm 2006. Một lệnh bắt giữ đã được ban hành đối với ông vào tháng 2 năm 2020 sau khi ông không xuất hiện tại tòa. Năm 2021, ông bị kết tội coi thường tòa án và bị kết án 15 tháng tù. Đáp lại, những người ủng hộ Zuma đã tham gia biểu tình dẫn đến bạo loạn, cướp bóc, phá hoại và bạo lực lan rộng, khiến 354 người thiệt mạng.
Ủy ban Zondo, được thành lập vào năm 2018 để điều tra các cáo buộc tham nhũng và chiếm đoạt nhà nước, đã công bố kết quả điều tra vào năm 2022. Ủy ban này phát hiện ra tình trạng tham nhũng tràn lan ở mọi cấp chính quyền, bao gồm Transnet, Eskom, và Denel, cũng như các cơ quan thực thi pháp luật, các cơ quan tình báo, và dịch vụ dân sự. Ủy ban đã ghi lại bằng chứng về tham nhũng có hệ thống, gian lận, tống tiền có tổ chức, hối lộ, rửa tiền, và chiếm đoạt nhà nước. Ủy ban đã điều tra đảng Đại hội Dân tộc Phi và Jacob Zuma, người mà ủy ban kết luận là đồng lõa trong việc chiếm đoạt nhà nước thông qua sự hỗ trợ trực tiếp của họ cho gia đình Gupta. Ủy ban ước tính tổng số tiền nhà nước chi tiêu bị "ô nhiễm" bởi việc chiếm đoạt nhà nước là khoảng 57 tỷ R. Hơn 97% trong số 57 tỷ R đến từ Transnet và Eskom. Trong số các quỹ này, doanh nghiệp Gupta đã nhận được ít nhất 15 tỷ R. Tổng thiệt hại cho nhà nước rất khó định lượng, nhưng sẽ vượt xa con số 15 tỷ R đó.
Nam Phi đã duy trì lập trường trung lập liên quan đến cuộc xâm lược Ukraina của Nga vào năm 2022 và cuộc chiến đang diễn ra. Vào ngày 29 tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã chính thức đệ trình vụ kiện của mình lên Tòa án Công lý Quốc tế liên quan đến hành vi của Israel tại Dải Gaza như một phần của Chiến tranh Israel-Hamas, cáo buộc rằng Israel đã và đang phạm tội diệt chủng chống lại người Palestine tại Dải Gaza. Nam Phi đã nhiều lần tiếp đón các nhà lãnh đạo cấp cao của Hamas, nhóm chịu trách nhiệm về vụ thảm sát ngày 7 tháng 10 ở Israel.
Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2024, Đại hội Dân tộc Phi đã chứng kiến tỷ lệ phiếu bầu toàn quốc của mình giảm xuống dưới 50% lần đầu tiên kể từ khi chế độ Apartheid kết thúc, mặc dù vẫn là đảng lớn nhất duy nhất trong Quốc hội Nam Phi. Tổng thống Ramaphosa đã công bố một chính phủ đoàn kết dân tộc, chính phủ đầu tiên kể từ Nội các của Nelson Mandela, và đã ký một thỏa thuận với Liên minh Dân chủ, đảng đối lập chính trước đây, và các đảng nhỏ khác. Ramaphosa đã được Quốc hội tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, đối đầu với lãnh đạo của Các chiến sĩ tự do kinh tế, Julius Malema.
Nam Phi đã trải qua một giai đoạn khủng hoảng chính trị và kinh tế nghiêm trọng kể từ năm 2020 với số lượng ngày càng tăng các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và các nhân vật chính trị cảnh báo rằng đất nước có nguy cơ sụp đổ thành một nhà nước thất bại do tỷ lệ thất nghiệp cao, tăng trưởng kinh tế thấp, đầu tư kinh doanh thấp, mức độ tội phạm bạo lực, rối loạn, tham nhũng chính trị và chiếm đoạt nhà nước ngày càng tăng. Đất nước này đã trải qua một khủng hoảng năng lượng kể từ năm 2007, dẫn đến tình trạng mất điện luân phiên thường xuyên do cắt giảm tải. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nam Phi đang phải chịu đựng "tham nhũng quy mô lớn" và chiếm đoạt nhà nước.
2.7.1. Ủy ban Sự thật và Hòa giải
Ủy ban Sự thật và Hòa giải (TRC) được thành lập ở Nam Phi sau khi chế độ Apartheid sụp đổ. Mục đích chính của ủy ban là điều tra các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng xảyรa từ ngày 1 tháng 3 năm 1960 đến ngày 10 tháng 5 năm 1994, thời kỳ mà sự đàn áp chính trị và phân biệt chủng tộc diễn ra khốc liệt nhất. Ủy ban được trao quyền ân xá cho những người thú nhận đầy đủ về các tội ác mà họ đã phạm phải với động cơ chính trị, với điều kiện là hành vi của họ phải tương xứng với mục tiêu chính trị và họ phải tiết lộ toàn bộ sự thật.
Hoạt động của TRC bao gồm việc tổ chức các phiên điều trần công khai, nơi các nạn nhân kể lại những đau khổ mà họ phải chịu đựng và những người phạm tội thú nhận hành vi của mình. Những phiên điều trần này thường rất xúc động và đóng một vai trò quan trọng trong việc phơi bày sự thật về quá khứ, đồng thời tạo không gian cho sự đối thoại và thấu hiểu giữa các bên.
Thành tựu lớn nhất của TRC là đã góp phần vào quá trình chuyển đổi hòa bình sang một nền dân chủ đa sắc tộc bằng cách tạo ra một diễn đàn để đối mặt với quá khứ thay vì trả thù. Nó đã giúp ghi lại một phần lịch sử đau thương của đất nước và mang lại một mức độ công lý nhất định cho các nạn nhân thông qua việc công nhận những đau khổ của họ và, trong một số trường hợp, bồi thường.
Tuy nhiên, TRC cũng có những hạn chế. Nhiều người cho rằng việc ân xá đã cho phép nhiều thủ phạm thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng. Quá trình bồi thường cho nạn nhân cũng diễn ra chậm chạp và không đầy đủ. Một số nhà phê bình cũng cho rằng TRC đã không giải quyết được một cách triệt để các nguyên nhân gốc rễ của sự bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc vẫn còn tồn tại trong xã hội Nam Phi. Mặc dù vậy, TRC vẫn được coi là một mô hình quan trọng trong việc giải quyết xung đột và xây dựng hòa giải ở các quốc gia trải qua những giai đoạn lịch sử tương tự.
3. Địa lý

Nam Phi nằm ở cực nam châu Phi, với đường bờ biển trải dài hơn 2.50 K km dọc theo hai đại dương (Nam Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương). Với diện tích 1.22 M km2, Nam Phi là quốc gia lớn thứ 24 trên thế giới. Không bao gồm Quần đảo Prince Edward, đất nước này nằm giữa vĩ độ 22° và 35°N, và kinh độ 16° và 33°Đ. Nội địa Nam Phi bao gồm một cao nguyên rộng lớn, hầu hết các nơi gần như bằng phẳng với độ cao từ 1.00 K m đến 2.10 K m, cao nhất ở phía đông và thoải dần xuống phía tây và phía bắc, và hơi thoải xuống phía nam và tây nam. Cao nguyên này được bao quanh bởi Great Escarpment, phần phía đông và cao nhất của nó được gọi là Drakensberg. Mafadi ở Drakensberg với độ cao 3.45 K m là đỉnh núi cao nhất. Biên giới quốc tế KwaZulu-Natal-Lesotho được hình thành bởi phần cao nhất của Great Escarpment, đạt độ cao hơn 3.00 K m.
Các phần phía nam và tây nam của cao nguyên (ở độ cao khoảng 1.100-1.800 m so với mực nước biển) và đồng bằng liền kề bên dưới (ở độ cao khoảng 700-800 m so với mực nước biển) được gọi là Great Karoo, bao gồm các vùng đất cây bụi dân cư thưa thớt. Về phía bắc, Great Karoo dần chuyển thành vùng Bushmanland khô cằn hơn, cuối cùng trở thành Sa mạc Kalahari ở phía tây bắc đất nước. Phần trung đông và cao nhất của cao nguyên được gọi là Highveld. Khu vực tương đối được tưới tiêu tốt này là nơi có một phần lớn các trang trại thương mại của đất nước và chứa đựng vùng đô thị lớn nhất (Gauteng). Về phía bắc của Highveld, từ khoảng vĩ tuyến 25°-30' Nam, cao nguyên dốc xuống Bushveld, cuối cùng nhường chỗ cho vùng đất thấp của sông Limpopo hay Lowveld.
Vành đai ven biển, bên dưới Great Escarpment, di chuyển theo chiều kim đồng hồ từ phía đông bắc, bao gồm Limpopo Lowveld, hợp nhất vào Mpumalanga Lowveld, bên dưới Mpumalanga Drakensberg (phần phía đông của Great Escarpment). Vùng này nóng hơn, khô hơn và ít được canh tác chuyên sâu hơn Highveld phía trên vách đá. Vườn quốc gia Kruger, nằm ở các tỉnh Limpopo và Mpumalanga ở đông bắc Nam Phi, chiếm một phần lớn của Lowveld, bao phủ 19.63 K km2.


Vành đai ven biển bên dưới các dải phía nam và tây nam của Great Escarpment chứa một số dãy núi Cape Fold chạy song song với bờ biển, ngăn cách Great Escarpment với đại dương. Vùng đất giữa dãy Outeniqua và Langeberg ở phía nam và dãy Swartberg ở phía bắc được gọi là Little Karoo, bao gồm vùng đất cây bụi bán sa mạc tương tự như Great Karoo, ngoại trừ dải phía bắc dọc theo chân núi của dãy Swartberg có lượng mưa cao hơn một chút và do đó được canh tác nhiều hơn Great Karoo. Little Karoo nổi tiếng với nghề nuôi đà điểu quanh Oudtshoorn. Vùng đất thấp phía bắc dãy Swartberg lên đến Great Escarpment là phần đất thấp của Great Karoo, về mặt khí hậu và thực vật gần như không thể phân biệt được với Karoo phía trên Great Escarpment. Dải ven biển hẹp giữa dãy Outeniqua và Langeberg và đại dương có lượng mưa quanh năm vừa phải, được gọi là Garden Route. Nó nổi tiếng với những khu rừng rộng lớn nhất ở Nam Phi (một quốc gia nhìn chung nghèo rừng).
Ở góc tây nam của đất nước, Bán đảo Cape tạo thành mũi cực nam của dải ven biển giáp Đại Tây Dương và cuối cùng kết thúc tại biên giới của đất nước với Namibia tại Sông Orange. Bán đảo Cape có khí hậu Địa Trung Hải, khiến nó và các vùng phụ cận ngay lập tức trở thành phần duy nhất của Châu Phi Hạ Sahara nhận được phần lớn lượng mưa vào mùa đông. Vành đai ven biển phía bắc Bán đảo Cape được giới hạn ở phía tây bởi Đại Tây Dương và dãy núi Cape Fold chạy theo hướng bắc-nam đầu tiên ở phía đông. Dãy núi Cape Fold giảm dần ở khoảng vĩ tuyến 32° Nam, sau đó Great Escarpment giới hạn đồng bằng ven biển. Phần cực nam của vành đai ven biển này được gọi là Swartland và Đồng bằng Malmesbury, là một vùng trồng lúa mì quan trọng, dựa vào mưa mùa đông. Khu vực xa hơn về phía bắc được gọi là Namaqualand, trở nên khô cằn hơn gần sông Orange. Lượng mưa ít ỏi có xu hướng rơi vào mùa đông, dẫn đến một trong những màn trình diễn hoa ngoạn mục nhất thế giới bao phủ những vùng đất rộng lớn của veld vào mùa xuân (tháng 8-tháng 9).
Nam Phi cũng có một lãnh thổ hải ngoại, quần đảo nhỏ cận Nam Cực Quần đảo Prince Edward, bao gồm Đảo Marion (290 km2) và Đảo Prince Edward (45 km2).
3.1. Khí hậu
Nam Phi có khí hậu nói chung là ôn đới vì được bao quanh bởi Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương ở ba mặt, vì nằm ở Nam Bán cầu có khí hậu ôn hòa hơn, và vì độ cao trung bình của nó tăng đều về phía bắc (về phía xích đạo) và xa hơn vào đất liền. Địa hình đa dạng và ảnh hưởng của đại dương này dẫn đến sự đa dạng lớn về các vùng khí hậu. Các vùng khí hậu bao gồm từ sa mạc cực đoan của miền nam Namib ở phía tây bắc xa xôi nhất đến khí hậu cận nhiệt đới tươi tốt ở phía đông dọc theo biên giới với Mozambique và Ấn Độ Dương. Mùa đông ở Nam Phi diễn ra từ tháng 6 đến tháng 8. Khu vực cực tây nam có khí hậu tương tự như khí hậu Địa Trung Hải với mùa đông ẩm ướt và mùa hè nóng, khô, là nơi có quần xã sinh vật fynbos nổi tiếng gồm cây bụi và bụi rậm. Khu vực này sản xuất nhiều rượu vang ở Nam Phi và nổi tiếng với gió thổi không liên tục gần như quanh năm. Sức gió mạnh này khiến việc đi qua Mũi Hảo Vọng đặc biệt nguy hiểm đối với các thủy thủ, gây ra nhiều vụ đắm tàu. Xa hơn về phía đông trên bờ biển phía nam, lượng mưa phân bố đều hơn trong suốt cả năm, tạo ra một cảnh quan xanh tươi. Lượng mưa hàng năm tăng ở phía nam Lowveld, đặc biệt là gần bờ biển, là vùng cận nhiệt đới. Free State đặc biệt bằng phẳng vì nó nằm ở trung tâm trên cao nguyên. Phía bắc Sông Vaal, Highveld được tưới tiêu tốt hơn và không trải qua những đợt nắng nóng cực đoan của vùng cận nhiệt đới. Johannesburg, ở trung tâm Highveld, ở độ cao 1.74 K m so với mực nước biển và nhận lượng mưa hàng năm là 760 mm. Mùa đông ở vùng này lạnh, mặc dù tuyết hiếm khi rơi.
Nơi lạnh nhất trên đất liền Nam Phi là Buffelsfontein ở Đông Cape, nơi nhiệt độ -20.1 °C được ghi nhận vào năm 2013. Quần đảo Prince Edward có nhiệt độ trung bình hàng năm lạnh hơn, nhưng Buffelsfontein có nhiệt độ cực đoan lạnh hơn. Vùng nội địa sâu của đất liền Nam Phi có nhiệt độ nóng nhất: nhiệt độ 51.7 °C được ghi nhận vào năm 1948 ở Bắc Cape Kalahari gần Upington, nhưng nhiệt độ này không chính thức và không được ghi nhận bằng thiết bị tiêu chuẩn; nhiệt độ cao nhất chính thức là 48.8 °C tại Vioolsdrif vào tháng 1 năm 1993.
Biến đổi khí hậu ở Nam Phi đang dẫn đến nhiệt độ tăng và sự biến đổi của lượng mưa. Các hiện tượng thời tiết cực đoan đang trở nên nổi bật hơn. Đây là một mối quan tâm nghiêm trọng đối với người dân Nam Phi vì biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến tình trạng chung và phúc lợi của đất nước, ví dụ như đối với tài nguyên nước. Những thay đổi môi trường nhanh chóng đang gây ra những ảnh hưởng rõ rệt ở cấp độ cộng đồng và môi trường theo những cách và khía cạnh khác nhau, bắt đầu từ chất lượng không khí, đến nhiệt độ và các kiểu thời tiết, cho đến an ninh lương thực và gánh nặng bệnh tật. Theo mô hình khí hậu do máy tính tạo ra bởi Viện Đa dạng Sinh học Quốc gia Nam Phi, các phần của miền nam châu Phi sẽ chứng kiến nhiệt độ tăng khoảng 1 °C dọc theo bờ biển lên hơn 4 °C ở vùng nội địa vốn đã nóng như Bắc Cape vào cuối mùa xuân và mùa hè năm 2050. Khu vực Hệ thực vật Cape được dự đoán sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Hạn hán, cường độ và tần suất cháy rừng gia tăng, và nhiệt độ tăng cao được cho là sẽ đẩy nhiều loài quý hiếm đến bờ vực tuyệt chủng. Nam Phi đã công bố hai báo cáo quốc gia về biến đổi khí hậu vào năm 2011 và 2016. Nam Phi đóng góp một lượng đáng kể phát thải carbon dioxide, là nước phát thải carbon dioxide lớn thứ 14, chủ yếu do sự phụ thuộc nặng nề vào than đá và dầu mỏ để sản xuất năng lượng. Là một phần của các cam kết quốc tế, Nam Phi đã cam kết đạt đỉnh phát thải từ năm 2020 đến năm 2025.
3.2. Đa dạng sinh học


Nam Phi đã ký Công ước về Đa dạng sinh học Rio vào ngày 4 tháng 6 năm 1994 và trở thành một bên tham gia công ước vào ngày 2 tháng 11 năm 1995. Sau đó, nước này đã xây dựng một Chiến lược và Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học Quốc gia, được công ước tiếp nhận vào ngày 7 tháng 6 năm 2006. Quốc gia này được xếp hạng thứ sáu trong số mười bảy quốc gia siêu đa dạng của thế giới. Du lịch sinh thái ở Nam Phi đã trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây, như một phương pháp khả thi để duy trì và cải thiện đa dạng sinh học.
Nhiều loài động vật có vú được tìm thấy ở Bushveld bao gồm sư tử, báo châu Phi, báo săn Nam Phi, tê giác trắng miền Nam, linh dương đầu bò xanh, kudu, impala, linh cẩu, hà mã và hươu cao cổ Nam Phi. Một phần đáng kể của Bushveld tồn tại ở phía đông bắc bao gồm Vườn quốc gia Kruger và Khu bảo tồn Sabi Sand, cũng như ở phía bắc xa trong Khu dự trữ sinh quyển Waterberg. Nam Phi có nhiều loài đặc hữu, trong số đó có loài thỏ ven sông (Bunolagus monticullaris) cực kỳ nguy cấp ở Karoo.
Tính đến năm 1945, hơn 4.900 loài nấm (bao gồm cả các loài tạo thành Địa y) đã được ghi nhận. Năm 2006, số lượng nấm ở Nam Phi được ước tính là 200.000 loài nhưng không tính đến các loài nấm liên quan đến côn trùng. Nếu đúng, thì số lượng nấm Nam Phi vượt xa số lượng thực vật của nó. Ít nhất trong một số hệ sinh thái chính của Nam Phi, một tỷ lệ đặc biệt cao các loài nấm rất đặc trưng về loại thực vật mà chúng cùng tồn tại. Chiến lược và Kế hoạch hành động Đa dạng sinh học của đất nước không đề cập đến nấm (bao gồm cả các loài nấm tạo thành địa y).
Với hơn 22.000 loài thực vật có mạch khác nhau, hay khoảng 9% tổng số loài thực vật được biết đến trên Trái đất, Nam Phi đặc biệt phong phú về đa dạng thực vật. Hệ sinh thái phổ biến nhất là đồng cỏ, đặc biệt là ở Highveld, nơi thảm thực vật chủ yếu là các loại cỏ khác nhau, cây bụi thấp và keo, chủ yếu là camel-thorn (Vachellia erioloba). Thảm thực vật thưa thớt về phía tây bắc do lượng mưa thấp. Có rất nhiều loài thực vật mọng nước trữ nước, như lô hội và euphorbia, ở vùng Namaqualand rất nóng và khô. Và theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Nam Phi là nơi sinh sống của khoảng một phần ba tổng số loài thực vật mọng nước. Thảm thực vật cỏ và gai savanna từ từ chuyển thành savanna cây bụi về phía đông bắc của đất nước, với sự phát triển dày đặc hơn. Có một số lượng đáng kể cây bao báp ở khu vực này, gần đầu phía bắc của Vườn quốc gia Kruger.
Hệ sinh thái fynbos, chiếm phần lớn diện tích và đời sống thực vật ở Vùng thực vật Cape, nằm trong một vùng nhỏ của Tây Cape và chứa hơn 9.000 loài đó, hay gấp ba lần số loài thực vật được tìm thấy trong rừng mưa Amazon, khiến nó trở thành một trong những vùng giàu có nhất trên trái đất về đa dạng thực vật. Hầu hết các loài thực vật là cây lá cứng thường xanh với lá nhỏ, giống như kim, chẳng hạn như các loài thực vật lá cứng. Một nhóm thực vật có hoa độc đáo khác của Nam Phi là chi Protea, với khoảng 130 loài khác nhau. Mặc dù Nam Phi có sự phong phú lớn về thực vật có hoa, chỉ 1% diện tích đất là rừng, hầu như chỉ ở đồng bằng ven biển ẩm ướt của KwaZulu-Natal, nơi cũng có các khu vực rừng ngập mặn Nam Phi ở các cửa sông. Các khu bảo tồn rừng thậm chí còn nhỏ hơn nằm ngoài tầm với của lửa, được gọi là rừng núi Knysna-Amatole. Các đồn điền trồng các loài cây nhập khẩu chiếm ưu thế, đặc biệt là bạch đàn và thông không bản địa.
Nam Phi đã mất một diện tích lớn môi trường sống tự nhiên trong bốn thập kỷ qua, chủ yếu do dân số quá đông, các mô hình phát triển dàn trải và nạn phá rừng trong thế kỷ 19. Nước này có điểm trung bình Chỉ số Toàn vẹn Cảnh quan Rừng năm 2019 là 4.94/10, xếp thứ 112 trên toàn cầu trong số 172 quốc gia. Nam Phi là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới khi nói đến sự xâm lấn của các loài ngoại lai với nhiều loài (ví dụ: keo đen, liễu Port Jackson, Hakea, Lantana và Jacaranda) gây ra mối đe dọa đáng kể đối với đa dạng sinh học bản địa và các nguồn tài nguyên nước vốn đã khan hiếm. Ngoài ra, sự xâm lấn của cây thân gỗ của các loài thực vật bản địa vào đồng cỏ cũng gây ra mối đe dọa đối với đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái liên quan, ảnh hưởng đến hơn 7 triệu ha. Rừng lá rộng ôn đới và hỗn hợp ban đầu được những người định cư châu Âu đầu tiên tìm thấy đã bị khai thác cho đến khi chỉ còn lại những mảng nhỏ. Hiện tại, các loài cây gỗ cứng của Nam Phi như hoàng đàn thật (Podocarpus latifolius), stinkwood (Ocotea bullata), và lim đen Nam Phi (Olea capensis) đang được chính phủ bảo vệ nghiêm ngặt. Thống kê từ Bộ Môi trường, Lâm nghiệp và Thủy sản cho thấy kỷ lục 1.215 con tê giác đã bị giết vào năm 2014. Vì Nam Phi là nơi sinh sống của một phần ba tổng số loài thực vật mọng nước (nhiều loài đặc hữu của Karoo), điều này khiến nó trở thành điểm nóng về săn trộm thực vật, dẫn đến nhiều loài bị đe dọa tuyệt chủng.
4. Chính trị
Nam Phi là một nền cộng hòa nghị viện, nhưng không giống như hầu hết các nền cộng hòa như vậy, Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ và phụ thuộc vào sự tin cậy của Quốc hội để duy trì nhiệm kỳ. Các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp đều chịu sự chi phối của Hiến pháp Nam Phi, và các tòa án cấp cao có quyền bác bỏ các hành động hành pháp và các đạo luật của Quốc hội nếu chúng vi hiến. Quốc hội, hạ viện của Quốc hội, bao gồm 400 thành viên và được bầu 5 năm một lần theo hệ thống đại diện tỷ lệ theo danh sách đảng. Hội đồng Quốc gia các Tỉnh, thượng viện, bao gồm 90 thành viên, với mỗi cơ quan lập pháp tỉnh bầu ra 10 thành viên.



