1. Overview
Gustavo "Guga" Kuerten (Gustavo Kuertenɡusˈtavu ˈkiɾtẽPortuguese) là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Brasil. Anh từng giữ vị trí số 1 thế giới trong 43 tuần, bao gồm cả vị trí số 1 cuối năm 2000. Kuerten đã giành được 20 danh hiệu đơn nam ở cấp độ ATP Tour, trong đó có ba danh hiệu Grand Slam tại Pháp Mở rộng vào các năm 1997, 2000 và 2001, cùng với danh hiệu Tennis Masters Cup năm 2000. Anh cũng giành được 8 danh hiệu đôi. Kuerten được xem là một trong những tay vợt Brasil xuất sắc nhất mọi thời đại, bên cạnh Maria Bueno. Anh được vinh danh trong Đại sảnh Danh vọng Quần vợt Quốc tế vào năm 2012 và từng là người rước đuốc tại lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro.
2. Early Life and Career
Gustavo Kuerten đã có một khởi đầu sự nghiệp quần vợt từ rất sớm, nhưng cuộc sống của anh cũng bị ảnh hưởng bởi những bi kịch gia đình, đặc biệt là sự ra đi của người cha và những khó khăn của người em trai, điều này đã định hình con đường từ thiện và cuộc đời sau này của anh.
2.1. Birth and Childhood
Gustavo Kuerten sinh ngày 10 tháng 9 năm 1976 tại Florianópolis, Santa Catarina, phía nam Brasil. Anh bắt đầu chơi quần vợt khi mới 6 tuổi. Cuộc đời và sự nghiệp của anh sớm bị đánh dấu bởi bi kịch gia đình khi cha anh, Aldo, một cựu vận động viên quần vợt nghiệp dư, qua đời vì một cơn đau tim vào năm 1985 khi đang làm trọng tài một trận đấu quần vợt trẻ. Lúc đó Kuerten mới 8 tuổi. Em trai út của anh, Guilherme, bị thiếu oxy kéo dài khi sinh và bị tổn thương não không hồi phục, dẫn đến bại não cho đến khi qua đời vào năm 2007. Kuerten đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những khó khăn hàng ngày của em trai mình và sau này đã hiến toàn bộ tiền thưởng từ một giải đấu mà anh giành được mỗi năm trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình cho một tổ chức phi chính phủ địa phương chuyên hỗ trợ những người mắc các khuyết tật tương tự. Anh cũng tặng mọi chiếc cúp mình giành được cho em trai như một món quà lưu niệm, bao gồm cả ba bản sao thu nhỏ của cúp đơn nam Pháp Mở rộng. Anh trai cả của anh, Raphael, hiện là quản lý kinh doanh của anh.
2.2. Career Beginnings
Khi còn là một tay vợt trẻ ở Nam Mỹ, Kuerten đã giành nhiều giải đấu quan trọng trong khu vực và thường thi đấu ở lứa tuổi cao hơn mình. Khi 14 tuổi, Kuerten gặp Larri Passos, người sau này trở thành huấn luyện viên của anh trong 15 năm tiếp theo. Passos đã thuyết phục Kuerten và gia đình rằng anh đủ tài năng để kiếm sống bằng quần vợt. Cả hai bắt đầu đi khắp thế giới để tham gia các giải đấu trẻ. Kuerten chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp vào năm 1995.
Sau hai năm thi đấu chuyên nghiệp, Kuerten vươn lên vị trí tay vợt số 2 ở Brasil, sau Fernando Meligeni. Điểm sáng đầu tiên của anh là giúp đội tuyển Davis Cup Brasil đánh bại đội tuyển Davis Cup Áo vào năm 1996 để giành quyền tham dự Hạng đấu cao nhất của giải đấu, Nhóm Thế giới.
3. Playing Style
Phong cách chơi của Kuerten nổi bật với những cú đánh mạnh mẽ từ vạch cuối sân và khả năng kiểm soát bóng hiệu quả, đặt nền móng cho những thành công lớn của anh trên sân đất nện. Chiều cao của anh là 1.91 m.
Kuerten theo lối chơi đánh từ vạch cuối sân, với những cú đánh topspin nặng ở các cú thuận tay và một cú giao bóng chắc chắn, cho phép anh làm hao mòn đối thủ từ phía cuối sân. Tuy nhiên, Kuerten nhấn mạnh lối chơi tấn công từ vạch cuối sân, trái ngược với lối chơi phòng thủ cơ bản truyền thống được các chuyên gia sân đất nện cổ điển ưa chuộng. Không giống họ, cú giao bóng đầu tiên là vũ khí lớn nhất của anh. Anh thuận tay phải với cú trái tay một tay sử dụng cách cầm vợt phương Tây. Cú trái tay vòng cung với độ xoáy là cú đánh đặc trưng của anh. Anh là một trong những người đầu tiên sử dụng dây vợt polyester của hãng Luxilon, loại dây cho phép anh vung vợt mạnh mẽ để tạo tốc độ và đồng thời tạo ra độ xoáy cần thiết để kiểm soát bóng.
Bề mặt sân ưa thích nhất của anh là sân đất nện, điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi cả ba danh hiệu Grand Slam của anh đều được giành trên các sân đất nện màu đỏ của Roland Garros tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng.
