1. Thời thơ ấu và học vấn
Alan Wolf Arkin sinh ra tại Brooklyn, một quận của Thành phố New York, vào ngày 26 tháng 3 năm 1934. Ông là con trai của ông David I. Arkin (1906-1980), một giáo viên, họa sĩ, nhà văn và người viết lời bài hát (đồng tác giả bài hát "Black and White" nổi tiếng của Three Dog Night), và bà Beatrice (nhũ danh Wortis) (1909-1991), một giáo viên. Gia đình ông sống ở Crown Heights. Ông được nuôi dưỡng trong một gia đình người Do Thái nhưng "không quá chú trọng vào tôn giáo". Ông bà của ông là những người nhập cư Do Thái từ Ukraina, Nga và Đức.
Khi Alan 11 tuổi, gia đình ông chuyển đến Los Angeles. Tuy nhiên, một cuộc đình công kéo dài 8 tháng ở Hollywood đã khiến cha ông mất việc làm thiết kế bối cảnh. Trong thời kỳ Red Scare những năm 1950, cha mẹ Arkin bị cáo buộc là Cộng sản, và cha ông đã bị sa thải vì từ chối trả lời các câu hỏi về hệ tư tưởng chính trị của mình. Ông David Arkin đã phản đối việc sa thải này nhưng chỉ được minh oan sau khi qua đời.
Arkin bắt đầu học diễn xuất từ năm 10 tuổi và sau đó trở thành sinh viên học bổng tại nhiều học viện kịch nghệ khác nhau, bao gồm một học viện do Benjamin Zemach, một học trò của Konstantin Stanislavski, điều hành. Zemach đã dạy Arkin phương pháp tiếp cận tâm lý trong diễn xuất. Arkin theo học Los Angeles State College từ năm 1951 đến 1953 và cũng từng học tại Bennington College.
2. Sự nghiệp
Sự nghiệp của Alan Arkin trải dài qua bảy thập kỷ, thể hiện sự đa tài của ông trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác nhau, từ âm nhạc, diễn xuất trên sân khấu, điện ảnh, truyền hình cho đến vai trò đạo diễn và tác giả. Ông được biết đến với khả năng biến hóa linh hoạt, mang đến chiều sâu và sự chân thực cho mỗi vai diễn.

2.1. Sự nghiệp âm nhạc
Alan Arkin bắt đầu sự nghiệp vào những năm 1950 với vai trò ca sĩ và nghệ sĩ guitar trong nhóm nhạc dân ca The Tarriers, cùng với Erik Darling và Bob Carey. Nhóm đã có hai bản hit vào năm 1956-1957 là "Cindy, Oh Cindy" và "Day-O (The Banana Boat Song)". Các thành viên trong nhóm đã cùng sáng tác bản "The Banana Boat Song", một bản phối lại với một số lời mới từ bài hát dân ca calypso truyền thống của Jamaica cùng với một bài hát khác có tên "Hill and Gully Rider". Bài hát này đã đạt vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng của tạp chí Billboard cùng năm với phiên bản nổi tiếng hơn của Harry Belafonte. The Tarriers đã trình diễn "Day-O" và "Choucoune" trong bộ phim ca nhạc Calypso Heat Wave năm 1957. Arkin cũng là thành viên của The Tarriers khi họ thu âm bản hit "Cindy, Oh Cindy".
Từ năm 1958 đến 1968, Arkin tiếp tục biểu diễn và thu âm với một nhóm nhạc dân ca dành cho trẻ em có tên The Baby Sitters. Ông cũng đảm nhận vai Tiến sĩ Pangloss trong buổi hòa nhạc dàn dựng vở operetta Candide của Leonard Bernstein, bên cạnh Cunegonde của Madeline Kahn. Năm 1985, ông đã hát hai bài của Jones và Schmidt trong album Contemporary Broadway Revisited của Ben Bagley.