Sau mỗi cuộc bầu cử quốc hội, Quốc hội bầu một trong số các thành viên của mình làm tổng thống; do đó, tổng thống phục vụ một nhiệm kỳ giống như nhiệm kỳ của Quốc hội, thường là 5 năm. Không tổng thống nào được phục vụ quá hai nhiệm kỳ. Quốc hội có thể bãi nhiệm tổng thống và nội các bằng một bỏ phiếu bất tín nhiệm. Trong cuộc bầu cử gần đây nhất, được tổ chức vào ngày 29 tháng 5 năm 2024, ANC đã mất đa số lần đầu tiên kể từ khi chế độ Apartheid kết thúc, chỉ giành được 40% số phiếu và 159 ghế, trong khi phe đối lập chính, Liên minh Dân chủ (DA), giành được 22% số phiếu và 87 ghế. uMkhonto weSizwe, một đảng mới do cựu Tổng thống và lãnh đạo ANC Jacob Zuma thành lập, giành được 14,6% số phiếu và 58 ghế, trong khi Các chiến sĩ tự do kinh tế, do Julius Malema, cựu chủ tịch Đoàn Thanh niên ANC sau đó bị khai trừ khỏi ANC, thành lập, giành được 9,5% số phiếu và 39 ghế. Sau cuộc bầu cử, ANC đã thành lập một Chính phủ Đoàn kết Dân tộc với DA và một số đảng nhỏ khác.
Nam Phi không có thủ đô được xác định hợp pháp. Chương thứ tư của hiến pháp quy định "Trụ sở của Quốc hội là Cape Town, nhưng một Đạo luật của Quốc hội được ban hành theo mục 76(1) và (5) có thể xác định rằng trụ sở của Quốc hội ở nơi khác." Ba nhánh chính phủ của đất nước được phân chia ở các thành phố khác nhau. Cape Town, với tư cách là trụ sở của Quốc hội, là thủ đô lập pháp; Pretoria, với tư cách là trụ sở của tổng thống và nội các, là thủ đô hành chính; và Bloemfontein là trụ sở của Tòa án Phúc thẩm Tối cao, và theo truyền thống được coi là thủ đô tư pháp; mặc dù tòa án cao nhất, Tòa án Hiến pháp Nam Phi đã đặt trụ sở tại Johannesburg kể từ năm 1994. Hầu hết các đại sứ quán nước ngoài đều đặt tại Pretoria.
Kể từ năm 2004, Nam Phi đã có hàng ngàn cuộc biểu tình của người dân, một số mang tính bạo lực, khiến nước này, theo một học giả, trở thành "quốc gia giàu biểu tình nhất thế giới". Đã có nhiều vụ đàn áp chính trị cũng như các mối đe dọa đàn áp trong tương lai vi phạm hiến pháp, khiến một số nhà phân tích và các tổ chức xã hội dân sự kết luận rằng đang có hoặc có thể có một bầu không khí đàn áp chính trị mới.
Năm 2022, Nam Phi được xếp thứ sáu trong số 48 quốc gia châu Phi Hạ Sahara trong Chỉ số Quản trị châu Phi Ibrahim. Nam Phi đạt điểm cao trong các hạng mục Pháp quyền, Minh bạch, Tham nhũng, Sự tham gia và Nhân quyền, nhưng đạt điểm thấp về An toàn và An ninh. Năm 2006, Nam Phi trở thành một trong những khu vực pháp lý đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.
Hiến pháp Nam Phi là quy tắc pháp luật tối cao của đất nước. Các nguồn chính của luật pháp Nam Phi là luật thương mại và luật cá nhân Rôma-Hà Lan và Thông luật Anh, được du nhập từ các khu định cư của Hà Lan và chủ nghĩa thực dân Anh. Luật pháp dựa trên châu Âu đầu tiên ở Nam Phi được Công ty Đông Ấn Hà Lan mang đến và được gọi là luật Rôma-Hà Lan. Nó được du nhập trước khi mã hóa luật châu Âu thành Bộ luật Napoléon và có nhiều điểm tương đồng với Luật Scotland. Tiếp theo đó vào thế kỷ 19 là luật Anh, cả thông luật và luật thành văn. Sau khi thống nhất vào năm 1910, Nam Phi có quốc hội riêng thông qua các luật cụ thể cho Nam Phi, dựa trên những luật đã được thông qua trước đó cho các thuộc địa thành viên riêng lẻ. Hệ thống tư pháp bao gồm các tòa án sơ thẩm, xét xử các vụ án hình sự ít nghiêm trọng hơn và các vụ án dân sự nhỏ hơn; Tòa án Tối cao, có các bộ phận đóng vai trò là tòa án thẩm quyền chung cho các khu vực cụ thể; Tòa án Phúc thẩm Tối cao; và Tòa án Hiến pháp, là tòa án cao nhất.
4.1. Cấu trúc chính phủ
Nam Phi là một nước cộng hòa nghị viện, mặc dù Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người đứng đầu chính phủ, và được Quốc hội bầu ra. Quyền hành pháp được trao cho Tổng thống, người bổ nhiệm các bộ trưởng và thành viên của Nội các. Tổng thống và Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Nhánh Lập pháp:
Quốc hội là cơ quan lập pháp lưỡng viện, bao gồm:
- Quốc hội (National Assembly): Là hạ viện, gồm 400 thành viên được bầu theo hệ thống đại diện tỷ lệ trong các cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội chịu trách nhiệm thông qua luật pháp, giám sát hành pháp và bầu Tổng thống.
- Hội đồng Quốc gia các Tỉnh (National Council of Provinces - NCOP): Là thượng viện, gồm 90 thành viên. Mỗi tỉnh trong số chín tỉnh cử một phái đoàn gồm 10 người. NCOP đại diện cho lợi ích của các tỉnh ở cấp quốc gia và tham gia vào quá trình lập pháp, đặc biệt là các vấn đề ảnh hưởng đến các tỉnh.
Nhánh Hành pháp:
- Tổng thống: Là người đứng đầu nhà nước và chính phủ. Tổng thống được Quốc hội bầu ra từ các thành viên của mình sau mỗi cuộc tổng tuyển cử. Tổng thống bổ nhiệm Phó Tổng thống và các Bộ trưởng để thành lập Nội các. Tổng thống chịu trách nhiệm thực thi luật pháp, điều hành đất nước và đại diện cho Nam Phi trên trường quốc tế. Hiện tại, Tổng thống là Cyril Ramaphosa. Phó Tổng thống là Paul Mashatile.
- Nội các: Bao gồm Tổng thống, Phó Tổng thống và các Bộ trưởng. Nội các chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi chính sách của chính phủ.
Nhánh Tư pháp:
Hệ thống tư pháp của Nam Phi độc lập và bao gồm nhiều cấp tòa án:
- Tòa án Sơ thẩm (Magistrates' Courts): Xét xử các vụ án hình sự và dân sự ít nghiêm trọng.
- Tòa án Tối cao (High Courts): Có các bộ phận ở các tỉnh khác nhau, xét xử các vụ án nghiêm trọng hơn và các kháng cáo từ Tòa án Sơ thẩm.
- Tòa án Phúc thẩm Tối cao (Supreme Court of Appeal - SCA): Đặt tại Bloemfontein, là tòa án phúc thẩm cao nhất cho tất cả các vấn đề, ngoại trừ các vấn đề hiến pháp.
- Tòa án Hiến pháp (Constitutional Court): Đặt tại Johannesburg, là tòa án cao nhất về các vấn đề hiến pháp. Tòa án này có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền được quy định trong Hiến pháp. Chánh án hiện tại là Mandisa Maya.
Chủ tịch Quốc hội hiện tại là Thoko Didiza và Chủ tịch Hội đồng Quốc gia các Tỉnh là Refilwe Mtsweni-Tsipane.
4.2. Hiến pháp
Hiến pháp hiện hành của Nam Phi được thông qua bởi Tòa án Hiến pháp vào ngày 4 tháng 12 năm 1996 và có hiệu lực vào ngày 4 tháng 2 năm 1997. Đây là hiến pháp thứ năm của đất nước. Nó thay thế Hiến pháp lâm thời năm 1993, vốn quy định khuôn khổ cho quá trình chuyển đổi từ chế độ Apartheid sang một nền dân chủ đa sắc tộc.
Quá trình xây dựng Hiến pháp mới là một nỗ lực mang tính bao trùm, với sự tham gia của nhiều đảng phái chính trị, tổ chức xã hội dân sự và công chúng. Hiến pháp được ca ngợi rộng rãi vì đã thiết lập một nền dân chủ vững mạnh và bảo vệ các quyền con người cơ bản.
Các giá trị cốt lõi của Hiến pháp Nam Phi bao gồm:
- Nhân phẩm, bình đẳng và thăng tiến quyền con người và tự do:** Đây là nền tảng của Hiến pháp.
- Không phân biệt chủng tộc và không phân biệt giới tính:** Cam kết xây dựng một xã hội không còn sự chia rẽ dựa trên chủng tộc hay giới tính.
- Tính tối cao của Hiến pháp và pháp quyền:** Mọi luật lệ và hành động của chính phủ đều phải tuân thủ Hiến pháp.
- Quyền bầu cử phổ thông cho người trưởng thành, một danh sách cử tri quốc gia chung, bầu cử thường xuyên và một hệ thống chính phủ dân chủ đa đảng, để đảm bảo trách nhiệm giải trình, tính đáp ứng và sự cởi mở.**
Nội dung chính của Hiến pháp bao gồm:
- Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights):** Đây là một trong những tuyên ngôn nhân quyền toàn diện nhất trên thế giới, bảo vệ một loạt các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Các quyền này bao gồm quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền tự do ngôn luận, quyền hội họp, quyền về môi trường, quyền nhà ở, chăm sóc sức khỏe, thực phẩm, nước và an sinh xã hội.
- Cấu trúc chính phủ:** Xác định rõ ràng ba nhánh quyền lực - lập pháp, hành pháp và tư pháp - và mối quan hệ giữa chúng.
- Các thể chế nhà nước hỗ trợ dân chủ lập hiến:** Bao gồm các cơ quan như Công tố viên, Kiểm toán trưởng, và Ủy ban Bầu cử Độc lập.
- Vai trò của các nhà lãnh đạo truyền thống.**
Tòa án Hiến pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích và thực thi Hiến pháp, đảm bảo rằng tất cả các luật lệ và hành động của chính phủ đều phù hợp với các nguyên tắc và giá trị hiến định.
4.3. Các đảng phái chính trị
Nam Phi có một hệ thống chính trị đa đảng, tuy nhiên, kể từ khi chế độ Apartheid chấm dứt vào năm 1994, Đại hội Dân tộc Phi (ANC) đã luôn là đảng cầm quyền.
- Đại hội Dân tộc Phi (African National Congress - ANC):
- Lịch sử:** Được thành lập vào năm 1912 với tên gọi ban đầu là Đại hội Dân tộc Bản xứ Nam Phi (South African Native National Congress), ANC là phong trào giải phóng dân tộc hàng đầu chống lại chế độ Apartheid. Sau nhiều thập kỷ bị cấm hoạt động và các nhà lãnh đạo bị cầm tù hoặc lưu vong, ANC đã lãnh đạo quá trình đàm phán chuyển đổi sang dân chủ.
- Hệ tư tưởng:** Ban đầu là một phong trào dân tộc chủ nghĩa Phi châu, ANC hiện nay theo đường lối trung tả, dân chủ xã hội. Đảng này cam kết xây dựng một xã hội không phân biệt chủng tộc, không phân biệt giới tính, dân chủ và thịnh vượng.
- Cơ sở ủng hộ:** ANC có cơ sở ủng hộ rộng rãi nhất trong cộng đồng người da đen Nam Phi, mặc dù cũng nhận được sự ủng hộ từ các nhóm chủng tộc khác.
- Ảnh hưởng chính trị:** Là đảng cầm quyền từ năm 1994, ANC đã định hình phần lớn các chính sách kinh tế, xã hội và đối ngoại của Nam Phi thời hậu Apartheid. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, uy tín của đảng đã bị ảnh hưởng bởi các cáo buộc tham nhũng và những thách thức kinh tế.
- Kết quả bầu cử gần đây:** Mặc dù vẫn là đảng lớn nhất, tỷ lệ phiếu bầu của ANC đã giảm trong các cuộc bầu cử gần đây. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2024, ANC lần đầu tiên mất đa số tuyệt đối tại Quốc hội, giành được 40.18% số phiếu, buộc phải thành lập chính phủ liên minh.
- Liên minh Dân chủ (Democratic Alliance - DA):
- Lịch sử:** DA có nguồn gốc từ các đảng đối lập da trắng ôn hòa trong thời kỳ Apartheid. Đảng này được thành lập dưới tên gọi hiện tại vào năm 2000.
- Hệ tư tưởng:** DA theo đường lối trung dung, tự do, ủng hộ kinh tế thị trường, pháp quyền và chủ nghĩa liên bang.
- Cơ sở ủng hộ:** Ban đầu chủ yếu dựa vào cử tri da trắng, DA đã nỗ lực mở rộng sự ủng hộ sang các cộng đồng da màu và da đen. Đảng này có thế mạnh ở tỉnh Tây Cape.
- Ảnh hưởng chính trị:** Là đảng đối lập chính thức lớn nhất, DA đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát chính phủ và đưa ra các giải pháp chính sách thay thế. Sau cuộc bầu cử năm 2024, DA đã tham gia chính phủ đoàn kết dân tộc với ANC.
- Các chiến sĩ tự do kinh tế (Economic Freedom Fighters - EFF):
- Lịch sử:** Được thành lập vào năm 2013 bởi Julius Malema, cựu chủ tịch Đoàn Thanh niên ANC, sau khi ông bị khai trừ khỏi ANC.
- Hệ tư tưởng:** EFF là một đảng cực tả, theo chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa dân tộc Phi châu. Đảng này chủ trương quốc hữu hóa các ngành kinh tế chủ chốt, cải cách ruộng đất triệt để và phân phối lại của cải.
- Cơ sở ủng hộ:** EFF thu hút sự ủng hộ từ những cử tri trẻ tuổi, người da đen nghèo và những người bất mãn với ANC.
- Ảnh hưởng chính trị:** EFF là đảng đối lập lớn thứ ba và có tiếng nói mạnh mẽ trong các vấn đề kinh tế và xã hội, thường xuyên chỉ trích ANC và DA.
- Đảng Tự do Inkatha (Inkatha Freedom Party - IFP):
- Lịch sử:** Được thành lập vào năm 1975 bởi Mangosuthu Buthelezi, IFP ban đầu là một phong trào văn hóa của người Zulu nhưng sau đó trở thành một đảng chính trị. IFP có lịch sử đối đầu với ANC trong những năm cuối của chế độ Apartheid.
- Hệ tư tưởng:** IFP theo đường lối bảo thủ, ủng hộ các giá trị truyền thống của người Zulu và chủ nghĩa liên bang.
- Cơ sở ủng hộ:** IFP có cơ sở ủng hộ mạnh nhất ở tỉnh KwaZulu-Natal, đặc biệt là trong cộng đồng người Zulu.
- Ảnh hưởng chính trị:** Mặc dù ảnh hưởng đã giảm sút so với những năm 1990, IFP vẫn là một đảng quan trọng ở KwaZulu-Natal và tham gia vào chính phủ đoàn kết dân tộc sau cuộc bầu cử năm 2024.
- uMkhonto we Sizwe (MK Party):
- Lịch sử:** Được thành lập vào cuối năm 2023 bởi cựu Tổng thống Jacob Zuma.
- Hệ tư tưởng:** Đảng này có lập trường dân túy, tập trung vào các vấn đề của cựu chiến binh và những người bất mãn với ANC hiện tại.
- Cơ sở ủng hộ:** Nhanh chóng thu hút sự ủng hộ đáng kể, đặc biệt ở tỉnh KwaZulu-Natal.
- Ảnh hưởng chính trị:** Trong cuộc bầu cử năm 2024, Đảng MK đã trở thành đảng lớn thứ ba, vượt qua EFF, cho thấy sự thay đổi đáng kể trong bối cảnh chính trị Nam Phi.
Ngoài ra, còn có nhiều đảng phái nhỏ khác đại diện cho các lợi ích và hệ tư tưởng khác nhau trong xã hội Nam Phi. Hệ thống đa đảng đảm bảo sự cạnh tranh chính trị và phản ánh sự đa dạng của đất nước.
4.4. Nhân quyền
Sau khi chế độ Apartheid chấm dứt vào năm 1994, Nam Phi đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện tình hình nhân quyền. Hiến pháp mới, được thông qua vào năm 1996, bao gồm một trong những Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights) toàn diện nhất trên thế giới, bảo vệ một loạt các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Tòa án Hiến pháp được thành lập và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền này.
- Những nỗ lực cải thiện:**
- Xóa bỏ luật pháp phân biệt chủng tộc:** Tất cả các luật lệ của chế độ Apartheid đã bị bãi bỏ, và các biện pháp đã được thực hiện để thúc đẩy bình đẳng chủng tộc.
- Thành lập các thể chế dân chủ:** Bao gồm Ủy ban Nhân quyền Nam Phi, Văn phòng Công tố viên, và Ủy ban Bình đẳng Giới, nhằm giám sát và thúc đẩy nhân quyền.
- Ủy ban Sự thật và Hòa giải:** Được thành lập để điều tra các vi phạm nhân quyền trong quá khứ và thúc đẩy hòa giải dân tộc, mặc dù hiệu quả và những hạn chế của nó vẫn là chủ đề tranh luận.
- Công nhận quyền của cộng đồng LGBT:** Nam Phi là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa lệnh cấm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục vào hiến pháp và là quốc gia thứ năm hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào năm 2006.
- Các vấn đề nhân quyền còn tồn tại:**
Mặc dù có những tiến bộ, Nam Phi vẫn đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng về nhân quyền:
- Bất bình đẳng kinh tế và xã hội:** Di sản của Apartheid tiếp tục gây ra sự bất bình đẳng sâu sắc về thu nhập, tài sản, cơ hội việc làm, giáo dục và tiếp cận các dịch vụ cơ bản giữa các nhóm chủng tộc và tầng lớp xã hội. Tỷ lệ nghèo đói và thất nghiệp vẫn ở mức cao, đặc biệt trong cộng đồng người da đen.
- Bạo lực và tội phạm:** Tỷ lệ tội phạm bạo lực, bao gồm giết người, cướp của và tấn công tình dục, vẫn ở mức báo động. Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng.
- Quyền của người thiểu số và nhóm dễ bị tổn thương:** Mặc dù có sự bảo vệ pháp lý, người di cư, người tị nạn, người xin tị nạn và các nhóm thiểu số khác vẫn thường xuyên phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bài ngoại (xenophobia). Các đợt bùng phát bạo lực chống người nước ngoài đã xảy ra nhiều lần.
- Tham nhũng và quản trị yếu kém:** Tham nhũng trong chính phủ và các cơ quan nhà nước làm suy yếu pháp quyền và cản trở việc cung cấp các dịch vụ công hiệu quả, ảnh hưởng tiêu cực đến quyền của người dân.
- Brutality của cảnh sát và điều kiện nhà tù:** Các báo cáo về việc cảnh sát sử dụng vũ lực quá mức và điều kiện khắc nghiệt trong các nhà tù vẫn còn phổ biến.
- Quyền đất đai:** Vấn đề cải cách ruộng đất và phân phối lại đất đai từ thời Apartheid vẫn chưa được giải quyết triệt để, gây ra căng thẳng xã hội.
- Hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự:**
Các tổ chức xã hội dân sự (CSOs) đóng một vai trò quan trọng trong việc giám sát, vận động và bảo vệ nhân quyền ở Nam Phi. Họ hoạt động trong nhiều lĩnh vực, từ cung cấp hỗ trợ pháp lý cho nạn nhân vi phạm nhân quyền, nghiên cứu và báo cáo về tình hình nhân quyền, đến vận động chính sách và nâng cao nhận thức cộng đồng. Sự năng động của xã hội dân sự là một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy trách nhiệm giải trình của chính phủ và bảo vệ các quyền hiến định.
5. Phân cấp hành chính
Nam Phi được chia thành chín tỉnh. Mỗi tỉnh có cơ quan lập pháp đơn viện riêng, được bầu 5 năm một lần theo hình thức đại diện theo tỷ lệ danh sách đảng. Cơ quan lập pháp bầu ra một Thủ hiến làm người đứng đầu chính phủ, và Thủ hiến bổ nhiệm một Hội đồng Điều hành làm nội các cấp tỉnh. Quyền hạn của chính quyền cấp tỉnh được giới hạn trong các chủ đề được liệt kê trong hiến pháp; các chủ đề này bao gồm các lĩnh vực như y tế, giáo dục, nhà ở công cộng và giao thông vận tải. Các tỉnh lại được chia thành 52 quận: 8 đô thị tự quản và 44 đô thị quận. Các đô thị quận lại được chia nhỏ thành 205 đô thị địa phương. Các đô thị tự quản, quản lý các vùng đô thị lớn nhất, thực hiện các chức năng của cả đô thị quận và đô thị địa phương.
5.1. Các tỉnh
Nam Phi được chia thành chín tỉnh. Mỗi tỉnh có những đặc điểm riêng về địa lý, dân số, kinh tế và văn hóa.
Tỉnh | Thủ phủ tỉnh | Thành phố lớn nhất | Diện tích (km2) | Dân số (2022) |
---|---|---|---|---|
Đông Cape | Bhisho | Gqeberha | 168.97 K km2 | 7.230.204 |
Free State | Bloemfontein | Bloemfontein | 129.82 K km2 | 2.964.412 |
Gauteng | Johannesburg | Johannesburg | 18.18 K km2 | 15.099.422 |
KwaZulu-Natal | Pietermaritzburg | Durban | 94.36 K km2 | 12.423.907 |
Limpopo | Polokwane | Polokwane | 125.75 K km2 | 6.572.720 |
Mpumalanga | Mbombela | Mbombela | 76.50 K km2 | 5.143.324 |
Tây Bắc | Mahikeng | Klerksdorp | 104.88 K km2 | 3.804.548 |
Bắc Cape | Kimberley | Kimberley | 372.89 K km2 | 1.355.946 |
Tây Cape | Cape Town | Cape Town | 129.46 K km2 | 7.433.019 |
- Đông Cape (Eastern Cape):**
- Vị trí: Bờ biển phía đông nam.
- Thủ phủ: Bhisho. Thành phố lớn nhất: Gqeberha (trước đây là Port Elizabeth).
- Đặc điểm: Có đường bờ biển dài, đa dạng về cảnh quan từ núi non đến thảo nguyên. Là nơi sinh của nhiều nhà lãnh đạo chống Apartheid nổi tiếng, bao gồm Nelson Mandela. Ngành công nghiệp chính bao gồm sản xuất ô tô, nông nghiệp và du lịch. Văn hóa Xhosa chiếm ưu thế.
- Free State:**
- Vị trí: Trung tâm Nam Phi.
- Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Bloemfontein (cũng là thủ đô tư pháp của Nam Phi).
- Đặc điểm: Chủ yếu là các đồng bằng rộng lớn, quan trọng cho nông nghiệp (ngô, lúa mì, chăn nuôi). Có trữ lượng vàng và kim cương. Văn hóa Sotho và Afrikaner có ảnh hưởng lớn.
- Gauteng:**
- Vị trí: Phía đông bắc, là tỉnh nhỏ nhất về diện tích nhưng đông dân nhất.
- Thủ phủ: Johannesburg (thành phố lớn nhất và trung tâm kinh tế của Nam Phi). Thành phố quan trọng khác: Pretoria (thủ đô hành chính của Nam Phi).
- Đặc điểm: Trung tâm kinh tế, tài chính và công nghiệp của đất nước. Ngành công nghiệp đa dạng bao gồm khai khoáng, sản xuất, dịch vụ. Có sự đa dạng văn hóa lớn do thu hút người dân từ khắp Nam Phi và châu Phi.
- KwaZulu-Natal:**
- Vị trí: Bờ biển phía đông, giáp Ấn Độ Dương.
- Thủ phủ: Pietermaritzburg. Thành phố lớn nhất: Durban (thành phố cảng quan trọng).
- Đặc điểm: Khí hậu cận nhiệt đới, có các bãi biển nổi tiếng và dãy núi Drakensberg. Ngành công nghiệp chính bao gồm du lịch, nông nghiệp (mía đường, trái cây nhiệt đới), sản xuất và vận tải biển. Là quê hương của người Zulu, với nền văn hóa Zulu phong phú và đặc sắc.
- Limpopo:**
- Vị trí: Cực bắc Nam Phi, giáp Botswana, Zimbabwe và Mozambique.
- Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Polokwane.
- Đặc điểm: Cảnh quan đa dạng từ vùng Bushveld đến các khu bảo tồn thiên nhiên (một phần của Vườn quốc gia Kruger nằm ở đây). Nông nghiệp (trái cây, rau quả, gia súc) và khai khoáng (bạch kim, than đá) là các ngành kinh tế chính. Có sự đa dạng về các nhóm dân tộc như Pedi, Tsonga và Venda.
- Mpumalanga:**
- Vị trí: Phía đông, giáp Eswatini và Mozambique.
- Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Mbombela (trước đây là Nelspruit).
- Đặc điểm: Nổi tiếng với các cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ như Blyde River Canyon và một phần của Vườn quốc gia Kruger. Ngành công nghiệp chính bao gồm khai khoáng (than đá là chủ yếu, đóng góp lớn vào sản lượng điện của đất nước), nông nghiệp (mía đường, trái cây cận nhiệt đới, lâm nghiệp) và du lịch.
- Bắc Cape (Northern Cape):**
- Vị trí: Phía tây bắc, là tỉnh lớn nhất về diện tích nhưng thưa dân nhất.
- Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Kimberley (nổi tiếng với lịch sử khai thác kim cương).
- Đặc điểm: Khí hậu khô cằn, phần lớn là sa mạc và bán sa mạc (Kalahari, Namaqualand). Nông nghiệp (chăn nuôi cừu, thủy lợi dọc sông Orange) và khai khoáng (kim cương, quặng sắt, mangan) là các ngành kinh tế chính. Nổi tiếng với những thảm hoa dại nở rộ vào mùa xuân ở Namaqualand.
- Tây Bắc (North West):**
- Vị trí: Phía bắc, giáp Botswana.
- Thủ phủ: Mahikeng. Thành phố lớn nhất: Klerksdorp.
- Đặc điểm: Vùng đất của các mỏ bạch kim lớn (Rustenburg). Nông nghiệp (ngô, hướng dương, chăn nuôi gia súc) cũng quan trọng. Có các khu nghỉ dưỡng và giải trí nổi tiếng như Sun City. Văn hóa Tswana chiếm ưu thế.
- Tây Cape (Western Cape):**
- Vị trí: Cực tây nam, giáp Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương.
- Thủ phủ và thành phố lớn nhất: Cape Town (thủ đô lập pháp của Nam Phi).
- Đặc điểm: Khí hậu Địa Trung Hải, nổi tiếng với ngành trồng nho và sản xuất rượu vang. Cảnh quan đa dạng bao gồm Núi Bàn, các bãi biển đẹp và vùng Fynbos độc đáo. Ngành công nghiệp chính bao gồm du lịch, nông nghiệp (rượu vang, trái cây), tài chính và dịch vụ. Có sự đa dạng văn hóa với cộng đồng người nói tiếng Afrikaans và tiếng Anh lớn.
5.2. Các thành phố chính
Nam Phi có nhiều thành phố lớn đóng vai trò quan trọng về kinh tế, chính trị và văn hóa.
- Johannesburg:
- Vị trí địa lý:** Nằm ở tỉnh Gauteng, trên vùng cao nguyên Highveld. Đây là thành phố lớn nhất Nam Phi và là một trong những thành phố lớn nhất châu Phi Hạ Sahara.
- Tầm quan trọng kinh tế:** Là trung tâm tài chính và kinh tế hàng đầu của Nam Phi và cả châu Phi. Nơi đặt trụ sở của Sở giao dịch chứng khoán Johannesburg (JSE), ngân hàng và nhiều tập đoàn lớn. Nền kinh tế đa dạng với các ngành khai khoáng (lịch sử gắn liền với cơn sốt vàng), sản xuất, dịch vụ tài chính, công nghệ thông tin và truyền thông.
- Bối cảnh lịch sử:** Được thành lập vào năm 1886 sau khi vàng được phát hiện, Johannesburg phát triển nhanh chóng từ một trại khai thác vàng thành một đô thị hiện đại. Thành phố này cũng là trung tâm của nhiều cuộc đấu tranh chính trị và xã hội trong lịch sử Nam Phi, bao gồm cả phong trào chống Apartheid.
- Đặc điểm văn hóa:** Là một thành phố đa văn hóa, thu hút người dân từ khắp Nam Phi và các quốc gia khác. Nơi đây có nhiều bảo tàng, phòng trưng bày nghệ thuật, nhà hát và các địa điểm giải trí sôi động. Soweto, một khu dân cư lớn ở phía tây nam Johannesburg, có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cuộc đấu tranh chống Apartheid.
- Cape Town:
- Vị trí địa lý:** Nằm ở tỉnh Tây Cape, bên bờ Đại Tây Dương, dưới chân Núi Bàn hùng vĩ. Đây là thành phố lâu đời nhất Nam Phi.
- Tầm quan trọng kinh tế:** Là một trung tâm kinh tế quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực du lịch, tài chính, bất động sản, công nghệ và nông nghiệp (bao gồm ngành công nghiệp rượu vang nổi tiếng thế giới). Cảng Cape Town là một cảng biển sầm uất.
- Bối cảnh lịch sử:** Được thành lập vào năm 1652 bởi Công ty Đông Ấn Hà Lan như một trạm dừng chân cho các tàu thuyền trên đường đến châu Á. Đây là nơi người châu Âu định cư đầu tiên ở Nam Phi. Cape Town là thủ đô lập pháp của Nam Phi, nơi đặt trụ sở của Quốc hội.
- Đặc điểm văn hóa:** Nổi tiếng với vẻ đẹp tự nhiên, kiến trúc lịch sử (bao gồm các tòa nhà kiểu Cape Dutch) và sự đa dạng văn hóa. Các điểm du lịch nổi tiếng bao gồm Núi Bàn, Đảo Robben (nơi Nelson Mandela bị giam giữ), Mũi Hảo Vọng và các bãi biển đẹp. Thành phố này có một di sản văn hóa phong phú từ người Khoisan bản địa, người châu Âu định cư và người Mã Lai Cape.
- Durban:
- Vị trí địa lý:** Nằm ở tỉnh KwaZulu-Natal, trên bờ biển Ấn Độ Dương. Đây là thành phố cảng lớn nhất và bận rộn nhất châu Phi.
- Tầm quan trọng kinh tế:** Là một trung tâm công nghiệp, thương mại và du lịch quan trọng. Cảng Durban đóng vai trò then chốt trong thương mại quốc tế của Nam Phi. Các ngành kinh tế chính bao gồm sản xuất, du lịch, vận tải và dịch vụ.
- Bối cảnh lịch sử:** Khu vực này ban đầu là nơi sinh sống của người Zulu. Thành phố được đặt theo tên của Thống đốc Thuộc địa Cape, Sir Benjamin D'Urban, vào năm 1835. Durban có một cộng đồng người gốc Ấn lớn, hậu duệ của những người lao động được đưa đến đây để làm việc trong các đồn điền mía đường vào thế kỷ 19.
- Đặc điểm văn hóa:** Nổi tiếng với khí hậu cận nhiệt đới ấm áp, các bãi biển nổi tiếng (Golden Mile) và sự pha trộn văn hóa độc đáo giữa người Zulu, người Ấn Độ và người châu Âu. Ẩm thực Durban đặc biệt phong phú với các món cà ri và hải sản.
- Pretoria:
- Vị trí địa lý:** Nằm ở phía bắc tỉnh Gauteng, trong một thung lũng ấm áp và được che chở.
- Tầm quan trọng kinh tế và chính trị:** Là thủ đô hành chính của Nam Phi, nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang (Union Buildings), các bộ ngành và các đại sứ quán nước ngoài. Pretoria cũng là một trung tâm công nghiệp và giáo dục quan trọng.
- Bối cảnh lịch sử:** Được thành lập vào năm 1855 và được đặt theo tên của nhà lãnh đạo Voortrekker Andries Pretorius. Pretoria từng là thủ đô của Cộng hòa Transvaal (Nam Phi) của người Boer. Thành phố này đóng vai trò trung tâm trong nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, bao gồm cả việc kết thúc Chiến tranh Boer.
- Đặc điểm văn hóa:** Nổi tiếng với những hàng cây phượng tím (jacaranda) nở rộ vào mùa xuân. Có nhiều di tích lịch sử, bảo tàng và các tòa nhà chính phủ mang tính biểu tượng. Pretoria là một trung tâm học thuật với nhiều trường đại học, bao gồm Đại học Pretoria và Đại học Nam Phi (UNISA).
Các thành phố này, cùng với nhiều đô thị khác, tạo nên bộ mặt đa dạng và năng động của Nam Phi hiện đại, mỗi nơi đều có những đóng góp riêng vào sự phát triển chung của đất nước.
6. Quan hệ đối ngoại