4. Major Career Achievements
Sự nghiệp quần vợt của Gustavo Kuerten được đánh dấu bằng những chiến thắng Grand Slam đầy bất ngờ và sự vươn lên mạnh mẽ để trở thành tay vợt số 1 thế giới, mặc dù sau đó phải đối mặt với nhiều thách thức từ chấn thương.
4.1. French Open Breakthrough (1997)
Vừa giành được một danh hiệu Challenger, Kuerten bất ngờ giành chiến thắng tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 1997, trở thành tay vợt Brasil đầu tiên giành danh hiệu đơn Grand Slam kể từ Maria Bueno tại Giải quần vợt Vô địch Quốc gia Hoa Kỳ 1966. Giải đấu đó chỉ là giải Grand Slam thứ ba của anh, thiết lập một kỷ lục trong kỷ nguyên mở, ngang bằng với Mats Wilander. Anh vẫn là tay vợt duy nhất giành được danh hiệu Challenger và Grand Slam trong các tuần liên tiếp. Với các chiến thắng trước các nhà vô địch Pháp Mở rộng bốn năm trước đó - Thomas Muster (1995) ở vòng ba trong năm set, Yevgeny Kafelnikov (1996) ở tứ kết trong năm set, và Sergi Bruguera (1993, 1994) trong trận chung kết - anh trở thành nhà vô địch Grand Slam có thứ hạng thấp thứ ba thế giới (hạng 66). Chiến thắng này đã đưa anh vào top 20 của Hiệp hội Quần vợt Chuyên nghiệp (ATP). Chỉ có Mark Edmondson (hạng 212) và Goran Ivanišević (hạng 125) có thứ hạng thấp hơn Kuerten khi giành danh hiệu đơn Grand Slam.
Anh đã nhận cúp Pháp Mở rộng từ các cựu vô địch Björn Borg và Guillermo Vilas. Khi được gọi lên sân khấu để nhận cúp vô địch, Kuerten đã kính cẩn cúi đầu vài lần trước thần tượng thời thơ ấu của mình là Borg, người đang chờ ở đỉnh cầu thang để bắt tay anh. Sau đó, trong buổi lễ, Vilas đã thì thầm điều gì đó vào tai Kuerten khiến anh bật cười trong bài phát biểu của chủ tịch sự kiện. Kuerten sau đó từ chối tiết lộ điều Vilas đã nói, cho rằng làm vậy sẽ là thiếu tế nhị, nhưng các nhà báo được trang bị ống kính mạnh đã có thể đọc môi của Vilas và tiết lộ rằng ông ấy đã nói bằng tiếng Tây Ban Nha đại ý: "Chuẩn bị đi nhóc, phụ nữ sẽ đổ ập vào lòng mày đấy!". Kuerten mặc bộ đồng phục xanh-vàng may mắn của mình, và vì anh không ngờ mình sẽ tiến xa như vậy, anh đã phải vội vàng tìm thêm trang phục từ nhà sản xuất. Điều này đã tạo nên một "không khí lễ hội tức thì" ở Brasil.
4.2. Ascent to World No. 1 and Continued Dominance (1999-2001)
Sau chiến thắng bất ngờ tại Pháp Mở rộng 1997, Kuerten đã trải qua một năm rưỡi khó khăn, phải thích nghi với sự nổi tiếng đột ngột và áp lực phải giành chiến thắng. Năm 1998 là năm tồi tệ nhất trong sự nghiệp của anh không liên quan đến chấn thương. Áp lực để anh trở thành "đại sứ" cho quần vợt ở Brasil trở nên rõ ràng sau thất bại sớm trước tay vợt khi đó còn ít người biết đến là Marat Safin tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 1998: toàn bộ đội ngũ nhà báo Brasil được cử đến Paris để đưa tin về sự kiện đã lập tức trở về nhà, bỏ dở phần còn lại của giải đấu không được đưa tin tại Brasil.
Vào năm 1999, anh đã khẳng định mình là tay vợt sân đất nện hàng đầu trong thế hệ của mình, trở thành một trong ba tay vợt Nam Mỹ kết thúc năm trong top 10 trong lịch sử bảng xếp hạng ATP. Vào tháng 4, anh đã giành danh hiệu Monte-Carlo Masters khi đánh bại tay vợt người Chile Marcelo Ríos. Vào tháng 5, anh giành Rome Masters, đánh bại Patrick Rafter trong trận chung kết. Vào tháng 6, anh lọt vào tứ kết tại Pháp Mở rộng, thua Andriy Medvedev, người sau đó trở thành á quân. Tại Wimbledon, anh trở thành tay vợt Brasil đầu tiên lọt vào tứ kết kể từ Thomaz Koch năm 1968. Anh bị Andre Agassi đánh bại ở tứ kết, nhưng chỉ thua một set cho đến giai đoạn đó. Vào tháng 7, anh đánh bại Sébastien Grosjean với tỷ số 9-7 ở set thứ năm trong trận tứ kết Davis Cup 1999 giữa Brasil và đội tuyển Davis Cup Pháp. Trận đấu đó kéo dài 4 giờ 43 phút. Anh cũng trở thành tay vợt Brasil đầu tiên đủ điều kiện tham dự ATP Masters Cup, nay gọi là Nitto ATP Finals, giành một trận thắng nhưng không thể vượt qua vòng bảng.