Sau khi chế độ Apartheid chấm dứt vào năm 1994, Nam Phi đã tái hòa nhập cộng đồng quốc tế và nhanh chóng thiết lập lại các mối quan hệ ngoại giao. Chính sách đối ngoại của Nam Phi thời hậu Apartheid tập trung vào việc thúc đẩy dân chủ, nhân quyền, hòa bình và phát triển bền vững, đặc biệt là ở châu Phi.
- Chủ trương chính sách đối ngoại:**
- Chủ nghĩa đa phương:** Nam Phi ủng hộ mạnh mẽ vai trò của các tổ chức quốc tế và khu vực trong việc giải quyết các vấnDEA toàn cầu.
- Ưu tiên châu Phi (African Agenda):** Nam Phi coi việc thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển ở châu Phi là một ưu tiên hàng đầu. Nước này đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết xung đột và xây dựng năng lực cho các quốc gia châu Phi khác.
- Hợp tác Nam-Nam:** Nam Phi tăng cường quan hệ với các nước đang phát triển khác ở châu Á, Mỹ Latinh và các khu vực khác.
- Thúc đẩy nhân quyền và dân chủ:** Nam Phi cam kết thúc đẩy các giá trị này trên trường quốc tế, dựa trên kinh nghiệm lịch sử của chính mình.
- Hoạt động trong các tổ chức quốc tế:**
- Liên Hợp Quốc (UN):** Nam Phi là một thành viên tích cực của LHQ và các cơ quan chuyên môn của tổ chức này. Nước này đã từng là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ.
- Liên minh châu Phi (AU):** Nam Phi là một trong những thành viên sáng lập và đóng vai trò chủ chốt trong AU, thúc đẩy các sáng kiến như Đối tác mới vì sự Phát triển của châu Phi (NEPAD).
- Khối Thịnh vượng chung (Commonwealth of Nations):** Nam Phi tái gia nhập Khối Thịnh vượng chung vào năm 1994.
- G20:** Nam Phi là quốc gia châu Phi duy nhất là thành viên của G20, diễn đàn của các nền kinh tế lớn nhất thế giới.
- BRICS:** Nam Phi gia nhập nhóm các nền kinh tế mới nổi lớn (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc) vào năm 2010, tạo thành khối BRICS. Nhóm này nhằm tăng cường hợp tác kinh tế và chính trị giữa các thành viên.
- Cộng đồng Phát triển Nam Phi (SADC):** Nam Phi là một thành viên quan trọng của SADC, thúc đẩy hội nhập kinh tế và hợp tác khu vực ở miền Nam châu Phi.
- Vùng Hòa bình và Hợp tác Nam Đại Tây Dương (South Atlantic Peace and Cooperation Zone - ZPCAS)**
- Liên minh Hải quan Nam Phi (Southern African Customs Union - SACU)**
- Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực (Antarctic Treaty System)**
- Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)**
- Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)**
- Quan hệ với các nước châu Phi láng giềng và các đối tác thương mại chính:**
Nam Phi duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các nước láng giềng ở miền Nam châu Phi, nhiều nước trong số đó có sự phụ thuộc kinh tế vào Nam Phi. Nước này đóng vai trò trung gian hòa giải trong nhiều cuộc xung đột ở châu Phi, như ở Burundi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Comoros, và Zimbabwe, mặc dù đôi khi vai trò này cũng gây tranh cãi.
Các đối tác thương mại chính của Nam Phi bao gồm Trung Quốc, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Vương quốc Anh. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nam Phi.- Vai trò trong thúc đẩy hòa bình và nhân quyền khu vực:**
Nam Phi thường xuyên lên tiếng ủng hộ nhân quyền và dân chủ trên trường quốc tế. Nước này đã tích cực tham gia vào các nỗ lực gìn giữ hòa bình ở châu Phi, cả thông qua LHQ và AU. Kinh nghiệm của Nam Phi trong việc chuyển đổi từ chế độ Apartheid sang dân chủ một cách hòa bình thường được coi là một mô hình cho các quốc gia khác đang đối mặt với xung đột. Tuy nhiên, chính sách đối ngoại của Nam Phi đôi khi cũng bị chỉ trích là không nhất quán hoặc ưu tiên lợi ích kinh tế hơn các giá trị nhân quyền trong một số trường hợp cụ thể. Gần đây, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế cáo buộc nước này phạm tội diệt chủng ở Gaza, một động thái gây chú ý và tranh cãi trên trường quốc tế.
7. Quân sự


Lực lượng Phòng vệ Quốc gia Nam Phi (SANDF) được thành lập vào năm 1994 sau khi chế độ Apartheid chấm dứt. SANDF là sự hợp nhất của Lực lượng Phòng vệ Nam Phi (SADF) cũ (lực lượng quân sự của chính quyền Apartheid) và lực lượng vũ trang của các phong trào giải phóng dân tộc như Umkhonto we Sizwe (MK) của Đại hội Dân tộc Phi (ANC) và Quân đội Giải phóng Nhân dân Azania (APLA) của Đại hội Liên Phi Azania (PAC), cùng với lực lượng phòng vệ của các Bantustan cũ.
SANDF bao gồm bốn quân chủng chính:
- Lục quân Nam Phi (South African Army):** Chịu trách nhiệm tác chiến trên bộ, bảo vệ lãnh thổ và biên giới quốc gia. Đây là quân chủng lớn nhất của SANDF.
- Không quân Nam Phi (South African Air Force - SAAF):** Chịu trách nhiệm bảo vệ không phận, hỗ trợ các hoạt động trên bộ và trên biển, cũng như các nhiệm vụ vận tải và trinh sát. SAAF vận hành nhiều loại máy bay, bao gồm máy bay chiến đấu, trực thăng và máy bay vận tải.
- Hải quân Nam Phi (South African Navy - SAN):** Chịu trách nhiệm bảo vệ vùng biển và lợi ích hàng hải của Nam Phi, bao gồm các tuyến đường thương mại và tài nguyên biển. Hải quân vận hành các tàu chiến, tàu ngầm và tàu hỗ trợ.
- Quân y Nam Phi (South African Military Health Service - SAMHS):** Cung cấp dịch vụ y tế toàn diện cho các thành viên SANDF và gia đình họ, cũng như hỗ trợ trong các hoạt động nhân đạo và gìn giữ hòa bình.
- Các nhiệm vụ chính của SANDF:**
Tính đến năm 2019, SANDF có khoảng 75.000 quân nhân chuyên nghiệp. Ngân sách quốc phòng của Nam Phi đã giảm trong những năm gần đây do không có mối đe dọa quân sự bên ngoài trực tiếp. Năm 2022, chi tiêu quốc phòng của nước này là khoảng 3.07 B USD, tương đương khoảng 0.86% GDP.
Trong những năm gần đây, SANDF đã trở thành một lực lượng gìn giữ hòa bình quan trọng ở châu Phi và đã tham gia vào các hoạt động ở Lesotho, Cộng hòa Dân chủ Congo, Burundi và các nơi khác. Lực lượng này cũng phục vụ trong các lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia của Liên Hợp Quốc như Lữ đoàn Can thiệp Lực lượng Liên Hợp Quốc.
Công nghiệp quốc phòng Nam Phi là ngành công nghiệp tiên tiến nhất trên lục địa châu Phi và là một trong những ngành tiên tiến nhất trên thế giới. Tính đến năm 2020, Nam Phi là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ 24 thế giới, quốc gia duy nhất ở châu Phi. Ngành công nghiệp quân sự bao gồm một số công ty chủ chốt chuyên về các khía cạnh khác nhau của sản xuất quân sự, từ hàng không vũ trụ và đóng tàu đến xe bọc thép và hệ thống vũ khí cũng như hệ thống tên lửa và radar. Một số công ty chính trong đổi mới quân sự Nam Phi bao gồm Armscor, Denel, Paramount Group, Milkor, Sandock-Austral và BAE Systems South Africa.
7.1. Chương trình vũ khí hạt nhân
Nam Phi là quốc gia châu Phi duy nhất đã phát triển thành công vũ khí hạt nhân. Nước này đã thực hiện một chương trình vũ khí hạt nhân trong những năm 1970, được cho là đã tiến hành một vụ thử hạt nhân trên Đại Tây Dương vào năm 1979 (sự kiện này được gọi là Sự cố Vela), mặc dù điều này bị chính phủ Nam Phi chính thức phủ nhận. Tổng cộng sáu thiết bị hạt nhân đã được hoàn thành từ năm 1980 đến năm 1990.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990, trước sự sụp đổ của chế độ Apartheid và quá trình chuyển đổi sang dân chủ, chính phủ Nam Phi dưới sự lãnh đạo của Tổng thống F.W. de Klerk đã đưa ra một quyết định lịch sử. Nam Phi đã tự nguyện từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân của mình và cho tháo dỡ toàn bộ sáu quả bom hạt nhân đã chế tạo. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh thay đổi chính trị trong nước và quốc tế, bao gồm cả việc kết thúc Chiến tranh Lạnh và áp lực từ cộng đồng quốc tế. De Klerk tuyên bố rằng Nam Phi "chưa bao giờ tiến hành một vụ thử hạt nhân bí mật".
Năm 1991, Nam Phi đã ký Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) với tư cách là một quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân. Hành động tự nguyện từ bỏ vũ khí hạt nhân của Nam Phi là một sự kiện độc nhất vô nhị trong lịch sử, khiến nước này trở thành quốc gia đầu tiên (và cho đến nay là duy nhất) đã tự phát triển vũ khí hạt nhân rồi sau đó tự nguyện từ bỏ chúng hoàn toàn. Năm 2017, Nam Phi đã ký Hiệp ước của Liên Hợp Quốc về Cấm Vũ khí Hạt nhân.
7.2. Các công ty quân sự tư nhân
Nam Phi có một lịch sử đáng chú ý liên quan đến các công ty quân sự tư nhân (PMC), đặc biệt là trong giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ Apartheid sang dân chủ và những năm sau đó.
- Bối cảnh ra đời:**
Sự ra đời của các PMC ở Nam Phi gắn liền với nhiều yếu tố:
- Kết thúc Chiến tranh Lạnh và giảm biên chế quân đội:** Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc và chế độ Apartheid sụp đổ, Lực lượng Phòng vệ Nam Phi (SADF) cũ đã trải qua quá trình tái cấu trúc và giảm biên chế đáng kể. Nhiều quân nhân được đào tạo bài bản, bao gồm cả các thành viên của các đơn vị đặc nhiệm tinh nhuệ, bị mất việc làm.
- Xung đột ở châu Phi:** Trong những năm 1990, nhiều cuộc xung đột vũ trang đã nổ ra ở các quốc gia châu Phi khác, tạo ra nhu cầu về các dịch vụ an ninh và quân sự mà các đội quân quốc gia hoặc lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế không phải lúc nào cũng đáp ứng được.
- Kinh nghiệm quân sự:** Các cựu quân nhân Nam Phi có nhiều kinh nghiệm chiến đấu từ các cuộc xung đột trong khu vực (ví dụ: Chiến tranh Biên giới Nam Phi ở Angola và Namibia) và các hoạt động nội bộ trong thời kỳ Apartheid.
- Lĩnh vực hoạt động:**
Các PMC của Nam Phi đã tham gia vào một loạt các hoạt động, cả trong nước và quốc tế:
- An ninh và bảo vệ:** Cung cấp dịch vụ bảo vệ cho các cá nhân, tập đoàn (đặc biệt là các công ty khai khoáng hoạt động ở các khu vực có rủi ro cao) và các cơ sở hạ tầng quan trọng.
- Huấn luyện quân sự và cảnh sát:** Đào tạo lực lượng vũ trang và cảnh sát cho các chính phủ nước ngoài.
- Hỗ trợ hậu cần và kỹ thuật:** Cung cấp các dịch vụ hậu cần, bảo trì thiết bị quân sự và các hỗ trợ kỹ thuật khác.
- Tham gia trực tiếp vào xung đột:** Một số PMC, nổi tiếng nhất là Executive Outcomes (EO), đã tham gia trực tiếp vào các cuộc nội chiến ở Angola và Sierra Leone trong những năm 1990, hỗ trợ các chính phủ chống lại các nhóm nổi dậy. EO đã đạt được những thành công quân sự đáng kể nhưng cũng gây ra nhiều tranh cãi về vai trò của các công ty quân sự tư nhân trong chiến tranh.
- Chống cướp biển:** Cung cấp dịch vụ an ninh hàng hải để bảo vệ tàu thuyền khỏi các cuộc tấn công của cướp biển.
- Hoạt động tình báo và thu thập thông tin.**
- Ảnh hưởng trong nước và quốc tế:**
- Trong nước:** Sự phát triển của các PMC đã tạo ra cơ hội việc làm cho các cựu quân nhân nhưng cũng đặt ra những lo ngại về việc tư nhân hóa chiến tranh và khả năng các công ty này hoạt động ngoài vòng kiểm soát của nhà nước. Chính phủ Nam Phi đã thông qua luật để điều chỉnh hoạt động của các PMC, chẳng hạn như Đạo luật Hỗ trợ Quân sự Nước ngoài (Regulation of Foreign Military Assistance Act) năm 1998, nhằm kiểm soát việc công dân Nam Phi tham gia vào các cuộc xung đột ở nước ngoài.
- Quốc tế:** Các PMC của Nam Phi đã có ảnh hưởng đáng kể đến một số cuộc xung đột ở châu Phi. Hoạt động của họ đã làm dấy lên các cuộc tranh luận quốc tế về tính hợp pháp, đạo đức và trách nhiệm giải trình của các công ty quân sự tư nhân. Trong khi một số người cho rằng PMC có thể cung cấp các dịch vụ an ninh hiệu quả ở những nơi mà các lực lượng quốc tế không thể hoặc không muốn can thiệp, những người khác lại lo ngại về việc thiếu sự giám sát, khả năng vi phạm nhân quyền và tác động của họ đến chủ quyền quốc gia.
Ngày nay, ngành công nghiệp PMC ở Nam Phi vẫn tiếp tục hoạt động, mặc dù có sự điều chỉnh chặt chẽ hơn từ chính phủ. Nhiều công ty tập trung hơn vào các dịch vụ an ninh và huấn luyện ít mang tính chiến đấu trực tiếp hơn so với thời kỳ đỉnh cao của Executive Outcomes.
8. Kinh tế

Nam Phi có một nền kinh tế hỗn hợp. Kinh tế của nước này là nền kinh tế lớn nhất, tiên tiến nhất về công nghệ và công nghiệp hóa nhất châu Phi. Nước này cũng có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người tương đối cao so với các nước khác ở châu Phi Hạ Sahara, đạt 16.08 K USD theo sức mua tương đương tính đến năm 2023, xếp thứ 95. Tuy nhiên, Nam Phi vẫn đang phải vật lộn với tỷ lệ nghèo đói và thất nghiệp tương đối cao và được xếp vào top 10 quốc gia trên thế giới về bất bình đẳng thu nhập, được đo bằng hệ số Gini.
Nam Phi được xếp hạng thứ 40 theo tổng tài sản, trở thành quốc gia giàu có thứ hai ở châu Phi. Về tài sản tư nhân, Nam Phi có tài sản tư nhân là 651.00 B USD, khiến dân số Nam Phi trở thành những người giàu nhất châu Phi, tiếp theo là Ai Cập với 307.00 B USD và Nigeria với 228.00 B USD.
Khoảng 55,5% (30,3 triệu người) dân số đang sống trong cảnh nghèo đói theo ngưỡng nghèo quốc gia trên, trong khi tổng cộng 13,8 triệu người (25% dân số) đang phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực.
Năm 2015, 71% tài sản ròng do 10% dân số nắm giữ, trong khi 60% dân số chỉ nắm giữ 7% tài sản ròng, và hệ số Gini là 0,63, trong khi năm 1996 là 0,61.
Không giống như hầu hết các nước nghèo trên thế giới, Nam Phi không có một nền kinh tế phi chính thức phát triển mạnh. Chỉ 15% việc làm ở Nam Phi thuộc khu vực phi chính thức, so với khoảng một nửa ở Brasil và Ấn Độ và gần ba phần tư ở Indonesia. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho rằng sự khác biệt này là do hệ thống phúc lợi xã hội rộng khắp của Nam Phi. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy Nam Phi có một trong những khoảng cách lớn nhất giữa GDP bình quân đầu người so với thứ hạng Chỉ số Phát triển Con người của mình, chỉ có Botswana cho thấy khoảng cách lớn hơn.

Sau năm 1994, chính sách của chính phủ đã hạ thấp lạm phát, ổn định tài chính công và thu hút được một số vốn nước ngoài; tuy nhiên, tăng trưởng vẫn thấp hơn kỳ vọng. Từ năm 2004 trở đi, tăng trưởng kinh tế đã tăng tốc đáng kể; cả việc làm và hình thành vốn đều tăng. Dưới thời tổng thống Jacob Zuma, chính phủ đã tăng cường vai trò của các doanh nghiệp nhà nước (SOE). Một số SOE lớn nhất là Eskom, độc quyền điện lực, South African Airways (SAA), và Transnet, độc quyền đường sắt và cảng biển. Một số SOE này không có lãi, chẳng hạn như SAA, đã yêu cầu các gói cứu trợ tổng cộng 30.00 B ZAR trong 20 năm trước năm 2015.
Các đối tác thương mại quốc tế chính của Nam Phi-ngoài các nước châu Phi khác-bao gồm Đức, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh và Tây Ban Nha. Chỉ số Bí mật Tài chính năm 2020 xếp Nam Phi là thiên đường thuế an toàn thứ 58 trên thế giới.
Ngành nông nghiệp Nam Phi đóng góp khoảng 10% việc làm chính thức, tương đối thấp so với các khu vực khác ở châu Phi, cũng như cung cấp việc làm cho lao động thời vụ và đóng góp khoảng 2,6% GDP cho quốc gia. Do đất đai khô cằn, chỉ 13,5% diện tích có thể được sử dụng để trồng trọt, và chỉ 3% được coi là đất có tiềm năng cao.
Tháng 8 năm 2013, Nam Phi được fDi Intelligence xếp hạng là Quốc gia châu Phi hàng đầu của tương lai dựa trên tiềm năng kinh tế, môi trường lao động, hiệu quả chi phí, cơ sở hạ tầng, sự thân thiện với doanh nghiệp và chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài.
8.1. Các ngành kinh tế chính
Nền kinh tế Nam Phi đa dạng và có một số ngành chủ chốt đóng góp đáng kể vào GDP và việc làm. Tuy nhiên, các ngành này cũng đối mặt với những thách thức về tác động xã hội và môi trường.
- Khai khoáng (Mining):**
- Đặc điểm:** Nam Phi có nguồn tài nguyên khoáng sản vô cùng phong phú và đa dạng. Đây là một trong những nhà sản xuất hàng đầu thế giới về vàng, kim cương, bạch kim (platinum group metals - PGMs), than đá, quặng sắt, mangan, crom, vanadi và nhiều loại khoáng sản khác. Ngành khai khoáng có lịch sử lâu đời và đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển công nghiệp của đất nước.
- Tình hình sản xuất:** Sản lượng vàng đã giảm so với thời kỳ đỉnh cao nhưng Nam Phi vẫn là một nhà sản xuất vàng quan trọng. Nước này là nhà sản xuất bạch kim và crom lớn nhất thế giới. Ngành than đá cung cấp phần lớn năng lượng cho sản xuất điện trong nước và cũng là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng.
- Đóng góp kinh tế:** Ngành khai khoáng đóng góp một tỷ lệ đáng kể vào GDP và là một nguồn thu ngoại tệ quan trọng thông qua xuất khẩu. Nó cũng tạo ra nhiều việc làm, mặc dù số lượng việc làm đã giảm trong những năm gần đây do tự động hóa và các yếu tố khác.
- Tác động xã hội và môi trường:** Ngành khai khoáng thường xuyên đối mặt với các vấn đề về điều kiện lao động, an toàn và sức khỏe của công nhân. Các cuộc đình công và tranh chấp lao động không phải là hiếm. Về môi trường, khai khoáng gây ra các vấn đề như ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, suy thoái đất đai và phá hủy cảnh quan. Việc phục hồi môi trường sau khai thác là một thách thức lớn. Các cộng đồng địa phương thường bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai khoáng, bao gồm cả việc di dời và mất đất đai.
- Sản xuất chế tạo (Manufacturing):**
- Đặc điểm:** Ngành sản xuất chế tạo của Nam Phi khá đa dạng, bao gồm sản xuất ô tô, hóa chất, sản phẩm kim loại, máy móc thiết bị, dệt may, thực phẩm và đồ uống. Ngành sản xuất ô tô đặc biệt phát triển và hướng tới xuất khẩu.
- Tình hình sản xuất:** Ngành này đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước có chi phí sản xuất thấp hơn và những thách thức về cơ sở hạ tầng (đặc biệt là nguồn cung cấp điện không ổn định).
- Đóng góp kinh tế:** Đóng góp đáng kể vào GDP và việc làm.
- Tác động xã hội và môi trường:** Tạo ra việc làm nhưng cũng có thể gây ô nhiễm môi trường nếu không được quản lý tốt. Chính phủ đang thúc đẩy các chính sách công nghiệp hóa bền vững và "sản xuất xanh".
- Nông nghiệp (Agriculture):**
- Đặc điểm:** Nam Phi có ngành nông nghiệp đa dạng, từ các trang trại thương mại quy mô lớn đến các hộ nông dân nhỏ lẻ. Các sản phẩm chính bao gồm ngô, lúa mì, mía đường, trái cây (cam, nho, táo, lê), rau quả, thịt gia súc, gia cầm và rượu vang. Ngành rượu vang của Nam Phi nổi tiếng thế giới.
- Tình hình sản xuất:** Nông nghiệp chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (hạn hán, lũ lụt), vấn đề cải cách ruộng đất và tiếp cận thị trường.
- Đóng góp kinh tế:** Đóng góp một phần nhỏ hơn vào GDP so với khai khoáng và sản xuất, nhưng vẫn quan trọng đối với an ninh lương thực và việc làm ở nông thôn.
- Tác động xã hội và môi trường:** Vấn đề cải cách ruộng đất và quyền sở hữu đất đai vẫn là một vấn đề nhạy cảm và gây tranh cãi. Nông nghiệp có thể gây ra các vấn đề về sử dụng nước, xói mòn đất và ô nhiễm thuốc trừ sâu nếu không được quản lý bền vững.
- Tài chính và Dịch vụ (Finance and Services):**
- Đặc điểm:** Ngành tài chính của Nam Phi phát triển và tinh vi, với các ngân hàng lớn, công ty bảo hiểm và thị trường chứng khoán (JSE Limited) hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế. Các dịch vụ khác bao gồm bán lẻ, du lịch, viễn thông, vận tải và dịch vụ kinh doanh.
- Tình hình sản xuất:** Đây là ngành đóng góp lớn nhất vào GDP của Nam Phi.
- Đóng góp kinh tế:** Tạo ra nhiều việc làm có kỹ năng cao và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Tác động xã hội và môi trường:** Ngành dịch vụ có tác động môi trường trực tiếp ít hơn so với các ngành công nghiệp nặng, nhưng vẫn cần xem xét các khía cạnh như tiêu thụ năng lượng và quản lý chất thải. Bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ tài chính vẫn là một thách thức.
Việc cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là một trong những thách thức lớn nhất đối với các ngành kinh tế chủ chốt của Nam Phi. Chính phủ và các bên liên quan đang nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để đảm bảo sự phát triển bền vững và bao trùm hơn.
8.2. Du lịch
Nam Phi là một điểm đến du lịch hấp dẫn với sự đa dạng về tài nguyên tự nhiên và văn hóa. Ngành du lịch đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế đất nước, tạo ra việc làm và thu hút ngoại tệ.
- Tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa phong phú:**
- Thiên nhiên hoang dã và các khu bảo tồn:** Nam Phi nổi tiếng với các công viên quốc gia và khu bảo tồn động vật hoang dã, nơi du khách có thể trải nghiệm các chuyến đi săn ảnh (safari) để ngắm nhìn "Big Five" (sư tử, voi, trâu rừng, báo hoa mai, tê giác) và nhiều loài động vật khác trong môi trường sống tự nhiên của chúng. Vườn quốc gia Kruger là một trong những khu bảo tồn lớn nhất và nổi tiếng nhất châu Phi.
- Cảnh quan đa dạng:** Từ những bãi biển đẹp dọc theo bờ biển Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, những dãy núi hùng vĩ như Drakensberg, đến các vùng bán sa mạc độc đáo như Karoo và Kalahari, và những cánh đồng hoa dại rực rỡ ở Namaqualand. Garden Route là một cung đường ven biển nổi tiếng với cảnh quan tươi đẹp.
- Di sản văn hóa và lịch sử:** Nam Phi có một lịch sử phong phú và phức tạp, được thể hiện qua các địa điểm lịch sử, bảo tàng và di tích. Đảo Robben, nơi Nelson Mandela bị giam giữ, là một Di sản Thế giới của UNESCO. Các thành phố như Cape Town và Johannesburg có nhiều công trình kiến trúc lịch sử và các khu phố mang đậm dấu ấn văn hóa. Cái nôi của Nhân loại là một Di sản Thế giới khác, nơi lưu giữ các hóa thạch cổ xưa của loài người.
- Văn hóa đa dạng:** "Quốc gia Cầu vồng" mang đến cho du khách cơ hội trải nghiệm sự đa dạng về ẩm thực, âm nhạc, nghệ thuật và lễ hội của các nhóm dân tộc khác nhau.
- Hoạt động phiêu lưu:** Nam Phi cung cấp nhiều hoạt động mạo hiểm như lặn với cá mập, leo núi, đi bộ đường dài, lướt sóng và nhảy bungee.
- Các điểm du lịch chính:**
- Tình hình ngành du lịch và những đóng góp kinh tế:**
Ngành du lịch là một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất ở Nam Phi và được chính phủ xác định là một lĩnh vực ưu tiên để tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Nó đóng góp một tỷ lệ đáng kể vào GDP và tạo ra hàng triệu việc làm trực tiếp và gián tiếp. Nam Phi thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm châu Âu, Bắc Mỹ, châu Á và các nước châu Phi khác.
Chính phủ và các tổ chức du lịch đang nỗ lực quảng bá Nam Phi như một điểm đến an toàn, thân thiện và đa dạng, đồng thời giải quyết các thách thức như vấn đề an ninh và cơ sở hạ tầng. Phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng địa phương và bảo vệ môi trường, cũng là một mục tiêu quan trọng.
Tuy nhiên, ngành du lịch cũng dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế toàn cầu, các vấn đề về sức khỏe cộng đồng (như đại dịch COVID-19 đã gây tác động nặng nề) và nhận thức về an ninh.
8.3. Năng lượng