Sau một chuỗi trận sân đất nện vững chắc khác, Kuerten giành danh hiệu Pháp Mở rộng thứ hai của mình bằng cách đánh bại Magnus Norman (người đã đánh bại anh vài tuần trước đó trong trận chung kết Rome Masters) sau 11 điểm trận. Kuerten trở thành tay vợt Nam Mỹ đầu tiên kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới trong lịch sử bảng xếp hạng ATP (từ năm 1973). Đây là một cuộc cạnh tranh sát sao với tay vợt trẻ đang lên Marat Safin tại sự kiện cuối cùng của năm, Tennis Masters Cup 2000 (trong năm đầu tiên dưới tên đó) ở Lisbon, Bồ Đào Nha, với một trận thua có nghĩa là Safin sẽ là số 1. Mặc dù Safin có 4 cơ hội để kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới, Kuerten đã vượt lên tất cả và kết thúc năm ở vị trí số 1 bằng cách đánh bại Pete Sampras và Andre Agassi trong các trận đấu liên tiếp trên sân cứng trong nhà. Anh đã phá vỡ sự thống trị 8 năm của các tay vợt từ Hoa Kỳ ở vị trí số 1 cuối năm. Anh cũng trở thành tay vợt Nam Mỹ đầu tiên kết thúc trong Top 5 liên tiếp kể từ Guillermo Vilas của Argentina vào các năm 1977-1978.
Năm 2001, anh giành danh hiệu Pháp Mở rộng thứ ba, cùng với các huyền thoại trước đó như Björn Borg (6), Ivan Lendl (3) và Mats Wilander (3) với ba hoặc nhiều hơn ba danh hiệu Pháp Mở rộng trong Kỷ nguyên Mở; cựu vô địch Jim Courier đã trao cúp cho anh. Trên con đường giành danh hiệu, anh đã cứu một điểm trận ở vòng bốn trước đối thủ Michael Russell. Anh cũng giành danh hiệu sân cứng lớn nhất trong sự nghiệp của mình vào tháng 8 tại Cincinnati Masters, nơi anh đánh bại Patrick Rafter trong trận chung kết. Tại Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2001, anh được xếp hạt giống số một nhưng đã thua ở tứ kết trong các set trắng trước hạt giống số bảy Yevgeny Kafelnikov.
Chấn thương bắt đầu ảnh hưởng đến Kuerten khi anh thua 8 trong số 9 trận tiếp theo để kết thúc năm. Mặc dù là ứng cử viên sáng giá để kết thúc năm ở vị trí số 1 thế giới năm thứ hai liên tiếp, nhưng màn trình diễn kém cỏi cuối mùa giải đã khiến Lleyton Hewitt vượt qua anh. Anh dẫn đầu ATP về tiền thưởng trong năm thứ hai liên tiếp, với 4.09 M USD.
4.3. Later Career and Injuries (2002-2007)
Kuerten đã giành ít nhất một danh hiệu mỗi năm trong khoảng thời gian từ 1997 đến 2004. Chuỗi thành tích này đã kết thúc vào năm 2005, khi chấn thương và các màn trình diễn dưới mức trung bình khiến anh không thể giành được các giải đấu. Anh cũng là một thành viên thường xuyên của đội tuyển Brasil tại Davis Cup.
Tại Giải quần vợt Úc Mở rộng 2004, Kuerten lần đầu tiên và duy nhất trong sự nghiệp của mình lọt vào vòng ba bằng cách đánh bại Ivan Ljubičić ở vòng hai trong bốn set nhưng sau đó đã thua Paradorn Schrichapan. Trong một năm đầy chấn thương, Kuerten đã giành một danh hiệu ATP Tour duy nhất tại quê nhà, khi anh giành Brasil Open lần thứ hai. Năm đó, giải đấu đã được chuyển từ tháng 9 sang tháng 2, và bề mặt sân đã được thay đổi từ cứng sang đất nện, do sự thỏa hiệp với Buenos Aires Open, ở Argentina, và Viña del Mar Open, ở Chile, để thắt chặt một chuỗi giải đấu Nam Mỹ rõ ràng. Với chiến thắng này, Kuerten trở thành tay vợt duy nhất giành danh hiệu trên cả hai bề mặt sân, trước đó anh đã giành được nó vào năm 2002.
Kuerten chịu trách nhiệm cho thất bại duy nhất của Roger Federer tại một giải Grand Slam vào năm 2004. Trong lần đối đầu duy nhất trước đó của Kuerten với Federer trên sân đất nện, tại Hamburg Masters 2002, Federer đã đánh bại Kuerten 6-0, 1-6, 6-2. Khi họ gặp lại nhau ở vòng ba tại Pháp Mở rộng năm 2004, Federer đang ở phong độ thống trị, là số 1 thế giới, và được kỳ vọng sẽ giành chiến thắng trước Kuerten đang bị chấn thương. Thay vào đó, chính Kuerten đã áp đảo và thống trị Federer, đánh bại anh ấy trong các set trắng. Đây sẽ là lần cuối cùng Federer bị đánh bại ở bất kỳ Grand Slam nào trước vòng tứ kết cho đến trận thua ở vòng 2 trước Serhiy Stakhovsky tại Wimbledon vào Giải quần vợt Wimbledon 2013.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2004, Kuerten thông báo rằng anh sẽ rút khỏi ATP Tour trong một thời gian không xác định, để trải qua các cuộc kiểm tra chi tiết về hông đã phẫu thuật của mình, vốn được cho là đã bắt đầu làm phiền anh trở lại. Anh đã không thi đấu trở lại trong phần còn lại của năm.