Nam Phi có một ngành năng lượng lớn và hiện là quốc gia duy nhất trên lục địa châu Phi sở hữu một nhà máy điện hạt nhân. Quốc gia này là nhà sản xuất điện lớn nhất trên lục địa châu Phi và đứng thứ 21 trên toàn cầu. Nam Phi là nhà sản xuất than đá lớn thứ 7 thế giới và sản xuất hơn 248 triệu tấn than đá và tiêu thụ gần ba phần tư lượng đó trong nước. Khoảng 77% nhu cầu năng lượng của Nam Phi trực tiếp bắt nguồn từ than đá và 92% than đá tiêu thụ trên lục địa châu Phi được khai thác ở Nam Phi. Nam Phi cũng là nước phát thải khí nhà kính lớn thứ 14 trên thế giới.
Nhà sản xuất điện chính của đất nước là Eskom, công ty tiện ích này là nhà sản xuất điện lớn nhất ở châu Phi, và nằm trong số bảy công ty tiện ích hàng đầu thế giới về công suất phát điện và nằm trong số chín công ty hàng đầu về doanh số bán hàng. Đây là công ty lớn nhất trong số các doanh nghiệp nhà nước của Nam Phi. Eskom tạo ra khoảng 95% điện năng ở Nam Phi và vận hành một số nhà máy điện đáng chú ý, bao gồm Nhà máy điện hạt nhân Koeberg ở Cape Town, nhà máy điện hạt nhân duy nhất ở châu Phi, Nhà máy điện Kendal, nhà máy điện làm mát bằng không khí lớn nhất thế giới, cũng như Nhà máy điện Duvha đã trở thành nhà máy điện đầu tiên trên thế giới được trang bị thêm các nhà máy lọc vải xung phản lực. Năm 2001, Eskom được vinh danh là công ty điện lực tốt nhất trên toàn thế giới.
- Chính sách năng lượng:**
Chính sách năng lượng của Nam Phi đang dần chuyển hướng sang việc đa dạng hóa các nguồn năng lượng và giảm sự phụ thuộc vào than đá. Điều này bao gồm các mục tiêu tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và cải thiện hiệu quả năng lượng. Kế hoạch Tài nguyên Tích hợp (Integrated Resource Plan - IRP) là văn bản chính sách định hướng cho sự phát triển của ngành điện.
- Nỗ lực phát triển năng lượng tái tạo:**
Nam Phi có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời và năng lượng gió. Chính phủ đã triển khai Chương trình Mua sắm Năng lượng Tái tạo của các Nhà sản xuất Điện Độc lập (Renewable Energy Independent Power Producer Procurement Programme - REIPPPP), một chương trình đấu thầu cạnh tranh đã thu hút đầu tư đáng kể vào các dự án năng lượng tái tạo. Nhiều trang trại điện gió và điện mặt trời quy mô lớn đã được xây dựng và hòa vào lưới điện quốc gia.
- Các vấn đề liên quan:**
- Tác động môi trường của than đá:** Sự phụ thuộc nặng nề vào than đá gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng và đóng góp lớn vào lượng phát thải khí nhà kính của Nam Phi.
- An ninh năng lượng:** Khả năng cung cấp điện không ổn định (xem phần Khủng hoảng năng lượng) là một thách thức lớn.
- Chi phí năng lượng:** Giá điện tăng đã ảnh hưởng đến các hộ gia đình và doanh nghiệp.
- Chuyển đổi công bằng (Just Transition):** Việc chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào than đá sang các nguồn năng lượng sạch hơn đặt ra những thách thức xã hội và kinh tế, đặc biệt là đối với các cộng đồng phụ thuộc vào ngành công nghiệp than đá. Chính phủ đang tìm cách đảm bảo một quá trình chuyển đổi công bằng, giảm thiểu tác động tiêu cực đến việc làm và sinh kế.
8.3.1. Khủng hoảng năng lượng
Nhà máy điện Kusile được xây dựng để đối phó với khủng hoảng năng lượng. Khi hoạt động hết công suất, nó sẽ là nhà máy điện than đá lớn thứ 4 thế giới. Nam Phi đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng năng lượng kéo dài trong nhiều năm, đặc trưng bởi tình trạng thiếu điện kinh niên và việc thực hiện cắt điện luân phiên (loadshedding) trên diện rộng. Tình trạng này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân và hoạt động kinh tế của đất nước.
- Nguyên nhân của tình trạng thiếu điện kinh niên:**
- Thiếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng phát điện mới:** Trong nhiều năm, việc đầu tư vào xây dựng các nhà máy điện mới không theo kịp với tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện.
- Bảo trì kém và tuổi thọ của các nhà máy điện than hiện có:** Nhiều nhà máy điện than của Eskom (công ty điện lực nhà nước) đã cũ kỹ, hoạt động kém hiệu quả và thường xuyên gặp sự cố do thiếu kinh phí và kế hoạch bảo trì không đầy đủ.
- Vấn đề quản lý và tham nhũng tại Eskom:** Eskom đã phải đối mặt với các cáo buộc về quản lý yếu kém, tham nhũng và các vấn đề tài chính nghiêm trọng, làm suy yếu khả năng vận hành và đầu tư của công ty. Công ty này nợ 392.00 B ZAR (tương đương 22.00 B USD) và không thể đáp ứng nhu cầu của lưới điện Nam Phi.
- Chất lượng than đá:** Chất lượng than cung cấp cho các nhà máy điện đôi khi không đảm bảo, gây ảnh hưởng đến hiệu suất và tuổi thọ của thiết bị.
- Các yếu tố bên ngoài:** Các yếu tố như đình công trong ngành than hoặc vận tải, và các vấn đề kỹ thuật không lường trước cũng góp phần vào tình trạng thiếu điện.
- Trộm cắp và phá hoại:** Các hành vi trộm cắp cáp điện, phá hoại thiết bị tại các nhà máy điện và trạm biến áp của Eskom cũng là một vấn đề đáng kể, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng năng lượng.
- Tác động kinh tế-xã hội:**
- Kinh tế:** Việc cắt điện luân phiên gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, làm gián đoạn sản xuất, giảm năng suất, tăng chi phí vận hành cho doanh nghiệp (do phải sử dụng máy phát điện diesel đắt đỏ) và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đặc biệt bị ảnh hưởng nặng nề.
- Xã hội:** Đời sống hàng ngày của người dân bị đảo lộn, ảnh hưởng đến sinh hoạt, học tập và các dịch vụ công cộng như bệnh viện, trường học. Tình trạng mất điện cũng làm gia tăng các vấn đề về an ninh và an toàn. Sự bất bình trong dân chúng ngày càng tăng do tình trạng thiếu điện kéo dài.
- Nỗ lực giải quyết của chính phủ và các cơ quan liên quan:**
Chính phủ và Eskom đã thực hiện nhiều biện pháp để giải quyết khủng hoảng năng lượng, mặc dù kết quả vẫn còn hạn chế và tình trạng cắt điện vẫn tiếp diễn:
- Cải thiện bảo trì tại các nhà máy điện hiện có.**
- Đẩy nhanh việc đưa vào vận hành các nhà máy điện mới:** Các dự án nhà máy điện than lớn như Medupi và Kusile đã được triển khai, nhưng gặp nhiều trì hoãn và vượt chi phí.
- Thúc đẩy năng lượng tái tạo:** Chương trình Mua sắm Năng lượng Tái tạo của các Nhà sản xuất Điện Độc lập (REIPPPP) đã được triển khai để thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án điện mặt trời và điện gió.
- Cho phép các nhà sản xuất điện độc lập (IPPs) tham gia thị trường:** Nới lỏng các quy định để các công ty tư nhân có thể tự sản xuất điện và bán cho lưới điện quốc gia hoặc cho các khách hàng lớn.
- Các biện pháp khẩn cấp:** Bao gồm việc mua điện từ các nhà cung cấp tạm thời hoặc từ các nước láng giềng (nếu có).
- Cải cách Eskom:** Nỗ lực cải tổ cơ cấu và hoạt động của Eskom để nâng cao hiệu quả và minh bạch.
- Khuyến khích tiết kiệm điện và sử dụng năng lượng hiệu quả.**
Mặc dù có những nỗ lực, cuộc khủng hoảng năng lượng ở Nam Phi vẫn là một thách thức phức tạp và cần có các giải pháp dài hạn, bền vững để đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước. Gần đây, đã có những cải thiện đáng kể trong việc cung cấp điện, với việc không có đợt cắt điện nào kể từ cuối tháng 3 năm 2024, nhờ vào những cải tiến trong quản lý Eskom và sự đóng góp ngày càng tăng của năng lượng tái tạo.
8.4. Khoa học và công nghệ

Nam Phi có một lịch sử đáng chú ý về đóng góp cho khoa học và công nghệ, mặc dù phải đối mặt với những thách thức do di sản của Apartheid và bất bình đẳng. Năm 2024, Nam Phi được xếp hạng thứ 69 trong Chỉ số Đổi mới Toàn cầu.
- Các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ chính:**
- Y học và Sức khỏe:** Nam Phi có truyền thống nghiên cứu y học mạnh mẽ. Các lĩnh vực nghiên cứu bao gồm bệnh truyền nhiễm (đặc biệt là HIV/AIDS và lao), bệnh không lây nhiễm, y học nhiệt đới và công nghệ sinh học y tế.
- Thiên văn học và Vật lý thiên văn:** Với bầu trời quang đãng ở nhiều khu vực, Nam Phi là một địa điểm lý tưởng cho thiên văn học. Nước này là nơi đặt Kính thiên văn Lớn Nam Phi (Southern African Large Telescope - SALT), kính thiên văn quang học lớn nhất ở Nam bán cầu.
- Nông nghiệp và Công nghệ sinh học nông nghiệp:** Nghiên cứu tập trung vào cải thiện năng suất cây trồng, vật nuôi, quản lý tài nguyên nước và phát triển nông nghiệp bền vững.
- Môi trường và Đa dạng sinh học:** Nghiên cứu về biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý hệ sinh thái và các vấn đề môi trường khác.
- Công nghệ thông tin và Truyền thông (ICT):** Lĩnh vực này đang phát triển, với các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, an ninh mạng và phát triển phần mềm.
- Năng lượng:** Nghiên cứu về các nguồn năng lượng tái tạo (mặt trời, gió), công nghệ than sạch và lưu trữ năng lượng.
- Khai khoáng và Luyện kim:** Nghiên cứu về các quy trình khai thác và chế biến khoáng sản hiệu quả và bền vững hơn.
- Những thành tựu nổi bật:**
- Ca ghép tim người đầu tiên trên thế giới:** Được thực hiện bởi bác sĩ Christiaan Barnard tại Bệnh viện Groote Schuur vào tháng 12 năm 1967.
- Phát triển vắc-xin sốt vàng da:** Max Theiler đã phát triển vắc-xin chống sốt vàng da.
- Tiên phong trong chụp cắt lớp vi tính (CT scan) bằng tia X:** Allan MacLeod Cormack đã có những đóng góp quan trọng.
- Phát triển kỹ thuật kính hiển vi điện tử tinh thể học:** Aaron Klug đã phát triển các kỹ thuật này. Cormack và Klug đều nhận Giải Nobel.
- Đóng góp tiên phong trong sinh học phân tử:** Sydney Brenner đã đoạt giải Nobel năm 2002.
- Các viện nghiên cứu và dự án quan trọng:**
- Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp (Council for Scientific and Industrial Research - CSIR):** Tổ chức nghiên cứu và phát triển hàng đầu của Nam Phi, hoạt động trong nhiều lĩnh vực.
- Quỹ Nghiên cứu Quốc gia (National Research Foundation - NRF):** Hỗ trợ và thúc đẩy nghiên cứu thông qua tài trợ và các chương trình khác.
- Đài quan sát Thiên văn Nam Phi (South African Astronomical Observatory - SAAO):** Vận hành SALT và các kính thiên văn khác.
- Dự án Mảng Kính thiên văn Kilômét Vuông (Square Kilometre Array - SKA):** Nam Phi là một trong hai địa điểm chính (cùng với Úc) của dự án kính thiên văn vô tuyến lớn nhất thế giới này. Mảng kính thiên văn MeerKAT, một tiền thân của SKA, đã được xây dựng và đang hoạt động, mang lại những khám phá khoa học quan trọng.
- Các trường đại học:** Nhiều trường đại học ở Nam Phi có các khoa và viện nghiên cứu mạnh, đóng góp đáng kể vào sản lượng khoa học của đất nước.
- Chính sách đổi mới sáng tạo:**
Chính phủ Nam Phi nhận thức được tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới (STI) đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Các chính sách tập trung vào việc tăng cường đầu tư vào R&D, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, thúc đẩy hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, và tạo ra một môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, việc triển khai các chính sách này vẫn còn gặp nhiều thách thức, bao gồm hạn chế về kinh phí, thiếu hụt nhân lực có tay nghề cao và sự phối hợp chưa hiệu quả giữa các bên liên quan.
8.5. Giao thông và cơ sở hạ tầng

Nam Phi có một hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng tương đối phát triển so với nhiều quốc gia châu Phi khác, tuy nhiên vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức về bảo trì, nâng cấp và đảm bảo tiếp cận công bằng cho tất cả người dân.
- Mạng lưới đường bộ:**
- Hiện trạng:** Nam Phi có một mạng lưới đường bộ rộng lớn, bao gồm các đường cao tốc quốc gia (national roads) kết nối các thành phố lớn, các đường tỉnh (provincial roads) và đường địa phương (municipal roads). Tổng chiều dài mạng lưới đường bộ là khoảng 750.00 K km, lớn nhất ở châu Phi và đứng thứ 12 trên thế giới. Cơ quan Đường bộ Quốc gia Nam Phi (SANRAL) quản lý các tuyến đường quốc gia, với khoảng 22.20 K km đường trải nhựa. Các tỉnh chịu trách nhiệm cho khoảng 222.95 K km và mạng lưới đường đô thị ước tính khoảng 275.66 K km. Phần còn lại là đường đất không được công nhận, chủ yếu phục vụ các cộng đồng nông thôn.
- Thách thức:** Nhiều tuyến đường, đặc biệt là đường tỉnh và đường địa phương, đang trong tình trạng xuống cấp do thiếu kinh phí bảo trì. Tắc nghẽn giao thông là một vấn đề lớn ở các khu vực đô thị. An toàn giao thông cũng là một mối quan tâm, với tỷ lệ tai nạn giao thông cao.
- Phát triển:** Chính phủ đang đầu tư vào việc nâng cấp và mở rộng mạng lưới đường bộ, cũng như cải thiện hệ thống giao thông công cộng.
- Hệ thống đường sắt:**
- Hiện trạng:** Hệ thống đường sắt của Nam Phi là một yếu tố quan trọng của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của đất nước. Tất cả các thành phố lớn đều được kết nối bằng đường sắt. Transnet Freight Rail chủ yếu vận hành các dịch vụ vận tải hàng hóa trong khi PRASA vận hành các dịch vụ đi lại. Công ty nhà nước Transnet Freight Rail là nhà khai thác vận tải hàng hóa đường sắt lớn nhất trên lục địa châu Phi; công ty duy trì một mạng lưới đường sắt khoảng 31.00 K km nhưng chỉ có 20.90 K km trong số này được sử dụng. Nam Phi là quốc gia có hệ thống đường sắt phát triển và lớn nhất châu Phi cũng như lớn thứ 13 trên thế giới; tuy nhiên, nạn phá hoại, trộm cắp và thiếu đầu tư đã khiến tình trạng chung của phần lớn các mạng lưới trở nên tồi tệ. Than đá và quặng sắt chủ yếu được vận chuyển trên các tuyến này. Mạng lưới đường sắt của đất nước đã vận chuyển gần 230 triệu tấn hàng hóa vào năm 2017; tuy nhiên, con số này đã giảm xuống còn 179 triệu tấn vào năm 2021. Dịch vụ đường sắt hành khách bao gồm các chuyến tàu đi lại trong đô thị (Metrorail) và các chuyến tàu đường dài. Gautrain là một hệ thống đường sắt cao tốc hiện đại kết nối Johannesburg, Pretoria và Sân bay Quốc tế O.R. Tambo.
- Thách thức:** Hệ thống đường sắt đang đối mặt với các vấn đề như cơ sở hạ tầng lỗi thời, thiếu đầu tư, trộm cắp cáp và thiết bị, và quản lý kém hiệu quả. Dịch vụ tàu đi lại thường xuyên bị chậm trễ và không đáng tin cậy.
- Phát triển:** Có những nỗ lực nhằm hồi sinh ngành đường sắt, bao gồm đầu tư vào toa xe mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng, cũng như tìm kiếm các đối tác tư nhân.
- Các sân bay và cảng biển chính:**
- Sân bay:** Nam Phi có nhiều sân bay quốc tế và nội địa. Các sân bay quốc tế chính bao gồm Sân bay quốc tế O. R. Tambo (Johannesburg), Sân bay quốc tế Cape Town, và Sân bay quốc tế King Shaka (Durban). Hãng hàng không Nam Phi (South African Airways - SAA) là hãng hàng không quốc gia, mặc dù đã gặp nhiều khó khăn tài chính trong những năm gần đây. Tính đến năm 2021, Nam Phi có 407 sân bay, đưa nước này trở thành quốc gia dẫn đầu châu Phi về sở hữu sân bay và xếp thứ 20 trên toàn cầu. Bốn sân bay chính ở Nam Phi là: Sân bay Quốc tế O. R. Tambo ở Johannesburg, Sân bay Quốc tế Cape Town, Sân bay Quốc tế King Shaka ở Durban và Sân bay Quốc tế Chief Dawid Stuurman ở Port Elizabeth. Sân bay Quốc tế O.R. Tambo ở Johannesburg là sân bay lớn nhất và bận rộn nhất châu Phi, đón hơn 21 triệu hành khách mỗi năm.
- Cảng biển:** Các cảng biển chính đóng vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế của Nam Phi, bao gồm cảng Durban (cảng container lớn nhất châu Phi Hạ Sahara), Cape Town, Port Elizabeth (Gqeberha), Richards Bay (chuyên xuất khẩu than đá) và Saldanha Bay (chuyên xuất khẩu quặng sắt).
- Thách thức:** Các cảng biển và sân bay cần được tiếp tục đầu tư để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thương mại và du lịch.
- Cơ sở hạ tầng xã hội quan trọng khác:**
- Cấp thoát nước:**
- Hiện trạng:** Sau khi chế độ Apartheid kết thúc, Nam Phi đã có những cải thiện về mức độ tiếp cận nước sạch, tăng từ 66% lên 79% từ năm 1990 đến năm 2010. Tiếp cận vệ sinh cũng tăng từ 71% lên 79% trong cùng kỳ. Chính sách nước cơ bản miễn phí và sự tồn tại của các hội đồng cấp nước (cơ quan cung cấp nước số lượng lớn) là những đặc điểm nổi bật.
- Thách thức:** Nhiều khu vực, đặc biệt là các khu định cư không chính thức và vùng nông thôn, vẫn thiếu nước sạch và vệ sinh đầy đủ. Cơ sở hạ tầng cấp thoát nước ở nhiều nơi đã cũ kỹ và cần được bảo trì, nâng cấp. Tình trạng hạn hán và biến đổi khí hậu cũng gây áp lực lên nguồn cung cấp nước. Khủng hoảng nước ở Cape Town vào năm 2018 là một lời cảnh tỉnh. Các vấn đề về bền vững tài chính của các nhà cung cấp dịch vụ và việc thiếu chú trọng đến bảo trì vẫn còn tồn tại.
- Viễn thông:**
- Hiện trạng:** Ngành viễn thông Nam Phi tương đối phát triển với nhiều nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động và internet. Mạng lưới cáp quang đang được mở rộng.
- Thách thức:** Giá cước dữ liệu di động vẫn còn cao so với nhiều quốc gia khác, gây khó khăn cho việc tiếp cận internet của người dân có thu nhập thấp. Vẫn còn sự chênh lệch về khả năng tiếp cận internet giữa khu vực thành thị và nông thôn.
- Đảm bảo tiếp cận công bằng:** Một trong những thách thức lớn nhất đối với cơ sở hạ tầng ở Nam Phi là đảm bảo rằng tất cả người dân, không phân biệt chủng tộc hay địa vị kinh tế xã hội, đều có thể tiếp cận các dịch vụ cơ bản một cách công bằng và với chất lượng tốt. Di sản của Apartheid vẫn còn ảnh hưởng đến sự phân bố và chất lượng cơ sở hạ tầng ở nhiều khu vực.
- Cấp thoát nước:**
9. Xã hội
Xã hội Nam Phi là một xã hội phức tạp và đa dạng, được định hình bởi lịch sử thuộc địa, chế độ Apartheid và quá trình chuyển đổi sang dân chủ. Các đặc điểm nổi bật bao gồm sự đa dạng về dân tộc, ngôn ngữ và tôn giáo, cùng với những thách thức dai dẳng về bất bình đẳng, nghèo đói và tội phạm. Hệ thống giáo dục và y tế cũng phản ánh những di sản của quá khứ và những nỗ lực cải cách hiện tại.
9.1. Nhân khẩu
Nam Phi là một quốc gia với khoảng 62 triệu người (tính đến năm 2022) với nguồn gốc, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo đa dạng. Cuộc điều tra dân số gần đây nhất được tổ chức vào năm 2022, với các ước tính được đưa ra hàng năm.
- Quy mô dân số và tốc độ tăng trưởng:**
- Cơ cấu tuổi:**
- Thành phần chủng tộc (theo tự phân loại trong điều tra dân số):**
Cơ quan Thống kê Nam Phi yêu cầu mọi người tự mô tả mình trong điều tra dân số theo năm nhóm chủng tộc. Số liệu điều tra dân số năm 2022 cho các nhóm này là:
- Người da đen châu Phi (Black African):** Chiếm đa số áp đảo, khoảng 81,4% dân số. Nhóm này bao gồm nhiều dân tộc nói tiếng Bantu khác nhau như Zulu, Xhosa, Sotho, Tswana, Pedi, Venda, Tsonga, Swazi và Ndebele.
- Người da màu (Coloured):** Khoảng 8,2% dân số. Đây là một nhóm người lai có nguồn gốc đa dạng, bao gồm tổ tiên từ người Khoisan bản địa, nô lệ châu Phi và châu Á, và người châu Âu. Họ tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Cape và Bắc Cape.
- Người da trắng (White):** Khoảng 7,3% dân số. Chủ yếu là hậu duệ của những người châu Âu định cư, bao gồm người Afrikaner (gốc Hà Lan, Đức, Pháp Huguenot) và người gốc Anh. Tỷ lệ người da trắng trong tổng dân số đã giảm so với trước đây do tỷ lệ sinh thấp hơn và di cư.
- Người gốc Ấn Độ/châu Á (Indian/Asian):** Khoảng 2,7% dân số. Đa số là hậu duệ của những người lao động giao kèo và thương nhân Ấn Độ đến Nam Phi vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Họ tập trung chủ yếu ở tỉnh KwaZulu-Natal. Cũng có một cộng đồng người Hoa nhỏ.
- Khác/Không xác định:** Khoảng 0,4%.
- Xu hướng thay đổi:**
Những đặc điểm nhân khẩu học này tạo nên một xã hội Nam Phi đa dạng nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc xây dựng sự gắn kết xã hội và giải quyết các vấn đề bất bình đẳng.
9.2. Ngôn ngữ
Nam Phi là một quốc gia đa ngôn ngữ với 12 ngôn ngữ chính thức được công nhận trong Hiến pháp. Sự đa dạng ngôn ngữ này phản ánh sự phong phú về văn hóa và lịch sử của đất nước.
- 12 ngôn ngữ chính thức (theo thứ tự số người nói tiếng mẹ đẻ nhiều nhất, dựa trên điều tra dân số 2022):**
1. **isiZulu (Zulu):** Được nói bởi khoảng 24,4% dân số, chủ yếu ở tỉnh KwaZulu-Natal.
2. **isiXhosa (Xhosa):** Được nói bởi khoảng 16,6% dân số, chủ yếu ở tỉnh Đông Cape và Tây Cape.
3. **Afrikaans:** Được nói bởi khoảng 10,6% dân số. Đây là ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hà Lan, được sử dụng rộng rãi bởi người Afrikaner (da trắng) và nhiều người Coloured (da màu), đặc biệt ở các tỉnh Tây Cape và Bắc Cape.
4. **Sepedi (Bắc Sotho):** Được nói bởi một bộ phận dân số, chủ yếu ở các tỉnh Limpopo, Gauteng và Mpumalanga. (Lưu ý: Sepedi là một phương ngữ chính của tiếng Bắc Sotho, và thường được dùng để chỉ cả nhóm ngôn ngữ này).
5. **English (Tiếng Anh):** Được nói bởi khoảng 8,7% dân số như tiếng mẹ đẻ. Mặc dù vậy, tiếng Anh đóng vai trò là ngôn ngữ chung (lingua franca) quan trọng trong chính phủ, kinh doanh, giáo dục và truyền thông. Ước tính dựa trên điều tra dân số năm 1991 cho thấy gần một nửa dân số Nam Phi có thể nói tiếng Anh.
6. **Setswana (Tswana):** Được nói chủ yếu ở tỉnh Tây Bắc và các khu vực lân cận.
7. **Sesotho (Nam Sotho):** Được nói chủ yếu ở tỉnh Free State và các khu vực gần Lesotho.
8. **Xitsonga (Tsonga):** Được nói ở các tỉnh Limpopo và Mpumalanga.
9. **siSwati (Swazi):** Được nói chủ yếu ở tỉnh Mpumalanga, gần biên giới Eswatini.
10. **Tshivenḓa (Venda):** Được nói ở phía đông bắc tỉnh Limpopo.
11. **isiNdebele (Nam Ndebele):** Được nói ở các tỉnh Mpumalanga và Gauteng.
12. **South African Sign Language (SASL):** Được công nhận là ngôn ngữ chính thức thứ 12 vào năm 2023.
- Chính sách ngôn ngữ:**
Hiến pháp Nam Phi thúc đẩy sự đa dạng ngôn ngữ và bình đẳng giữa các ngôn ngữ chính thức. Chính phủ có trách nhiệm thúc đẩy việc sử dụng và phát triển các ngôn ngữ này. Tuy nhiên, trên thực tế, tiếng Anh vẫn chiếm ưu thế trong nhiều lĩnh vực công cộng.
- Vị thế xã hội và thực trạng sử dụng:**
- Môi trường đa ngôn ngữ:**
Sự đa dạng ngôn ngữ là một đặc điểm nổi bật của xã hội Nam Phi, mang lại sự phong phú về văn hóa nhưng cũng đặt ra những thách thức trong giao tiếp, giáo dục và cung cấp dịch vụ công. Các biển báo công cộng, tài liệu chính thức và các chương trình phát thanh truyền hình thường có sẵn bằng nhiều ngôn ngữ.
- Các ngôn ngữ khác:**
Ngoài 12 ngôn ngữ chính thức, còn có nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng ở Nam Phi, bao gồm:
- Các ngôn ngữ Khoisan (như Nama, !Xóõ): Đây là những ngôn ngữ bản địa cổ xưa nhất của khu vực, hiện đang bị đe dọa nghiêm trọng.
- Các ngôn ngữ châu Âu khác (như tiếng Đức, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Hy Lạp, tiếng Ý): Được sử dụng bởi các cộng đồng người nhập cư.
- Các ngôn ngữ châu Á khác (như tiếng Gujarati, Hindi, Tamil, Telugu, Urdu, tiếng Trung): Được sử dụng bởi các cộng đồng người gốc Á.
- Fanagalo: Một loại pidgin dựa trên tiếng Zulu, được sử dụng trong các khu mỏ.
- Các ngôn ngữ châu Phi khác từ các nước láng giềng do người nhập cư mang đến.
Hiến pháp cũng công nhận các ngôn ngữ Khoe, Nama, San và các ngôn ngữ của các cộng đồng như tiếng Đức, tiếng Hy Lạp, tiếng Gujarat, tiếng Hindi, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Telugu, tiếng Tamil, tiếng Urdu, cũng như tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái và tiếng Phạn cho mục đích tôn giáo, và thúc đẩy sự phát triển của chúng.
9.3. Tôn giáo
Theo điều tra dân số năm 2001, Kitô giáo chiếm 79,8% dân số. Trong đó, các giáo phái Tin lành (bao gồm Giáo hội Zion Christian 11,1%, Ngũ tuần/Charismatic 8,2%, Methodist 6,8%, Cải cách Hà Lan 6,7%, Anh giáo 3,8%, và các giáo phái Kitô giáo khác 36%) chiếm đa số. Công giáo Rôma chiếm khoảng 7,1%. Hồi giáo chiếm 1,5%, Ấn Độ giáo 1,2%, tín ngưỡng truyền thống châu Phi 0,3% và Do Thái giáo 0,2%. Khoảng 15,1% dân số không có liên kết tôn giáo, 0,6% thuộc nhóm "khác" và 1,4% "không xác định".
Các nhà thờ khởi xướng châu Phi (African-initiated churches - AICs) nói chung chiếm một tỷ lệ lớn trong cộng đồng Kitô hữu. Người ta tin rằng nhiều người không tuyên bố theo một tôn giáo có tổ chức nào vẫn tuân theo một tôn giáo truyền thống châu Phi. Ước tính có khoảng 200.000 thầy lang truyền thống, và có tới 60% người Nam Phi tìm đến các thầy lang này, thường được gọi là sangomasangomaBantu languages ('thầy bói') hoặc inyangainyangaBantu languages ('thầy thuốc nam'). Các thầy lang này sử dụng sự kết hợp giữa niềm tin tâm linh tổ tiên và niềm tin vào các đặc tính tâm linh và dược liệu của động thực vật địa phương thường được gọi là mutimutiBantu languages ('thuốc') để chữa bệnh cho bệnh nhân.
Cộng đồng Hồi giáo chủ yếu bao gồm người Coloured (đặc biệt là Cape Malays) và người gốc Ấn. Cũng có những người Nam Phi da đen hoặc da trắng cải đạo sang Hồi giáo, cũng như người nhập cư từ các vùng khác của châu Phi. Người Hồi giáo Nam Phi mô tả đức tin của họ là tôn giáo có tốc độ chuyển đổi nhanh nhất trong nước, với số lượng người Hồi giáo da đen tăng gấp sáu lần, từ 12.000 người vào năm 1991 lên 74.700 người vào năm 2004.
Có một cộng đồng Do Thái giáo nhỏ nhưng có lịch sử lâu đời, chiếm khoảng 0,2% dân số. Dân số này đạt đỉnh vào những năm 1970 với 118.000 người, mặc dù ngày nay chỉ còn khoảng 75.000 người, số còn lại đã di cư, chủ yếu đến Israel.
- Vai trò xã hội của mỗi tôn giáo:**
Các tổ chức tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Nam Phi. Trong thời kỳ Apartheid, nhiều nhà thờ và nhà lãnh đạo tôn giáo (như Tổng giám mục Desmond Tutu) đã đi đầu trong phong trào chống phân biệt chủng tộc. Ngày nay, các tổ chức tôn giáo tiếp tục tham gia vào các hoạt động xã hội, từ thiện, giáo dục và y tế, đồng thời đóng góp vào các cuộc đối thoại về các vấn đề đạo đức và xã hội.
- Tự do tôn giáo và quan hệ giữa các tôn giáo:**
Hiến pháp Nam Phi đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng và quan điểm. Nhìn chung, có sự khoan dung và tôn trọng lẫn nhau giữa các cộng đồng tôn giáo khác nhau ở Nam Phi. Các cuộc đối thoại liên tôn thường xuyên diễn ra nhằm thúc đẩy sự hiểu biết và hợp tác. Nhiều người thực hành các tôn giáo hỗn hợp, kết hợp các yếu tố Kitô giáo và tín ngưỡng bản địa.
9.4. Giáo dục

Hệ thống giáo dục Nam Phi đã trải qua những thay đổi lớn kể từ khi chế độ Apartheid chấm dứt, với mục tiêu xóa bỏ sự bất bình đẳng về giáo dục dựa trên chủng tộc và đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục có chất lượng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, những thách thức lớn vẫn còn tồn tại.
Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành năm 2007 là 89%. Nam Phi có hệ thống giáo dục ba bậc bắt đầu từ trường tiểu học, tiếp theo là trường trung học và giáo dục đại học dưới hình thức các trường đại học (học thuật) và các trường đại học công nghệ. Học sinh có 12 năm học chính thức, từ lớp 1 đến lớp 12. Lớp R, hay lớp 0, là một năm học dự bị tiểu học. Các trường tiểu học kéo dài bảy năm đầu tiên của việc học. Giáo dục trung học kéo dài thêm năm năm nữa. Kỳ thi Chứng chỉ Quốc gia Cao cấp (National Senior Certificate - NSC), thường được gọi là "matric", diễn ra vào cuối lớp 12 và cần thiết cho việc học đại học tại một trường đại học Nam Phi. Các trường đại học công lập được chia thành ba loại: trường đại học truyền thống, cung cấp các bằng cấp đại học theo định hướng lý thuyết; trường đại học công nghệ (trước đây gọi là technikon), cung cấp các văn bằng và bằng cấp theo định hướng nghề nghiệp; và các trường đại học toàn diện, cung cấp cả hai loại bằng cấp. Có 23 trường đại học công lập ở Nam Phi: 11 trường đại học truyền thống, 6 trường đại học công nghệ và 6 trường đại học toàn diện. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các trường Cao đẳng Giáo dục và Đào tạo Nâng cao (FET) và Cao đẳng Giáo dục và Đào tạo Kỹ thuật và Dạy nghề (TVET) ở Nam Phi.
Dưới chế độ apartheid, các trường học dành cho người da đen bị phân biệt đối xử thông qua việc thiếu kinh phí và một chương trình giảng dạy riêng biệt gọi là Giáo dục Bantu, chỉ dạy các kỹ năng đủ để làm lao động.
- Hệ thống giáo dục:**
- Giáo dục cơ bản:** Bao gồm 9 năm học bắt buộc, từ Lớp R (mẫu giáo lớn) đến Lớp 9.
- Giáo dục phổ thông trung học (Further Education and Training - FET):** Từ Lớp 10 đến Lớp 12. Học sinh hoàn thành Lớp 12 và vượt qua kỳ thi NSC có thể đủ điều kiện vào đại học.
- Giáo dục đại học và đào tạo (Higher Education and Training - HET):** Bao gồm các trường đại học công lập, trường đại học công nghệ và các trường cao đẳng tư thục.
- Các trường đại học và cơ sở giáo dục chính:**
Nam Phi có nhiều trường đại học danh tiếng, bao gồm:
- Đại học Cape Town (University of Cape Town - UCT)
- Đại học Witwatersrand (University of the Witwatersrand - Wits)
- Đại học Stellenbosch (Stellenbosch University)
- Đại học Pretoria (University of Pretoria - UP)
- Đại học KwaZulu-Natal (University of KwaZulu-Natal - UKZN)
Ngoài ra, còn có các trường đại học công nghệ (trước đây là technikon) và các trường cao đẳng tư thục cung cấp các chương trình đào tạo nghề và chuyên nghiệp. Năm 2004, Nam Phi bắt đầu cải cách hệ thống giáo dục đại học của mình, sáp nhập và hợp nhất các trường đại học nhỏ thành các tổ chức lớn hơn, và đổi tên tất cả các cơ sở giáo dục đại học thành "trường đại học". Đến năm 2015, 1,4 triệu sinh viên đại học đã được hỗ trợ bởi một chương trình hỗ trợ tài chính được ban hành vào năm 1999.
- Khả năng tiếp cận giáo dục:**
Mặc dù có những cải thiện đáng kể trong việc mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục cho tất cả các nhóm chủng tộc sau năm 1994, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại. Học sinh từ các gia đình nghèo và các khu vực nông thôn thường gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận giáo dục có chất lượng. Chi phí giáo dục đại học cũng là một rào cản đối với nhiều sinh viên.
- Trình độ học vấn:**
Tỷ lệ nhập học ở cấp tiểu học và trung học đã tăng lên, nhưng tỷ lệ bỏ học và tỷ lệ hoàn thành chương trình vẫn là một vấn đề. Chất lượng giáo dục ở nhiều trường công lập, đặc biệt là ở các khu vực khó khăn, vẫn còn thấp.
- Những thách thức hiện tại và nỗ lực cải thiện:**
- Chất lượng giáo dục:** Nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, đặc biệt là ở các môn khoa học, toán và ngôn ngữ, là một ưu tiên hàng đầu.
- Bất bình đẳng:** Thu hẹp khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa các trường ở khu vực giàu và nghèo.
- Nguồn lực:** Đảm bảo đủ nguồn lực cho giáo dục, bao gồm cơ sở vật chất, tài liệu giảng dạy và giáo viên có trình độ.
- Đào tạo giáo viên:** Nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển chuyên môn cho giáo viên.
- Bạo lực học đường:** Giải quyết vấn đề bạo lực và mất an toàn trong trường học.
- Thất nghiệp của thanh niên:** Kết nối tốt hơn giữa hệ thống giáo dục và thị trường lao động để giảm tỷ lệ thất nghiệp cao trong giới trẻ.
Chính phủ Nam Phi đã triển khai nhiều sáng kiến và chính sách nhằm giải quyết những thách thức này, bao gồm cải cách chương trình giảng dạy, tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng giáo dục và cung cấp hỗ trợ tài chính cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, quá trình cải thiện hệ thống giáo dục là một nỗ lực lâu dài và đòi hỏi sự hợp tác của nhiều bên liên quan.
9.5. Y tế

Hệ thống y tế Nam Phi là một hệ thống kép, bao gồm khu vực công và khu vực tư nhân, phản ánh sự bất bình đẳng kinh tế xã hội sâu sắc của đất nước. Theo Viện Quan hệ Chủng tộc Nam Phi, tuổi thọ năm 2009 là 71 tuổi đối với người Nam Phi da trắng và 48 tuổi đối với người Nam Phi da đen. Chi tiêu cho y tế ở nước này chiếm khoảng 9% GDP. Khoảng 84% dân số phụ thuộc vào hệ thống y tế công cộng, vốn đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực kinh niên và nguồn lực hạn chế. Khoảng 20% dân số sử dụng dịch vụ y tế tư nhân. Chỉ 16% dân số được bao phủ bởi các chương trình bảo hiểm y tế; số còn lại tự trả tiền cho dịch vụ chăm sóc tư nhân hoặc thông qua các chương trình chỉ dành cho bệnh viện. Ba nhóm bệnh viện thống trị, Mediclinic, Life Healthcare và Netcare, cùng nhau kiểm soát 75% thị trường bệnh viện tư nhân.
- Hệ thống y tế công và tư:**
- Hệ thống y tế công:** Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho phần lớn dân số, đặc biệt là những người có thu nhập thấp và không có bảo hiểm y tế tư nhân. Hệ thống này được tài trợ chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Các cơ sở y tế công bao gồm các bệnh viện tuyến trung ương, tỉnh và huyện, cùng với mạng lưới các phòng khám chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tuy nhiên, hệ thống y tế công thường xuyên đối mặt với tình trạng quá tải, thiếu hụt nhân lực (bác sĩ, y tá), thiếu trang thiết bị và thuốc men, và thời gian chờ đợi lâu.
- Hệ thống y tế tư nhân:** Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao hơn cho những người có khả năng chi trả hoặc có bảo hiểm y tế tư nhân. Hệ thống này bao gồm các bệnh viện tư, phòng khám chuyên khoa và các bác sĩ hành nghề tư. Dịch vụ y tế tư nhân thường đắt đỏ và tập trung chủ yếu ở các khu vực đô thị.
- Tình hình các bệnh lý chính:**
Nam Phi phải đối mặt với gánh nặng bệnh tật kép:
- Bệnh truyền nhiễm:** HIV/AIDS và bệnh lao (TB) là những thách thức sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng. Nam Phi có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới và tỷ lệ đồng nhiễm HIV/TB cũng rất cao. Các bệnh truyền nhiễm khác như tiêu chảy, viêm phổi và các bệnh liên quan đến vệ sinh kém vẫn còn phổ biến, đặc biệt ở các cộng đồng nghèo.
- Bệnh không lây nhiễm (NCDs):** Các bệnh như tim mạch, tiểu đường, ung thư và các bệnh hô hấp mãn tính đang gia tăng, do sự thay đổi lối sống, đô thị hóa và lão hóa dân số.
- Bạo lực và chấn thương:** Tỷ lệ tử vong và thương tật do bạo lực (bao gồm giết người, tấn công) và tai nạn giao thông rất cao.
- Tuổi thọ trung bình:**
Tuổi thọ trung bình ở Nam Phi đã bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch HIV/AIDS, nhưng đã có những cải thiện trong những năm gần đây nhờ vào việc mở rộng chương trình điều trị kháng retrovirus (ARV). Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình vẫn thấp hơn so với nhiều quốc gia có cùng mức thu nhập.
- Chính sách y tế:**
Chính phủ Nam Phi cam kết thực hiện Chăm sóc sức khỏe toàn dân (Universal Health Coverage - UHC) thông qua kế hoạch Bảo hiểm Y tế Quốc gia (National Health Insurance - NHI). Mục tiêu của NHI là tạo ra một quỹ y tế duy nhất để tài trợ cho việc cung cấp các dịch vụ y tế thiết yếu cho tất cả người dân, không phân biệt khả năng chi trả. Tuy nhiên, việc triển khai NHI gặp nhiều thách thức về tài chính, quản lý và sự phản đối từ một số bên liên quan.
- Các vấn đề về khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt là cho các nhóm yếu thế:**
- Bất bình đẳng:** Có sự chênh lệch lớn về khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ y tế giữa khu vực công và tư, giữa thành thị và nông thôn, và giữa các nhóm chủng tộc và tầng lớp kinh tế xã hội khác nhau.
- Rào cản tài chính:** Mặc dù dịch vụ y tế công cộng được trợ cấp, chi phí đi lại, mất thu nhập do nghỉ làm và các chi phí gián tiếp khác vẫn là rào cản đối với nhiều người nghèo.
- Khoảng cách địa lý:** Người dân ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các cơ sở y tế.
- Thiếu hụt nhân lực y tế:** Đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực công.
- Kỳ thị và phân biệt đối xử:** Một số nhóm yếu thế, chẳng hạn như người nhiễm HIV, người LGBT, và người di cư, có thể gặp phải sự kỳ thị và phân biệt đối xử khi tìm kiếm dịch vụ y tế.
Chính phủ và các tổ chức xã hội đang nỗ lực để giải quyết những thách thức này thông qua các chương trình cải thiện cơ sở hạ tầng y tế, đào tạo nhân lực, tăng cường chăm sóc sức khỏe ban đầu và thúc đẩy các chính sách y tế công bằng hơn.
9.5.1. HIV/AIDS
Nam Phi là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi đại dịch HIV/AIDS trên toàn cầu. Theo báo cáo y tế của UNAIDS năm 2015, Nam Phi có khoảng bảy triệu người sống chung với HIV - nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Năm 2018, tỷ lệ nhiễm HIV - tỷ lệ người sống chung với HIV - ở người trưởng thành (15-49 tuổi) là 20,4%, và trong cùng năm đó, 71.000 người đã chết vì các bệnh liên quan đến AIDS.
Một nghiên cứu năm 2008 cho thấy rằng nhiễm HIV/AIDS có sự phân chia rõ rệt theo chủng tộc: 13,6% người da đen dương tính với HIV, trong khi chỉ 0,3% người da trắng nhiễm virus này. Hầu hết các ca tử vong xảy ra ở những người trong độ tuổi lao động, dẫn đến nhiều trẻ mồ côi do AIDS, những người trong nhiều trường hợp phải phụ thuộc vào sự chăm sóc và hỗ trợ tài chính của nhà nước. Ước tính có khoảng 1.200.000 trẻ mồ côi ở Nam Phi.
Mối liên hệ giữa HIV, một loại virus lây truyền chủ yếu qua đường tình dục, và AIDS từ lâu đã bị Tổng thống Thabo Mbeki và bộ trưởng y tế của ông là Manto Tshabalala-Msimang phủ nhận, những người này khẳng định rằng nhiều ca tử vong trong nước là do suy dinh dưỡng, và do đó là do nghèo đói, chứ không phải do HIV. Năm 2007, trước áp lực quốc tế, chính phủ đã nỗ lực chống lại AIDS. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2009, Tổng thống Jacob Zuma đã bổ nhiệm Aaron Motsoaledi làm bộ trưởng y tế và cam kết chính phủ của ông sẽ tăng cường tài trợ và mở rộng phạm vi điều trị HIV, và đến năm 2015, Nam Phi đã đạt được những tiến bộ đáng kể, với sự phổ biến rộng rãi của thuốc kháng retrovirus đã giúp tăng tuổi thọ từ 52,1 tuổi lên 62,5 tuổi.- Tình hình và xu hướng lây nhiễm HIV/AIDS:**
- Tỷ lệ nhiễm HIV ở Nam Phi vẫn ở mức rất cao, mặc dù đã có những dấu hiệu ổn định và giảm nhẹ ở một số nhóm dân số nhất định trong những năm gần đây.
- Các tác động kinh tế-xã hội:**
Đại dịch HIV/AIDS đã gây ra những tác động sâu rộng và tàn khốc đối với xã hội và kinh tế Nam Phi:
- Y tế:** Gánh nặng khổng lồ cho hệ thống y tế, tăng chi phí điều trị và chăm sóc.
- Kinh tế:** Mất mát lực lượng lao động do bệnh tật và tử vong, giảm năng suất, tăng chi phí cho doanh nghiệp (do nghỉ ốc, đào tạo lại nhân viên).
- Xã hội:** Số lượng lớn trẻ mồ côi, gia tăng đói nghèo, sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV và gia đình họ. Ảnh hưởng đến cấu trúc gia đình và cộng đồng.
- Nhân khẩu:** Giảm tuổi thọ trung bình, thay đổi cơ cấu dân số.
- Những nỗ lực phòng chống và điều trị của chính phủ và cộng đồng quốc tế:**
Nam Phi đã triển khai chương trình điều trị ARV lớn nhất thế giới, mang lại những cải thiện đáng kể về sức khỏe và tuổi thọ cho người nhiễm HIV.
- Chương trình điều trị ARV:** Cung cấp thuốc ARV miễn phí cho hàng triệu người nhiễm HIV.
- Chương trình phòng ngừa:** Bao gồm các chiến dịch nâng cao nhận thức, khuyến khích xét nghiệm HIV tự nguyện, cung cấp bao cao su, chương trình cắt bao quy đầu tự nguyện cho nam giới (VMMC), và phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (PMTCT).
- Hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế:** Các tổ chức quốc tế như UNAIDS, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét (The Global Fund), và Chương trình Cứu trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ về phòng chống AIDS (PEPFAR) đã đóng góp đáng kể về tài chính và kỹ thuật cho các nỗ lực phòng chống HIV/AIDS ở Nam Phi.
- Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự:** Các tổ chức phi chính phủ và các nhóm cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ, vận động chính sách và chống lại sự kỳ thị.
Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể, cuộc chiến chống HIV/AIDS ở Nam Phi vẫn còn nhiều thách thức, bao gồm việc duy trì tài trợ cho các chương trình, đảm bảo tuân thủ điều trị ARV, tiếp cận các nhóm dân số khó khăn, và giải quyết các yếu tố xã hội và cấu trúc làm tăng nguy cơ nhiễm HIV.
9.6. Tội phạm và An ninh