Trong những tháng đầu năm 2006, chấn thương và phong độ yếu kém đã khiến Kuerten không thể giành lại vị thế là một tay vợt hàng đầu thế giới. Xếp hạng ngoài top 200, Kuerten không còn là tay vợt hàng đầu ở Brasil (hiện đứng sau Ricardo Mello và Flávio Saretta) và được cho là sẽ cần thẻ đặc cách để thi đấu bất kỳ giải đấu chính nào trong mùa giải. Nỗ lực trở lại của anh tại Brasil Open 2006 đã bị cắt ngắn ngay vòng đầu tiên. Sau thất bại này, Kuerten đã cố gắng có được thẻ đặc cách để thi đấu tại hai sự kiện Masters Series ở Bắc Mỹ, Miami Masters và Indian Wells Masters, nhưng chấn thương đã buộc Kuerten phải rút lui khỏi cả hai. Liên đoàn Quần vợt Pháp đã thông báo rằng Kuerten, với tư cách là nhà vô địch ba lần, sẽ có mọi cơ hội được cấp thẻ đặc cách để thi đấu tại Giải quần vợt Pháp Mở rộng 2006, với điều kiện anh phải duy trì hoạt động trong suốt mùa giải 2006 trước Pháp Mở rộng. Vì Kuerten đã không hoạt động trên Tour nam kể từ giữa tháng 2, anh đã không được cấp thẻ đặc cách để thi đấu, do đó bỏ lỡ Pháp Mở rộng lần đầu tiên trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình.
Phong độ của Kuerten không cải thiện vào năm 2007. Vì thứ hạng của anh không đủ cao để đủ điều kiện tham dự các giải đấu ATP Tour, Kuerten phải dựa vào thẻ đặc cách để tham gia các sự kiện đó. Kuerten kết thúc năm với kỷ lục thắng-thua 2-7. Vào tháng 11, em trai của Gustavo Kuerten, Guilherme, người mắc chứng bại não, đã qua đời.
4.4. Retirement (2008)
Kuerten đã thông báo rằng anh dự kiến năm 2008 sẽ là năm thi đấu cuối cùng của mình. Kuerten đã chọn sắp xếp lịch trình của mình xoay quanh các giải đấu có giá trị tình cảm đối với anh, như Giải quần vợt Pháp Mở rộng, Brasil Open và Miami Masters. Sau hai trận thua ở vòng đầu tiên trong nội dung đơn (Costa do Sauípe, thua Carlos Berlocq và Miami, thua Sébastien Grosjean), Kuerten đã giành chiến thắng trận đấu cấp độ ATP Masters Series đầu tiên sau một thời gian dài, khi hợp tác với Nicolás Lapentti, ở Miami, đối đầu với Feliciano López và Fernando Verdasco.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2008, Gustavo Kuerten đã chơi trận đấu đơn chuyên nghiệp cuối cùng của mình trước NaN Q 15000 khán giả tại Stade Roland Garros. Anh bước vào sân với bộ đồng phục "may mắn" của mình, bộ màu xanh và vàng giống hệt bộ anh đã mặc vào năm 1997 khi anh giành chức vô địch Pháp Mở rộng đầu tiên. Mặc dù đã cứu một điểm trận trước đối thủ Paul-Henri Mathieu, anh cuối cùng đã thua trong ba set (6-3, 6-4, 6-2) - kết quả tương tự như tỷ số trận chung kết Pháp Mở rộng năm 1997 của anh. Anh đã được các nhà tổ chức giải đấu và tất cả người hâm mộ có mặt vinh danh sau trận đấu vì những gì anh đã đạt được trong suốt sự nghiệp của mình.
5. Davis Cup Participation
Gustavo Kuerten luôn thể hiện lòng yêu nước khi tham gia đội tuyển Davis Cup Brasil, nhưng cũng đối mặt với những tranh cãi và xung đột liên quan đến cách quản lý của Liên đoàn Quần vợt Brasil.
Kuerten lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển Brasil thi đấu Davis Cup vào năm 1996, khi anh trở thành tay vợt có thứ hạng cao thứ hai trong nước (sau Fernando Meligeni). Kể từ đó, Kuerten luôn nhận lời mời thi đấu, khẳng định rằng đó là cơ hội duy nhất để đại diện cho đất nước mình.
Trong các mùa giải 1999 và 2000, Kuerten đã nhận những lời chỉ trích từ người hâm mộ, những người cáo buộc anh không cống hiến 100% trong các trận đấu Davis Cup. Họ cho rằng anh quan tâm hơn đến việc giữ sức cho các giải đấu ATP. Có lần, Kuerten đã phải dừng trận đấu để tranh cãi với một người hâm mộ đã la hét yêu cầu anh tập trung vào trận đấu.