Nam Phi phải đối mặt với một tình trạng tội phạm nghiêm trọng và dai dẳng, đây là một trong những thách thức xã hội lớn nhất của đất nước. Thực thi pháp luật ở Nam Phi chủ yếu là trách nhiệm của Cảnh sát Nam Phi (SAPS), lực lượng cảnh sát quốc gia của Nam Phi. SAPS chịu trách nhiệm điều tra tội phạm và đảm bảo an ninh trên toàn quốc. Cảnh sát Nam Phi có hơn 1.154 đồn cảnh sát trên cả nước và hơn 150.950 sĩ quan. Năm 2023, Lực lượng Đặc nhiệm (SAPS) đã xếp thứ 9 tại cuộc thi SWAT quốc tế trong số 55 đội thực thi pháp luật từ khắp nơi trên thế giới, trở thành đội giỏi nhất châu Phi.
Nam Phi có ngành công nghiệp an ninh tư nhân lớn nhất thế giới, với hơn 10.380 công ty an ninh tư nhân và 2,5 triệu nhân viên an ninh tư nhân, trong đó hơn 556.000 người đang hoạt động, lớn hơn cả lực lượng Cảnh sát và Quân đội Nam Phi cộng lại. An ninh tư nhân chủ yếu hỗ trợ Dịch vụ Cảnh sát Nam Phi (SAPS) trong việc chống tội phạm trên toàn quốc. Trong những năm qua, ngành công nghiệp an ninh tư nhân đã có sự tăng trưởng vượt bậc.
- Hiện trạng và nguyên nhân của tỷ lệ tội phạm cao:**
- Tỷ lệ tội phạm:** Nam Phi có một trong những tỷ lệ tội phạm bạo lực (giết người, cướp của, tấn công) và tội phạm tài sản (trộm cắp, đột nhập) cao nhất thế giới. Tính đến tháng 2 năm 2023, Nam Phi có tỷ lệ tội phạm cao thứ sáu trên thế giới. Từ tháng 4 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018, trung bình có 57 vụ giết người xảy ra mỗi ngày ở Nam Phi. Trong năm kết thúc vào tháng 3 năm 2017, đã có 20.336 vụ giết người và tỷ lệ giết người là 35,9 trên 100.000 người - cao hơn gấp năm lần so với mức trung bình toàn cầu là 6,2 trên 100.000 người. Hơn 526.000 người Nam Phi đã bị sát hại từ năm 1994 đến năm 2019.
- Nguyên nhân:** Tỷ lệ tội phạm cao ở Nam Phi là một vấn đề phức tạp, bắt nguồn từ nhiều yếu tố đan xen:
- Di sản của Apartheid:** Bất bình đẳng kinh tế xã hội sâu sắc, nghèo đói, thất nghiệp và sự loại trừ xã hội là những yếu tố chính.
- Thất nghiệp cao:** Đặc biệt trong giới trẻ, tạo ra sự tuyệt vọng và dễ dẫn đến hành vi phạm tội.
- Lạm dụng rượu và ma túy:** Liên quan chặt chẽ đến nhiều loại tội phạm, đặc biệt là bạo lực.
- Sự sẵn có của vũ khí:** Tỷ lệ sở hữu súng cao và buôn lậu vũ khí.
- Sự tan rã của cấu trúc gia đình và cộng đồng:** Do các yếu tố lịch sử và kinh tế.
- Tham nhũng và yếu kém trong hệ thống tư pháp hình sự:** Bao gồm cả cảnh sát và tòa án, làm giảm tính răn đe.
- Văn hóa bạo lực:** Bạo lực được coi là một phương tiện để giải quyết xung đột ở một số bộ phận dân cư.
- Nhập cư và di cư:** Cạnh tranh về tài nguyên và việc làm ở các khu vực đô thị đôi khi dẫn đến căng thẳng.
- Các loại tội phạm chính:**
- Tội phạm bạo lực:** Giết người, cố ý gây thương tích, cướp có vũ trang, tấn công tình dục. Nam Phi có tỷ lệ hiếp dâm cao, với 43.195 vụ hiếp dâm được báo cáo trong năm 2014/15, và một số lượng không xác định các vụ tấn công tình dục không được báo cáo. Một cuộc khảo sát năm 2009 với 1.738 nam giới ở KwaZulu-Natal và Đông Cape của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa cho thấy một trong bốn người đàn ông thừa nhận đã hiếp dâm ai đó, và một cuộc khảo sát khác với 4.000 phụ nữ ở Johannesburg của CIET Africa cho thấy một trong ba người nói rằng họ đã bị hiếp dâm trong năm qua. Hiếp dâm xảy ra phổ biến nhất trong các mối quan hệ, nhưng nhiều nam giới và phụ nữ nói rằng hiếp dâm không thể xảy ra trong các mối quan hệ; tuy nhiên, một trong bốn phụ nữ báo cáo đã bị bạn tình lạm dụng. Hiếp dâm cũng do trẻ em thực hiện (một số mới chỉ mười tuổi). Tỷ lệ hiếp dâm trẻ em và trẻ sơ sinh thuộc hàng cao nhất thế giới, phần lớn là do huyền thoại thanh tẩy đồng trinh, và một số vụ án nổi tiếng (đôi khi nạn nhân mới chỉ tám tháng tuổi) đã gây phẫn nộ trong cả nước.
- Tội phạm tài sản:** Trộm cắp nhà cửa, trộm xe, cướp giật.
- Tội phạm có tổ chức:** Buôn bán ma túy, buôn người, rửa tiền, tội phạm mạng.
- Tham nhũng.**
- Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em:** Đây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng.
Biển báo Điểm nóng Đập phá và Cướp giật ở Retreat, Cape Town. - Lực lượng cảnh sát và hệ thống tư pháp:**
- Cảnh sát Nam Phi (South African Police Service - SAPS):** Chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì luật pháp và trật tự. Tuy nhiên, SAPS phải đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm thiếu nguồn lực, tham nhũng trong nội bộ, và đôi khi bị cáo buộc sử dụng vũ lực quá mức.
- Hệ thống tư pháp:** Bao gồm các tòa án và cơ quan công tố. Hệ thống này thường xuyên bị quá tải, dẫn đến việc xét xử chậm trễ. Điều kiện nhà tù cũng là một vấn đề đáng lo ngại.
- Các nỗ lực xã hội nhằm giải quyết vấn đề an ninh:**
- Cải cách cảnh sát và tư pháp:** Nỗ lực nâng cao năng lực, tính chuyên nghiệp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan thực thi pháp luật và tư pháp.
- Các chương trình phòng chống tội phạm dựa vào cộng đồng:** Huy động sự tham gia của cộng đồng vào việc phòng ngừa tội phạm và xây dựng môi trường an toàn hơn.
- Giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của tội phạm:** Các chính sách nhằm giảm nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng và cải thiện giáo dục.
- Kiểm soát vũ khí:** Các biện pháp nhằm hạn chế sự phổ biến của vũ khí bất hợp pháp.
- Hỗ trợ nạn nhân:** Cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân của tội phạm.
- Ngành công nghiệp an ninh tư nhân:** Phát triển mạnh mẽ, nhiều cá nhân và doanh nghiệp thuê dịch vụ an ninh tư nhân để bảo vệ tài sản và tính mạng.
Từ năm 1994 đến năm 2018, đã có hơn 500 cuộc tấn công bài ngoại chống lại người nước ngoài ở Nam Phi. Các cuộc bạo loạn ở Johannesburg năm 2019 có bản chất và nguồn gốc tương tự như các cuộc bạo loạn bài ngoại năm 2008 cũng xảy ra ở Johannesburg.
Giải quyết vấn đề tội phạm và cải thiện an ninh là một ưu tiên hàng đầu của chính phủ và xã hội Nam Phi, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện và bền vững.
9.7. Các vấn đề xã hội
Nam Phi, mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể kể từ khi chế độ Apartheid sụp đổ, vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội lớn và phức tạp. Những vấn đề này thường có nguồn gốc sâu xa từ di sản của sự phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng kéo dài.
- Bất bình đẳng thu nhập nghiêm trọng:**
- Nam Phi là một trong những quốc gia có mức độ bất bình đẳng thu nhập cao nhất thế giới, được đo bằng hệ số Gini. Khoảng cách giàu nghèo rất lớn, và sự phân chia này vẫn còn mang đậm dấu ấn chủng tộc, với đa số người da trắng và một bộ phận nhỏ người da đen thuộc tầng lớp giàu có, trong khi phần lớn người da đen vẫn sống trong cảnh nghèo đói.
- Sự tập trung của cải và tài sản vào tay một nhóm nhỏ dân số hạn chế cơ hội phát triển cho đa số.
- Đói nghèo:**
- Mặc dù là một quốc gia có thu nhập trung bình, tỷ lệ đói nghèo ở Nam Phi vẫn ở mức cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và các khu định cư không chính thức (townships).
- Nhiều hộ gia đình phải vật lộn để đáp ứng các nhu cầu cơ bản như thực phẩm, nhà ở, nước sạch và vệ sinh. Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn còn phổ biến ở một số khu vực.
- Tỷ lệ thất nghiệp cao:**
- Thất nghiệp là một trong những thách thức kinh tế xã hội nghiêm trọng nhất. Tỷ lệ thất nghiệp chung rất cao, và đặc biệt cao hơn nữa trong giới trẻ và trong cộng đồng người da đen.
- Nguyên nhân bao gồm tăng trưởng kinh tế chậm, thiếu kỹ năng phù hợp với thị trường lao động, và các rào cản cấu trúc trong nền kinh tế.
- Xung đột giữa các chủng tộc và tình trạng bài ngoại (xenophobia):**
- Mặc dù "Quốc gia Cầu vồng" là một lý tưởng, căng thẳng và định kiến chủng tộc vẫn còn tồn tại trong xã hội Nam Phi. Di sản của Apartheid đã để lại những vết thương sâu sắc và sự ngờ vực giữa các nhóm chủng tộc.
- Tình trạng bài ngoại, đặc biệt là đối với người nhập cư từ các quốc gia châu Phi khác, đã dẫn đến các đợt bùng phát bạo lực và phân biệt đối xử. Người nhập cư thường bị đổ lỗi cho các vấn đề kinh tế và xã hội như thất nghiệp và tội phạm. Vào tháng 5 năm 2008, các cuộc bạo loạn đã khiến hơn 60 người thiệt mạng. Các mục tiêu chủ yếu là người nhập cư hợp pháp và bất hợp pháp, và người tị nạn tìm kiếm nơi ẩn náu, nhưng một phần ba số nạn nhân là công dân Nam Phi.
- Bạo lực giới (Gender-Based Violence - GBV):**
- Nam Phi có tỷ lệ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái ở mức báo động, bao gồm bạo lực gia đình, tấn công tình dục và giết người vì giới tính (femicide).
- Tiếp cận dịch vụ cơ bản:**
- Mặc dù có những cải thiện, nhiều người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản có chất lượng như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, đặc biệt là ở các khu vực nghèo và nông thôn.
- Tham nhũng:**
- Tham nhũng trong khu vực công và tư nhân làm suy yếu các nỗ lực phát triển và làm xói mòn niềm tin của công chúng vào các thể chế.
- Các biện pháp giải quyết hướng tới công bằng xã hội:**
Chính phủ Nam Phi và các tổ chức xã hội đã triển khai nhiều biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề xã hội này và thúc đẩy công bằng xã hội:
- Chính sách hành động khẳng định (Affirmative Action) và Trao quyền kinh tế cho người da đen (Black Economic Empowerment - BEE):** Nhằm khắc phục những bất lợi lịch sử và tăng cường sự tham gia của người da đen trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả và tác động của các chính sách này vẫn là chủ đề tranh luận.
- Các chương trình an sinh xã hội:** Cung cấp trợ cấp cho người già, người khuyết tật, trẻ em và những người thất nghiệp (thông qua các chương trình tạm thời).
- Đầu tư vào giáo dục và y tế:** Nỗ lực cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ này.
- Cải cách ruộng đất:** Phân phối lại đất đai cho những người bị tước đoạt trong thời kỳ Apartheid, mặc dù quá trình này diễn ra chậm chạp và phức tạp.
- Các chiến dịch chống tội phạm và bạo lực giới.**
- Nỗ lực chống tham nhũng và tăng cường quản trị tốt.**
- Thúc đẩy hòa giải và xây dựng quốc gia:** Các sáng kiến nhằm tăng cường sự hiểu biết và đoàn kết giữa các nhóm chủng tộc và văn hóa khác nhau.
Giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp này đòi hỏi một nỗ lực bền bỉ, toàn diện và sự tham gia của tất cả các thành phần trong xã hội Nam Phi.
10. Văn hóa
Văn hóa Nam Phi là một sự pha trộn phong phú và đa dạng của nhiều nền tảng dân tộc, ngôn ngữ và truyền thống. Sự tương tác giữa các nền văn hóa bản địa châu Phi, ảnh hưởng của những người định cư châu Âu (chủ yếu là Hà Lan và Anh), và sự đóng góp của các cộng đồng người gốc Á (đặc biệt là Ấn Độ và Mã Lai) đã tạo nên một bức tranh văn hóa độc đáo. Sự cùng tồn tại của các yếu tố truyền thống và hiện đại được thể hiện rõ nét trong nghệ thuật, âm nhạc, văn học, ẩm thực và lối sống của người dân Nam Phi.
10.1. Nghệ thuật

Nghệ thuật Nam Phi bao gồm các đồ vật nghệ thuật cổ nhất thế giới, được phát hiện trong một hang động ở Nam Phi và có niên đại khoảng 75.000 năm. Các bộ lạc Khoisan rải rác di chuyển vào Nam Phi từ khoảng 10.000 năm TCN đã có phong cách nghệ thuật trôi chảy riêng được thấy ngày nay trong vô số bức tranh hang động. Họ đã bị người Bantu/Nguni thay thế với vốn từ vựng nghệ thuật riêng của họ. Các hình thức nghệ thuật phát triển trong các khu mỏ và thị trấn: một nghệ thuật năng động sử dụng mọi thứ từ dải nhựa đến nan hoa xe đạp. Nghệ thuật dân gian chịu ảnh hưởng của Hà Lan của người Afrikaner trekboerstrekboersAfrikaans và các nghệ sĩ da trắng thành thị, nghiêm túc theo đuổi các truyền thống châu Âu đang thay đổi từ những năm 1850 trở đi, cũng góp phần vào sự pha trộn đa dạng này và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay.
Các hình thức nghệ thuật thị giác ở Nam Phi rất đa dạng:
- Nghệ thuật đá của người San (Bushmen):** Hàng ngàn địa điểm trên khắp đất nước lưu giữ những bức tranh và bản khắc đá tinh xảo, mô tả các nghi lễ, săn bắn và đời sống tâm linh của người San cổ đại. Đây là một trong những di sản nghệ thuật lâu đời nhất của nhân loại.
- Nghệ thuật truyền thống châu Phi:** Mỗi nhóm dân tộc Bantu có những hình thức nghệ thuật truyền thống riêng, bao gồm chạm khắc gỗ (mặt nạ, tượng), đồ gốm, dệt may, và đặc biệt là nghệ thuật đan cườm (beadwork) tinh xảo của người Zulu và Ndebele. Nhà của người Ndebele thường được trang trí bằng các họa tiết hình học sặc sỡ.
- Nghệ thuật thời thuộc địa:** Ảnh hưởng của nghệ thuật châu Âu, đặc biệt là phong cảnh và chân dung.
- Nghệ thuật phản kháng (Resistance Art):** Trong thời kỳ Apartheid, nhiều nghệ sĩ đã sử dụng nghệ thuật như một công cụ để phản đối sự bất công và áp bức, ghi lại hiện thực xã hội và kêu gọi sự thay đổi.
- Nghệ thuật đương đại:** Sau năm 1994, nghệ thuật đương đại Nam Phi đã bùng nổ, khám phá các chủ đề về bản sắc, lịch sử, hòa giải và các vấn đề xã hội hiện tại. Các nghệ sĩ nổi tiếng bao gồm William Kentridge, Marlene Dumas, Zwelethu Mthethwa, và Esther Mahlangu (nổi tiếng với nghệ thuật Ndebele). Các hình thức nghệ thuật đa dạng từ hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, video art đến nghệ thuật sắp đặt.
Đặc trưng của nghệ thuật Nam Phi là sự đa dạng, sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại, và sự phản ánh mạnh mẽ các vấn đề xã hội và chính trị.
10.2. Văn học


Văn học Nam Phi nổi lên từ một lịch sử xã hội và chính trị độc đáo. Một trong những tiểu thuyết nổi tiếng đầu tiên được viết bởi một tác giả da đen bằng một ngôn ngữ châu Phi là Mhudi của Solomon Thekiso Plaatje, được viết vào năm 1930. Trong những năm 1950, tạp chí Drum trở thành một trung tâm của châm biếm chính trị, tiểu thuyết và tiểu luận, mang lại tiếng nói cho văn hóa da đen đô thị.
Các tác giả Nam Phi da trắng đáng chú ý bao gồm nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc Alan Paton, người đã xuất bản tiểu thuyết Cry, the Beloved Country vào năm 1948. Nadine Gordimer trở thành người Nam Phi đầu tiên được trao Giải Nobel Văn học, vào năm 1991. J. M. Coetzee đã giành giải Nobel Văn học năm 2003. Khi trao giải, Viện Hàn lâm Thụy Điển tuyên bố rằng Coetzee "trong vô số vỏ bọc đã khắc họa sự tham gia đáng ngạc nhiên của người ngoài cuộc."


Các vở kịch của Athol Fugard thường xuyên được công chiếu tại các nhà hát sân khấu rìa ở Nam Phi, London (Nhà hát Royal Court) và New York. Câu chuyện về một trang trại châu Phi (1883) của Olive Schreiner là một sự khám phá trong văn học Victoria: nó được nhiều người coi là đã giới thiệu chủ nghĩa nữ quyền vào hình thức tiểu thuyết.
Breyten Breytenbach bị bỏ tù vì liên quan đến phong trào du kích chống lại chế độ phân biệt chủng tộc. André Brink là nhà văn Afrikaner đầu tiên bị chính phủ cấm sau khi ông phát hành tiểu thuyết Mùa trắng khô.
Văn học Nam Phi phản ánh sự đa dạng ngôn ngữ của đất nước, với các tác phẩm được viết bằng tiếng Anh, tiếng Afrikaans và các ngôn ngữ châu Phi bản địa.
- Văn học tiếng Anh:** Nhiều tác giả Nam Phi đã nổi tiếng quốc tế qua các tác phẩm bằng tiếng Anh. Các chủ đề thường xoay quanh vấn đề chủng tộc, xung đột, bất công xã hội và những trải nghiệm cá nhân trong bối cảnh lịch sử phức tạp của đất nước.
- Văn học tiếng Afrikaans:** Có một truyền thống văn học phong phú bằng tiếng Afrikaans, ban đầu gắn liền với chủ nghĩa dân tộc Afrikaner nhưng sau đó cũng xuất hiện nhiều tiếng nói phê phán và đa dạng hơn.
- Văn học bằng các ngôn ngữ châu Phi bản địa:** Mặc dù ít được biết đến hơn trên trường quốc tế, văn học bằng các ngôn ngữ như Zulu, Xhosa, Sotho vẫn tồn tại và phát triển, thường tập trung vào các chủ đề truyền thống, lịch sử và đời sống cộng đồng.
Lịch sử văn học Nam Phi gắn liền với cuộc đấu tranh chống Apartheid. Nhiều nhà văn đã sử dụng ngòi bút của mình để lên án sự bất công và kêu gọi tự do. Sau năm 1994, văn học tiếp tục khám phá di sản của Apartheid, quá trình hòa giải và những thách thức của một xã hội đang chuyển đổi.
10.3. Âm nhạc
Âm nhạc Nam Phi vô cùng đa dạng và sống động, phản ánh sự phong phú về văn hóa của đất nước.
- Âm nhạc truyền thống châu Phi:** Mỗi nhóm dân tộc có các hình thức âm nhạc và nhạc cụ truyền thống riêng, thường gắn liền với các nghi lễ, lễ hội và đời sống cộng đồng. Ví dụ, âm nhạc Isicathamiya của người Zulu (nổi tiếng qua nhóm Ladysmith Black Mambazo) và các điệu nhảy Gumboot của các công nhân mỏ.
- Jazz Nam Phi (Afro-jazz):** Một thể loại độc đáo kết hợp các yếu tố jazz của Mỹ với âm hưởng và nhịp điệu châu Phi. Các nghệ sĩ nổi tiếng bao gồm Hugh Masekela, Abdullah Ibrahim, Miriam Makeba và Jonas Gwangwa.
- Kwaito:** Một thể loại nhạc house có nguồn gốc từ các khu dân cư da đen (townships) vào những năm 1990, kết hợp các yếu tố hip hop, R&B và âm nhạc truyền thống châu Phi. Kwaito thường có nhịp điệu chậm hơn nhạc house Mỹ, với ca từ bằng các ngôn ngữ địa phương. Nó được coi là tiếng nói của giới trẻ hậu Apartheid.
- Amapiano:** Một thể loại phụ của nhạc house nổi lên ở Nam Phi vào giữa những năm 2010. Amapiano là sự kết hợp lai giữa deep house, jazz và nhạc lounge đặc trưng bởi các giai điệu piano du dương, kwaito basslines, và nhịp điệu bộ gõ Nam Phi nhịp độ thấp.
- Gospel:** Âm nhạc phúc âm rất phổ biến trong cộng đồng Kitô giáo Nam Phi, với nhiều ca sĩ và dàn hợp xướng nổi tiếng.
- Nhạc Pop và Rock:** Có nhiều nghệ sĩ và ban nhạc pop, rock Nam Phi thành công cả trong nước và quốc tế, hát bằng tiếng Anh hoặc Afrikaans. Các ví dụ bao gồm Seether, Die Antwoord, Jeremy Loops, Steve Hofmeyr và Fokofpolisiekar.
- Âm nhạc Afrikaans:** Bao gồm nhiều thể loại từ nhạc dân gian, đồng quê đến rock và pop.
- Hip Hop:** Ngày càng trở nên phổ biến, với các nghệ sĩ như AKA, Nasty C và Cassper Nyovest đã đạt được sự nổi tiếng ở các giải thưởng như BET Awards cho các nghệ sĩ châu Phi xuất sắc nhất.
Ca sĩ nổi tiếng Brenda Fassie đã trở nên nổi tiếng với bài hát "Weekend Special", được hát bằng tiếng Anh. Các nhạc sĩ truyền thống nổi tiếng hơn bao gồm Ladysmith Black Mambazo, trong khi Soweto String Quartet biểu diễn nhạc cổ điển với hương vị châu Phi. Các nhạc sĩ nổi tiếng quốc tế của Nam Phi bao gồm Manfred Mann, Johnny Clegg, bộ đôi rap-rave Die Antwoord, và ca sĩ Tyla.
Âm nhạc đóng một vai trò quan셔 trọng trong đời sống văn hóa và xã hội Nam Phi, từ các cuộc tụ họp cộng đồng đến các sân khấu lớn.
10.4. Điện ảnh
Ngành công nghiệp điện ảnh Nam Phi đã có những bước phát triển đáng kể, đặc biệt là sau khi chế độ Apartheid chấm dứt.
- Lịch sử:** Điện ảnh Nam Phi ban đầu chủ yếu phục vụ lợi ích của thiểu số da trắng và thường phớt lờ hoặc xuyên tạc cuộc sống của người da đen. Trong thời kỳ Apartheid, ngành công nghiệp điện ảnh bị kiểm duyệt gắt gao.
- Phim phản kháng:** Một số nhà làm phim đã dũng cảm thực hiện các bộ phim phê phán chế độ Apartheid, thường phải đối mặt với sự đàn áp.
- Thời kỳ hậu Apartheid:** Sau năm 1994, ngành điện ảnh Nam Phi đã có sự tự do hơn để khám phá các chủ đề đa dạng, bao gồm di sản của Apartheid, hòa giải dân tộc, các vấn đề xã hội đương đại và những câu chuyện về cuộc sống của các cộng đồng khác nhau.
- Các tác phẩm tiêu biểu:**
- Tsotsi (2005): Bộ phim của đạo diễn Gavin Hood đã giành Giải Oscar cho Phim nói tiếng nước ngoài hay nhất, kể về một tên tội phạm trẻ ở Johannesburg.
- U-Carmen eKhayelitsha (2005): Một phiên bản điện ảnh của vở opera Carmen, lấy bối cảnh ở một khu dân cư da đen ở Cape Town, đã giành giải Gấu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Berlin.
- District 9 (2009): Một bộ phim khoa học viễn tưởng của đạo diễn Neill Blomkamp, sử dụng câu chuyện về người ngoài hành tinh tị nạn để ẩn dụ cho các vấn đề phân biệt chủng tộc và bài ngoại ở Nam Phi. Bộ phim này cũng như Chappie đã nhận được sự chú ý quốc tế.
- The Endless River (2015): Bộ phim của đạo diễn Oliver Hermanus trở thành phim Nam Phi đầu tiên được chọn tham gia Liên hoan phim Venice.
- Đặc trưng:** Điện ảnh Nam Phi thường phản ánh hiện thực xã hội phức tạp của đất nước, khám phá các chủ đề về bản sắc, xung đột và hy vọng. Nhiều bộ phim được thực hiện bằng các ngôn ngữ địa phương bên cạnh tiếng Anh.
- Hợp tác quốc tế:** Nam Phi cũng là một địa điểm quay phim phổ biến cho các đoàn làm phim quốc tế do có cảnh quan đa dạng và chi phí sản xuất tương đối thấp.
Ngành công nghiệp điện ảnh Nam Phi đang ngày càng phát triển và tìm được tiếng nói riêng trên trường quốc tế, đóng góp vào việc kể những câu chuyện độc đáo của đất nước này.
10.5. Ẩm thực