Năm 2004, sau thất bại bất ngờ của Brasil trước đội tuyển Davis Cup Canada trong trận đấu Play-off, và việc đội tuyển bị xuống hạng xuống Nhóm I Châu Mỹ sau khi bị đội tuyển Davis Cup Thụy Điển đánh bại ở vòng đầu tiên năm đó, sự bất mãn với chính sách của Liên đoàn Quần vợt Brasil đã bùng lên. Kuerten đã từ chối thi đấu cho Brasil ở Nhóm I Châu Mỹ. Việc sa thải bất ngờ đội trưởng đội tuyển Brasil khi đó, Ricardo Accioly, là một trong những nguyên nhân. Kuerten cho rằng đó là một quyết định tùy tiện, vì nó được đưa ra mà không tham khảo ý kiến của các cầu thủ. Theo quan điểm của anh, đó chỉ là quyết định cuối cùng trong một chuỗi các quyết định đáng ngờ được đưa ra bởi ban lãnh đạo của Liên đoàn.
Tất cả các tay vợt chuyên nghiệp khác của Brasil đã làm theo Kuerten, cũng như đội trưởng mới được bổ nhiệm, cựu tay vợt Jaime Oncins. Kết quả là, Brasil đã phải thi đấu vòng đầu tiên trong Nhóm Khu vực với một đội gồm các tay vợt trẻ (chỉ có thể thực hiện được sau nhiều cuộc đàm phán, trong thời gian đó đất nước có nguy cơ bị bỏ qua vòng, điều này sẽ dẫn đến việc tự động xuống hạng xuống Nhóm II Châu Mỹ), dẫn đến thất bại và khả năng bị xuống hạng xuống Nhóm II Châu Mỹ cho mùa giải 2005.
Đến năm 2005, sau sự sụp đổ của ban lãnh đạo Liên đoàn Quần vợt Brasil sau cuộc phản đối, Kuerten và các cầu thủ khác đã quyết định trở lại đội, hiện được dẫn dắt bởi cựu tay vợt Fernando Meligeni. Tuy nhiên, Kuerten đã phải trì hoãn việc trở lại của mình ngoài thời điểm kết thúc cuộc đình công của các cầu thủ, vì chấn thương hông đã khiến anh phải nghỉ thi đấu từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 5 năm 2005. Anh trở lại trong trận đấu với Antille thuộc Hà Lan, thuộc vòng hai của Nhóm Khu vực II Châu Mỹ, diễn ra tại Santa Catarina, Brasil (trên sân đất nện) từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 2005.
Bề mặt sân | Sân trong nhà | Sân ngoài trời | Tổng cộng | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Đất nện | Thảm | Cỏ | Cứng | ||||
Thắng | 28 | 6 | |||||
8 | 26 | 34 | |||||
Thua | 8 | 5 | 2 | ||||
5 | 10 | 15 |
6. Personal Life
Ngoài sự nghiệp quần vợt lẫy lừng, cuộc sống cá nhân của Gustavo Kuerten còn thể hiện sự cống hiến cho gia đình, cộng đồng và những sở thích đa dạng, dù cũng có lúc anh phải đối mặt với những thách thức pháp lý.
6.1. Family and Private Life
Kuerten sinh ra tại Florianópolis ở miền nam Brasil. Anh bắt đầu chơi quần vợt khi 6 tuổi. Cuộc đời và sự nghiệp của anh bị đánh dấu bởi bi kịch gia đình. Cha anh, Aldo, một cựu vận động viên quần vợt nghiệp dư, qua đời vì một cơn đau tim vào năm 1985 khi đang làm trọng tài một trận đấu quần vợt trẻ ở Curitiba, khi Kuerten 8 tuổi. Anh trai cả của anh, Raphael, hiện là quản lý kinh doanh của anh. Em trai út của anh, Guilherme, bị thiếu oxy kéo dài và tổn thương não không hồi phục khi sinh, dẫn đến bại não cho đến khi qua đời vào năm 2007. Kuerten đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những khó khăn hàng ngày của em trai mình, sau này anh đã hiến toàn bộ tiền thưởng từ một giải đấu mà anh giành được mỗi năm trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình cho một tổ chức phi chính phủ địa phương chuyên hỗ trợ những người mắc các khuyết tật tương tự. Anh tặng mọi chiếc cúp mình giành được cho em trai út như một món quà lưu niệm, bao gồm cả ba bản sao thu nhỏ của cúp đơn nam Pháp Mở rộng.
Vào tháng 11 năm 2010, đúng vào ngày sinh nhật của em trai Guilherme, anh kết hôn với Mariana Soncini. Cặp đôi có một con gái và một con trai.
6.2. Gustavo Kuerten Institute
Năm 2000, Kuerten thành lập Viện Gustavo Kuerten (Instituto Guga Kuerten), một hiệp hội từ thiện phi lợi nhuận có trụ sở tại Florianópolis, nhằm hỗ trợ trẻ em và người khuyết tật.
6.3. Other Activities and Interests
Kể từ khi giải nghệ, anh đã định cư tại quê hương mình, hòn đảo Florianópolis của Brasil, nơi anh là một thành viên tích cực trong khu vực ven hồ Lagoa da Conceição. Anh vẫn thích dạy và chơi quần vợt với những người đam mê địa phương. Ở quê nhà, anh được biết đến với biệt danh "Cachorro Grande" (tiếng Bồ Đào Nha: "Chó lớn"). Anh là một người đam mê lướt sóng.
Kuerten đã được nhận vào khóa học kịch tại CEART, Trung tâm Nghệ thuật của Đại học Bang Santa Catarina (UDESC) ở Florianópolis. Anh bắt đầu học ở đó vào ngày 16 tháng 2 năm 2009. Đội bóng đá yêu thích của anh là Avaí Futebol Clube của Brasil. Anh là anh họ xa của người mẫu và người dẫn chương trình truyền hình Renata Kuerten.
6.4. Controversies
Vào tháng 10 năm 2016, Kuerten đã ra tòa vì tội trốn thuế, liên quan đến thu nhập kiếm được từ bản quyền và quyền hình ảnh trong khoảng thời gian từ năm 1995 đến 2002. Vào tháng 11 cùng năm, anh bị buộc phải trả 7.00 M BRL (khoảng 2.00 M USD).
7. Awards and Honors
Gustavo Kuerten đã nhận được nhiều giải thưởng và danh hiệu cao quý trong suốt sự nghiệp và sau khi giải nghệ, ghi nhận tài năng thể thao, tinh thần cống hiến và những đóng góp của anh cho quần vợt cũng như xã hội.
Trong các năm 1998, 2002 và 2004, Kuerten đã nhận được Giải thưởng Prix Orange Roland Garros về tinh thần thể thao từ hiệp hội các nhà báo quần vợt. Tại quê hương Brasil, anh đã được trao giải Prêmio Brasil Olímpico vào năm 1999 và được vinh danh là Vận động viên của năm vào các năm 1999 và 2000. Anh đã nhận được Giải thưởng Nhân đạo ATP Arthur Ashe của ATP vào năm 2003. Kuerten được vinh danh trong Đại sảnh Danh vọng Quần vợt Quốc tế vào năm 2012. Vào tháng 6 năm 2016, anh trở thành đại sứ toàn cầu của tổ chức này, đại diện cho tổ chức, đặc biệt ở Nam Mỹ. Năm 2005, Tạp chí Tennis đã xếp anh ở vị trí thứ 37 trong danh sách "40 Tay vợt vĩ đại nhất của Kỷ nguyên Tennis".
Năm 2010, Kuerten được trao giải thưởng cao quý nhất của ITF, Giải thưởng Philippe Chatrier, vì những đóng góp của anh cho quần vợt. Cùng năm đó, anh đã giành Giải thưởng Konex Mercosur từ Argentina với tư cách là tay vợt xuất sắc nhất Nam Mỹ trong thập kỷ đó.
Kuerten đã giành Giải thưởng Tinh thần Thể thao Jean Borotra danh giá của International Club vào năm 2011.
Vào ngày 16 tháng 2 năm 2016, sân trung tâm của Rio Open được đặt theo tên anh, chính thức là sân Guga Kuerten.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2016, anh đã rước Ngọn đuốc Thế vận hội vào Sân vận động Maracanã trong Lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Rio de Janeiro, sau đó chuyển tiếp cho Hortencia Marcari.
Trong sự nghiệp của mình, Kuerten đã sử dụng vợt Head với dây polyester của Luxilon. Anh đã mặc quần áo của Diadora, sau đó chuyển sang Olympikus và Head trong một thời gian ngắn. Năm 2012, sau khi giải nghệ, anh đã ký hợp đồng tài trợ với các thương hiệu Pháp như Lacoste (cho quần áo) và Peugeot (cho quảng cáo truyền hình). Kuerten cũng có thương hiệu quần áo và kính của riêng mình, mang tên "Guga Kuerten".
8. Legacy and Assessment
Gustavo Kuerten được biết đến không chỉ với tài năng vượt trội trên sân đất nện mà còn bởi cá tính lôi cuốn và sự kết nối sâu sắc với người hâm mộ, để lại một di sản bền vững cho quần vợt Brasil và thế giới.
Với phong cách chơi độc đáo, mạnh mẽ và đầy nghệ thuật, Kuerten đã tạo nên một làn gió mới cho quần vợt nam vào cuối những năm 1990 và đầu 2000. Anh được ngưỡng mộ vì sự nhiệt huyết, tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ và khả năng vượt qua nghịch cảnh. Sự trở lại của anh sau chấn thương, đặc biệt là chiến thắng trước Roger Federer tại Pháp Mở rộng 2004, đã thể hiện ý chí kiên cường và khả năng duy trì phong độ đỉnh cao của một nhà vô địch.
Bên cạnh những thành công trên sân, Kuerten còn được biết đến với tính cách khiêm tốn, thân thiện và sự tương tác gần gũi với khán giả. Nụ cười và những cử chỉ đặc trưng của anh, như hình trái tim vẽ trên sân sau mỗi chiến thắng, đã trở thành biểu tượng và giúp anh giành được tình cảm lớn từ người hâm mộ trên toàn thế giới, đặc biệt là tại Pháp Mở rộng, nơi anh được coi là một huyền thoại.