Ẩm thực Nam Phi là sự kết hợp đa dạng và phong phú của nhiều nền văn hóa khác nhau, phản ánh lịch sử và sự đa dạng dân tộc của đất nước.
- Ảnh hưởng bản địa châu Phi:** Các món ăn truyền thống của người Bantu thường sử dụng các nguyên liệu địa phương như ngô (pap - một loại cháo ngô đặc, là món ăn chính của nhiều người), thịt (thịt bò, thịt cừu, thịt gà, và thịt thú rừng), rau củ và các loại rau lá xanh. Mielie meal (bột ngô) là một thành phần quan trọng.
- Ảnh hưởng châu Âu (Hà Lan và Anh):**
- Braai (thịt nướng):** Đây là một nét văn hóa ẩm thực quan trọng và phổ biến của người Nam Phi, tương tự như barbecue. Các loại thịt được nướng trên lửa than, thường là trong các buổi tụ họp gia đình và bạn bè.
- Boerewors:** Một loại xúc xích truyền thống, thường được nướng trong các buổi braai.
- Biltong và Droëwors:** Các loại thịt khô tẩm gia vị (thường là thịt bò hoặc thịt thú rừng), là món ăn vặt phổ biến.
- Potjiekos:** Một món hầm truyền thống được nấu chậm trong một chiếc nồi gang ba chân trên lửa than, thường bao gồm thịt và rau củ.
- Các món tráng miệng như Melktert (bánh sữa tart).

- Ảnh hưởng Mã Lai Cape (Cape Malay):** Cộng đồng người Mã Lai Cape, hậu duệ của những người nô lệ và người lưu vong từ Đông Nam Á, đã mang đến những hương vị độc đáo cho ẩm thực Nam Phi, đặc biệt là ở Cape Town. Các món ăn Mã Lai Cape thường có sự kết hợp của các loại gia vị thơm và cay, bao gồm:
- Bobotie:** Một món thịt băm tẩm gia vị, phủ một lớp trứng sữa rồi đem nướng, được coi là một trong những món ăn quốc gia của Nam Phi.
- Các loại cà ri, bredies (món hầm), sosaties (thịt xiên nướng) và koesister (một loại bánh ngọt).
- Ảnh hưởng Ấn Độ:** Cộng đồng người Ấn Độ, đặc biệt là ở KwaZulu-Natal, đã mang đến các món cà ri phong phú và đa dạng. "Bunny chow" là một món ăn đường phố nổi tiếng ở Durban, bao gồm một ổ bánh mì khoét rỗng và nhồi cà ri.
- Hải sản:** Với đường bờ biển dài, Nam Phi có nguồn hải sản phong phú, đặc biệt là ở các vùng ven biển.
- Đồ uống:**
- Rượu vang:** Nam Phi là một trong những nhà sản xuất rượu vang nổi tiếng thế giới, với các vùng trồng nho ở Tây Cape.
- Bia:** Bia là một đồ uống phổ biến, với nhiều thương hiệu bia địa phương và quốc tế.
- Rooibos (trà đỏ):** Một loại trà thảo dược đặc trưng của Nam Phi, không chứa caffeine và có nhiều lợi ích cho sức khỏe.
- Amarula:** Một loại rượu mùi kem làm từ trái cây marula.
Ẩm thực Nam Phi là một sự phản ánh sống động của "Quốc gia Cầu vồng", nơi các truyền thống ẩm thực khác nhau cùng tồn tại và hòa quyện để tạo ra những hương vị độc đáo.
10.6. Thể thao

Thể thao đóng một vai trò quan trọng trong đời sống xã hội và văn hóa Nam Phi, thường được coi là một công cụ để đoàn kết dân tộc sau nhiều năm chia rẽ do chế độ Apartheid.
- Các môn thể thao phổ biến:**
- Bóng bầu dục (Rugby Union):** Là một trong những môn thể thao phổ biến nhất, đặc biệt trong cộng đồng người Afrikaner và ngày càng thu hút sự tham gia của các nhóm dân tộc khác. Đội tuyển quốc gia, được gọi là Springboks, đã 4 lần vô địch World Cup Rugby (1995, 2007, 2019, 2023), nhiều nhất so với bất kỳ quốc gia nào. Chức vô địch năm 1995, diễn ra trên sân nhà ngay sau khi chế độ Apartheid chấm dứt, được coi là một khoảnh khắc lịch sử quan trọng trong việc đoàn kết dân tộc. Các cầu thủ rugby nổi tiếng của Nam Phi bao gồm Francois Pienaar, Joost van der Westhuizen, Bryan Habana, Siya Kolisi.
- Bóng đá (Soccer):** Là môn thể thao có lượng người hâm mộ đông đảo nhất, đặc biệt trong cộng đồng người da đen. Đội tuyển quốc gia được gọi là Bafana Bafana (có nghĩa là "Các chàng trai"). Nam Phi đã đăng cai tổ chức FIFA World Cup 2010, lần đầu tiên giải đấu này được tổ chức ở châu Phi. Bafana Bafana đã vô địch Cúp bóng đá châu Phi năm 1996 trên sân nhà. Năm 2022, đội tuyển nữ cũng đã vô địch Cúp bóng đá nữ châu Phi, đánh bại Maroc 2-1 trong trận chung kết. Đội tuyển nữ tiếp tục lọt vào vòng 16 đội tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023, đánh bại Ý và hòa với Argentina ở vòng bảng. Các cầu thủ bóng đá nổi tiếng từng thi đấu cho các câu lạc bộ lớn ở nước ngoài bao gồm Steven Pienaar, Lucas Radebe, Benni McCarthy.
- Cricket:** Cũng là một môn thể thao rất phổ biến, đặc biệt trong cộng đồng người nói tiếng Anh và ngày càng có sự tham gia của các nhóm khác. Đội tuyển quốc gia, được gọi là Proteas, đã đạt được nhiều thành công trên trường quốc tế. Nam Phi đã đồng đăng cai Cricket World Cup 2003 và ICC World Twenty20 2007. Đội tuyển quốc gia Nam Phi đã vô địch giải ICC KnockOut Trophy đầu tiên vào năm 1998. Giải vô địch cricket T20 nữ thế giới 2023 được tổ chức tại Nam Phi và đội tuyển nữ đã giành huy chương bạc. Đội tuyển nam giành huy chương bạc tại Giải vô địch cricket T20 nam thế giới 2024. Đội tuyển cricket khiếm thị quốc gia Nam Phi cũng đã vô địch giải Giải vô địch cricket khiếm thị thế giới đầu tiên vào năm 1998. Các vận động viên cricket nổi tiếng đang thi đấu bao gồm Kagiso Rabada, David Miller, Quinton de Kock.
- Các môn thể thao khác:**
- Điền kinh:** Nam Phi đã sản sinh ra nhiều vận động viên điền kinh đẳng cấp thế giới, đặc biệt ở các nội dung chạy. Wayde van Niekerk là người giữ kỷ lục thế giới ở nội dung chạy 400 mét. Oscar Pistorius trở thành vận động viên chạy nước rút cụt cả hai chân đầu tiên thi đấu tại Thế vận hội Olympic London 2012.
- Bơi lội:** Các vận động viên bơi lội Nam Phi như Penny Heyns, Roland Schoeman, Chad le Clos và Tatjana Smith (nhũ danh Schoenmaker) đã giành được nhiều huy chương Olympic và thế giới.
- Golf:** Gary Player là một trong những huyền thoại của làng golf thế giới. Nhiều tay golf Nam Phi khác cũng thành công trên đấu trường quốc tế.
- Quyền Anh:** Nam Phi có truyền thống quyền Anh mạnh mẽ.
- Quần vợt, khúc côn cầu trên cỏ, lướt sóng, đua xe thể thao** (Jody Scheckter, nhà vô địch Công thức 1 năm 1979) và netball cũng là những môn thể thao được yêu thích. Các tay đua xe máy Grand Prix nổi tiếng đang hoạt động bao gồm Brad Binder và em trai Darryn Binder.
- Đăng cai các sự kiện thể thao quốc tế:**
Ngoài FIFA World Cup 2010, Nam Phi còn đăng cai nhiều sự kiện thể thao quốc tế lớn khác, bao gồm World Cup Rugby 1995, Cricket World Cup 2003, và các giải vô địch thế giới ở nhiều môn thể thao khác. Việc đăng cai các sự kiện này không chỉ thúc đẩy du lịch và kinh tế mà còn góp phần nâng cao hình ảnh của Nam Phi trên trường quốc tế.
Thể thao tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng bản sắc dân tộc và thúc đẩy sự hòa nhập xã hội ở Nam Phi.
10.7. Di sản thế giới
Nam Phi tự hào có một số lượng đáng kể các địa điểm được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, phản ánh sự phong phú về cả di sản tự nhiên và văn hóa của đất nước. Tính đến nay, Nam Phi có 10 Di sản Thế giới, bằng với Ethiopia về số lượng nhiều nhất ở châu Phi.
- Di sản Văn hóa:**
1. **Các địa điểm hóa thạch hominin ở Nam Phi (Fossil Hominid Sites of South Africa) (còn gọi là Cái nôi của Nhân loại - Cradle of Humankind):** Được công nhận năm 1999, mở rộng năm 2005. Bao gồm các địa điểm như Sterkfontein, Swartkrans, Kromdraai, nơi phát hiện nhiều hóa thạch hominin quan trọng, cung cấp bằng chứng về quá trình tiến hóa của loài người.
2. **Đảo Robben (Robben Island):** Được công nhận năm 1999. Hòn đảo này nổi tiếng là nơi giam giữ các tù nhân chính trị trong thời kỳ Apartheid, bao gồm cả Nelson Mandela. Nó là biểu tượng cho chiến thắng của tinh thần con người trước sự áp bức.
3. **Cảnh quan văn hóa Mapungubwe (Mapungubwe Cultural Landscape):** Được công nhận năm 2003. Là địa điểm của một vương quốc cổ đại phát triển thịnh vượng từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 14, với bằng chứng về một xã hội phức tạp và hoạt động thương mại rộng lớn.
4. **Cảnh quan văn hóa và thực vật Richtersveld (Richtersveld Cultural and Botanical Landscape):** Được công nhận năm 2007. Khu vực này thể hiện lối sống bán du mục của người Nama, những người đã thích nghi với môi trường sa mạc khắc nghiệt trong hàng ngàn năm, cũng như sự đa dạng sinh học độc đáo của nó.
5. **Cảnh quan văn hóa của người ǂKhomani (ǂKhomani Cultural Landscape):** Được công nhận năm 2017. Đại diện cho di sản văn hóa của người San ǂKhomani, những người săn bắt hái lượm bản địa, và mối liên hệ sâu sắc của họ với vùng đất sa mạc Kalahari.
- Di sản Thiên nhiên:**
6. **Công viên Đất ngập nước iSimangaliso (iSimangaliso Wetland Park) (trước đây là Greater St. Lucia Wetland Park):** Được công nhận năm 1999. Một khu vực có sự đa dạng sinh học vô cùng phong phú, bao gồm các hồ nước, đầm lầy, rạn san hô, rừng ven biển và các loài động thực vật quý hiếm.
7. **Các khu bảo tồn vùng thực vật Cape (Cape Floral Region Protected Areas):** Được công nhận năm 2004, mở rộng năm 2015. Một trong những điểm nóng đa dạng sinh học trên thế giới, nổi tiếng với quần xã thực vật Fynbos độc đáo với hàng ngàn loài đặc hữu.
8. **Vòm Vredefort (Vredefort Dome):** Được công nhận năm 2005. Miệng núi lửa do va chạm thiên thạch lớn nhất và lâu đời nhất được biết đến trên Trái Đất, cung cấp bằng chứng quan trọng về lịch sử địa chất của hành tinh.
- Di sản Hỗn hợp (Văn hóa và Thiên nhiên):**
9. **Công viên Maloti-Drakensberg (Maloti-Drakensberg Park):** Được công nhận năm 2000, mở rộng năm 2013. Một di sản xuyên biên giới với Lesotho, nổi tiếng với cảnh quan núi non hùng vĩ, sự đa dạng sinh học và hàng ngàn bức tranh đá của người San.
10. **Các khu rừng sương mù Barberton Makhonjwa Mountains:** Được công nhận năm 2018. Đại diện cho một trong những cấu trúc địa chất lâu đời nhất và được bảo tồn tốt nhất trên Trái Đất, có niên đại hơn 3,6 tỷ năm, và chứa đựng một số dấu hiệu cổ xưa nhất của sự sống.
Các Di sản Thế giới này không chỉ có giá trị to lớn đối với Nam Phi mà còn là tài sản quý giá của nhân loại, cần được bảo tồn và phát huy cho các thế hệ tương lai.
10.8. Các ngày lễ quốc gia
Nam Phi có một số ngày lễ quốc gia chính thức, phản ánh lịch sử, văn hóa và các giá trị quan trọng của đất nước. Khi một ngày lễ quốc gia rơi vào Chủ nhật, thì thứ Hai kế tiếp sẽ là ngày nghỉ lễ.
Dưới đây là các ngày lễ quốc gia chính và ý nghĩa của chúng:
- Ngày 1 tháng 1: Tết Dương lịch (New Year's Day)**
- Ý nghĩa: Ngày đầu tiên của năm mới, được tổ chức trên toàn thế giới.
- Ngày 21 tháng 3: Ngày Nhân quyền (Human Rights Day)**
- Ý nghĩa lịch sử: Tưởng niệm vụ thảm sát Sharpeville năm 1960, khi cảnh sát bắn chết 69 người biểu tình ôn hòa chống lại luật thông hành của chế độ Apartheid.
- Ý nghĩa xã hội: Khẳng định cam kết của Nam Phi đối với nhân quyền, dân chủ và pháp quyền.
- Thứ Sáu Tuần Thánh (Good Friday)** (Ngày thay đổi hàng năm, theo lịch Kitô giáo)
- Ý nghĩa: Một ngày lễ quan trọng của Kitô giáo, tưởng niệm sự đóng đinh của Chúa Giêsu.
- Ngày Gia đình (Family Day)** (Thứ Hai sau Lễ Phục Sinh, ngày thay đổi hàng năm)
- Ý nghĩa: Trước đây gọi là Thứ Hai Phục Sinh, ngày này được đổi tên để nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình trong xã hội.
- Ngày 27 tháng 4: Ngày Tự do (Freedom Day)**
- Ý nghĩa lịch sử: Kỷ niệm cuộc tổng tuyển cử dân chủ đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi vào năm 1994, đánh dấu sự kết thúc của chế độ Apartheid.
- Ý nghĩa xã hội: Là ngày quốc khánh của Nam Phi, tượng trưng cho sự ra đời của một nền dân chủ mới và tự do cho tất cả mọi người.
- Ngày 1 tháng 5: Ngày Quốc tế Lao động (Workers' Day)**
- Ý nghĩa: Công nhận những đóng góp của người lao động và vai trò của phong trào công đoàn trong lịch sử đấu tranh vì quyền lợi và công bằng xã hội.
- Ngày 16 tháng 6: Ngày Thanh niên (Youth Day)**
- Ý nghĩa lịch sử: Tưởng niệm cuộc nổi dậy Soweto năm 1976, khi hàng ngàn học sinh, sinh viên biểu tình chống lại việc áp đặt tiếng Afrikaans làm ngôn ngữ giảng dạy. Cuộc biểu tình đã bị đàn áp dã man, khiến hàng trăm thanh niên thiệt mạng.
- Ý nghĩa xã hội: Tôn vinh vai trò của thanh niên trong cuộc đấu tranh giải phóng và những đóng góp của họ cho sự phát triển của đất nước.
- Ngày 9 tháng 8: Ngày Phụ nữ Quốc gia (National Women's Day)**
- Ý nghĩa lịch sử: Kỷ niệm cuộc tuần hành của hơn 20.000 phụ nữ Nam Phi vào năm 1956 đến Tòa nhà Liên bang ở Pretoria để phản đối việc mở rộng luật thông hành cho phụ nữ.
- Ý nghĩa xã hội: Tôn vinh những đóng góp của phụ nữ trong cuộc đấu tranh vì tự do và bình đẳng giới, đồng thời nâng cao nhận thức về các vấn đề mà phụ nữ vẫn đang đối mặt.
- Ngày 24 tháng 9: Ngày Di sản (Heritage Day)**
- Ý nghĩa: Khuyến khích người dân Nam Phi kỷ niệm và tự hào về sự đa dạng văn hóa, tín ngưỡng và truyền thống của các dân tộc khác nhau trong "Quốc gia Cầu vồng". Ngày này còn được gọi một cách không chính thức là "Ngày Braai" (Braai Day), khuyến khích mọi người tụ họp nướng thịt, một hoạt động văn hóa phổ biến.
- Ngày 16 tháng 12: Ngày Hòa giải (Day of Reconciliation)**
- Ý nghĩa lịch sử: Ngày này có ý nghĩa kép. Trước đây, đối với người Afrikaner, đây là "Ngày Lời thề" (Day of the Vow/Covenant), kỷ niệm chiến thắng của người Voortrekker trước quân đội Zulu trong Trận Blood River năm 1838. Đối với phong trào giải phóng, đây là ngày thành lập Umkhonto we Sizwe (Ngọn giáo của Dân tộc), cánh vũ trang của ANC, vào năm 1961.
- Ý nghĩa xã hội: Sau năm 1994, ngày này được đổi tên thành Ngày Hòa giải, nhằm thúc đẩy sự hòa hợp dân tộc và hàn gắn những chia rẽ của quá khứ.
- Ngày 25 tháng 12: Lễ Giáng Sinh (Christmas Day)**
- Ý nghĩa: Một ngày lễ quan trọng của Kitô giáo, kỷ niệm sự ra đời của Chúa Giêsu, được nhiều người Nam Phi kỷ niệm.
- Ngày 26 tháng 12: Ngày Thiện Chí (Day of Goodwill)** (Trước đây là Boxing Day)
- Ý nghĩa: Một ngày để thể hiện lòng tốt, sự hào phóng và chia sẻ với những người kém may mắn hơn.
Những ngày lễ này không chỉ là những ngày nghỉ mà còn là dịp để người dân Nam Phi suy ngẫm về lịch sử, tôn vinh các giá trị dân chủ và nhân quyền, và kỷ niệm sự đa dạng văn hóa phong phú của đất nước.
10.9. Truyền thông đại chúng
Nam Phi có một hệ thống truyền thông đại chúng phát triển và đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin, giải trí và thúc đẩy tranh luận công khai. Mức độ tự do báo chí tương đối cao so với nhiều quốc gia châu Phi khác, được Hiến pháp bảo vệ.
- Báo chí (Báo in và Báo trực tuyến