Di sản của Kuerten không chỉ nằm ở các danh hiệu mà còn ở việc anh đã truyền cảm hứng cho một thế hệ mới các tay vợt và người hâm mộ quần vợt ở Brasil. Anh đã nâng cao vị thế của quần vợt Brasil trên trường quốc tế và trở thành một biểu tượng thể thao quốc gia. Viện Gustavo Kuerten do anh thành lập là minh chứng cho cam kết của anh đối với trách nhiệm xã hội, giúp đỡ trẻ em và người khuyết tật, phản ánh giá trị nhân văn mà anh luôn theo đuổi. Tổng thể, Gustavo Kuerten không chỉ là một tay vợt vĩ đại mà còn là một nhân cách lớn, để lại dấu ấn khó phai mờ trong lịch sử quần vợt và lòng người hâm mộ.
9. Career Statistics
Gustavo Kuerten có một sự nghiệp đáng ngưỡng mộ với nhiều danh hiệu lớn, đặc biệt là ba chức vô địch Pháp Mở rộng và vị trí số 1 thế giới.
Kỷ lục đơn của anh là 358 thắng - 195 thua, với 20 danh hiệu đơn. Kỷ lục đôi của anh là 108 thắng - 95 thua, với 8 danh hiệu đôi. Tổng tiền thưởng sự nghiệp của anh là 14.81 M USD. Thứ hạng đôi cao nhất của anh là số 38, đạt được vào ngày 13 tháng 10 năm 1997.
Giải đấu | 1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | Tỷ lệ | Thắng-Thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Úc Mở rộng | A | A | 2R | 2R | 2R | 1R | 2R | 1R | 2R | 3R | A | A | A | A | 0 / 8 | 7-8 |
Pháp Mở rộng | A | 1R | W | 2R | QF | W | W | 4R | 4R | QF | 1R | A | A | 1R | 3 / 11 | 36-8 |
Wimbledon | A | A | 1R | 1R | QF | 3R | A | A | 2R | A | A | A | A | A | 0 / 5 | 7-5 |
Mỹ Mở rộng | A | A | 3R | 2R | QF | 1R | QF | 4R | 1R | 1R | 2R | A | A | A | 0 / 9 | 15-9 |
Tổng cộng thắng-thua | 0-0 | 0-1 | 10-3 | 3-4 | 13-4 | 9-3 | 12-2 | 6-3 | 5-4 | 6-3 | 1-2 | 0-0 | 0-0 | 0-1 | 3 / 33 | 65-30 |
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 1997 | Pháp Mở rộng | Đất nện | Sergi Bruguera | 6-3, 6-4, 6-2 |
Vô địch | 2000 | Pháp Mở rộng | Đất nện | Magnus Norman | 6-2, 6-3, 2-6, 7-6(8-6) |
Vô địch | 2001 | Pháp Mở rộng | Đất nện | Àlex Corretja | 6-7(3-7), 7-5, 6-2, 6-0 |
Giải đấu | 1995 | 1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | Tỷ lệ | Thắng-Thua |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tennis Masters Cup | Không đủ điều kiện | RR | W | RR | Không đủ điều kiện | 1 / 3 | 5-6 |
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 2000 | Tennis Masters Cup, Lisbon, Bồ Đào Nha | Cứng (trong nhà) | Andre Agassi | 6-4, 6-4, 6-4 |
Kết quả | No. | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 1. | 8 tháng 6 năm 1997 | Pháp Mở rộng, Paris, Pháp | Đất nện | Sergi Bruguera | 6-3, 6-4, 6-2 |
Á quân | 1. | 15 tháng 6 năm 1997 | Bologna, Ý | Đất nện | Félix Mantilla | 6-4, 2-6, 1-6 |
Á quân | 2. | 3 tháng 8 năm 1997 | Montréal, Canada | Cứng | Chris Woodruff | 5-7, 6-4, 3-6 |
Vô địch | 2. | 26 tháng 7 năm 1998 | Stuttgart, Đức | Đất nện | Karol Kučera | 4-6, 6-2, 6-4 |
Vô địch | 3. | 4 tháng 10 năm 1998 | Majorca, Tây Ban Nha | Đất nện | Carlos Moyá | 6-7(5-7), 6-2, 6-3 |
Vô địch | 4. | 25 tháng 4 năm 1999 | Monte Carlo, Monaco | Đất nện | Marcelo Ríos | 6-4, 2-1, chấn thương |
Vô địch | 5. | 16 tháng 5 năm 1999 | Rome, Ý | Đất nện | Patrick Rafter | 6-4, 7-5, 7-6(8-6) |
Vô địch | 6. | 5 tháng 3 năm 2000 | Santiago, Chile | Đất nện | Mariano Puerta | 7-6(7-3), 6-3 |
Á quân | 3. | 2 tháng 4 năm 2000 | Miami, Hoa Kỳ | Cứng | Pete Sampras | 1-6, 7-6(7-2), 6-7(5-7), 6-7(8-10) |
Á quân | 4. | 14 tháng 5 năm 2000 | Rome, Ý | Đất nện | Magnus Norman | 3-6, 6-4, 4-6, 4-6 |
Vô địch | 7. | 21 tháng 5 năm 2000 | Hamburg, Đức | Đất nện | Marat Safin | 6-4, 5-7, 6-4, 5-7, 7-6(7-3) |
Vô địch | 8. | 11 tháng 6 năm 2000 | Pháp Mở rộng, Paris, Pháp | Đất nện | Magnus Norman | 6-2, 6-3, 2-6, 7-6(8-6) |
Vô địch | 9. | 20 tháng 8 năm 2000 | Indianapolis, Hoa Kỳ | Cứng | Marat Safin | 3-6, 7-6(7-2), 7-6(7-2) |
Vô địch | 10. | 3 tháng 12 năm 2000 | Tennis Masters Cup, Lisbon, Bồ Đào Nha | Cứng (trong nhà) | Andre Agassi | 6-4, 6-4, 6-4 |
Vô địch | 11. | 25 tháng 2 năm 2001 | Buenos Aires, Argentina | Đất nện | José Acasuso | 6-1, 6-3 |
Vô địch | 12. | 4 tháng 3 năm 2001 | Acapulco, México | Đất nện | Galo Blanco | 6-4, 6-2 |
Vô địch | 13. | 22 tháng 4 năm 2001 | Monte Carlo, Monaco | Đất nện | Hicham Arazi | 6-3, 6-2, 6-4 |
Á quân | 5. | 13 tháng 5 năm 2001 | Rome, Ý | Đất nện | Juan Carlos Ferrero | 6-3, 1-6, 6-2, 4-6, 2-6 |
Vô địch | 14. | 10 tháng 6 năm 2001 | Pháp Mở rộng, Paris, Pháp | Đất nện | Àlex Corretja | 6-7(3-7), 7-5, 6-2, 6-0 |
Vô địch | 15. | 22 tháng 7 năm 2001 | Stuttgart, Đức | Đất nện | Guillermo Cañas | 6-3, 6-2, 6-4 |
Vô địch | 16. | 12 tháng 8 năm 2001 | Cincinnati, Hoa Kỳ | Cứng | Patrick Rafter | 6-1, 6-3 |
Á quân | 6. | 19 tháng 8 năm 2001 | Indianapolis, Hoa Kỳ | Cứng | Patrick Rafter | 2-4, chấn thương |
Vô địch | 17. | 15 tháng 12 năm 2002 | Costa do Sauípe, Brasil | Cứng | Guillermo Coria | 6-7(4-7), 7-5, 7-6(7-2) |
Á quân | 7. | 13 tháng 10 năm 2002 | Lyon, Pháp | Thảm (trong nhà) | Paul-Henri Mathieu | 6-4, 3-6, 1-6 |
Vô địch | 18. | 12 tháng 1 năm 2003 | Auckland, New Zealand | Cứng | Dominik Hrbatý | 6-3, 7-5 |
Á quân | 8. | 16 tháng 3 năm 2003 | Indian Wells, Hoa Kỳ | Cứng | Lleyton Hewitt | 1-6, 1-6 |
Vô địch | 19. | 26 tháng 10 năm 2003 | St. Petersburg, Nga | Cứng (trong nhà) | Sargis Sargsian | 6-4, 6-3 |
Á quân | 9. | 15 tháng 2 năm 2004 | Viña del Mar, Chile | Đất nện | Fernando González | 5-7, 4-6 |
Vô địch | 20. | 29 tháng 2 năm 2004 | Costa do Sauípe, Brasil | Đất nện | Agustín Calleri | 3-6, 6-2, 6-3 |
Kết quả | No. | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Vô địch | 1. | 10 tháng 11 năm 1996 | Santiago, Chile | Đất nện | Fernando Meligeni | Dinu Pescariu Albert Portas | 6-4, 6-2 |
Vô địch | 2. | 13 tháng 4 năm 1997 | Estoril, Bồ Đào Nha | Đất nện | Fernando Meligeni | Andrea Gaudenzi Filippo Messori | 6-2, 6-2 |
Vô địch | 3. | 15 tháng 6 năm 1997 | Bologna, Ý | Đất nện | Fernando Meligeni | Dave Randall Jack Waite | 6-2, 7-5 |
Vô địch | 4. | 20 tháng 7 năm 1997 | Stuttgart, Đức | Đất nện | Fernando Meligeni | Donald Johnson Francisco Montana | 6-4, 6-4 |
Vô địch | 5. | 12 tháng 7 năm 1998 | Gstaad, Thụy Sĩ | Đất nện | Fernando Meligeni | Daniel Orsanic Cyril Suk | 6-4, 7-5 |
Vô địch | 6. | 10 tháng 1 năm 1999 | Adelaide, Úc | Cứng | Nicolás Lapentti | Jim Courier Patrick Galbraith | 6-4, 6-4 |
Vô địch | 7. | 5 tháng 3 năm 2000 | Santiago, Chile | Đất nện | Antonio Prieto | Lan Bale Piet Norval | 6-2, 6-4 |
Vô địch | 8. | 4 tháng 3 năm 2001 | Acapulco, México | Đất nện | Donald Johnson | David Adams Martín García | 6-3, 7-6(7-5) |
Á quân | 1. | 15 tháng 9 năm 2002 | Costa do Sauípe, Brasil | Cứng | André Sá | Scott Humphries Mark Merklein | 3-6, 6-7(1-7) |
Á quân | 2. | 3 tháng 11 năm 2002 | Paris, Pháp | Thảm (trong nhà) | Cédric Pioline | Nicolas Escudé Fabrice Santoro | 3-6, 6-7(6-8) |