2.2. Sự nghiệp diễn xuất
Sự nghiệp diễn xuất của Alan Arkin là một hành trình đầy thành công và đa dạng, trải dài từ sân khấu kịch, màn ảnh rộng đến các chương trình truyền hình. Ông đã khẳng định mình là một diễn viên tài năng với khả năng hóa thân vào nhiều thể loại vai diễn khác nhau.
2.2.1. Sự nghiệp điện ảnh
Alan Arkin có vai diễn điện ảnh đầu tay trong một vai nhỏ trong bộ phim ca nhạc Calypso Heat Wave (1957). Năm 1966, ông đóng vai chính trong bộ phim hài The Russians Are Coming, the Russians Are Coming của Norman Jewison, đối diễn với Carl Reiner và Eva Marie Saint. Robert Alden của tờ The New York Times đã ca ngợi màn trình diễn của Arkin, mô tả đó là "vai diễn điện ảnh đầy đủ đầu tiên và một màn trình diễn đặc biệt tuyệt vời". Với vai diễn này, Arkin đã nhận được đề cử Giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, đề cử Giải BAFTA cho Diễn viên mới triển vọng nhất trong vai chính, và giành Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất.
Năm tiếp theo, ông xuất hiện trong bộ phim hài tình dục Woman Times Seven của Vittorio De Sica cùng với Shirley MacLaine, và trong bộ phim phim giật gân tâm lý Wait Until Dark của Terence Young cùng với Audrey Hepburn. Năm 1968, ông đóng vai Inspector Jacques Clouseau trong phần thứ ba của loạt phim The Pink Panther, có tựa đề Inspector Clouseau, sau khi Peter Sellers tách khỏi vai diễn này. Bộ phim không được người hâm mộ của Sellers và các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt, nhưng Penelope Gilliatt của tờ The New Yorker gọi đó là "một bộ phim tệ không thể tin được, nhưng Alan Arkin đôi khi rất hài hước trong đó, đặc biệt là khi anh ấy không cố gắng".
Cùng năm đó, ông đóng cùng Sondra Locke trong The Heart Is a Lonely Hunter, vào vai một người câm điếc có ý định tự tử. Với vai diễn này, ông đã nhận được đề cử Giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất, đồng thời giành Giải của Hội phê bình phim New York cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất. Năm 1969, ông đóng vai chính trong bộ phim hài Popi của Arthur Hiller đối diễn với Rita Moreno. Bộ phim kể về một người góa vợ Puerto Rico đang vật lộn để nuôi hai con trai nhỏ của mình ở khu phố Spanish Harlem của Thành phố New York. Arkin nhận được một đề cử khác cho Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất.
Năm 1970, Arkin đóng vai Đại úy John Yossarian trong bộ phim Catch-22 của Mike Nichols. Bộ phim là một bộ phim chiến tranh hài kịch đen châm biếm được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 1961 của Joseph Heller. Arkin đóng cùng với Bob Balaban, Martin Balsam, Buck Henry, Bob Newhart, Austin Pendleton, Martin Sheen, Jon Voight và Orson Welles. Arkin đã nhận được đề cử Giải Laurel cho màn trình diễn của mình.
Trong những năm 1970, Arkin đóng vai chính trong nhiều bộ phim thuộc các thể loại khác nhau, bao gồm bộ phim hài hành trình Deadhead Miles (1972) của Vernon Zimmerman, bản chuyển thể của Gene Saks từ vở kịch cùng tên của Neil Simon Last of the Red Hot Lovers (1972) với Sally Kellerman và Paula Prentiss, bộ phim hành động hài đen Freebie and the Bean (1974), bộ phim hài kịch Rafferty and the Gold Dust Twins (1975) với Kellerman và Mackenzie Phillips, bộ phim truyền hình về nhà tù năm 1978 The Other Side of Hell (1978), bộ phim hài miền Tây Hearts of the West (1975), và bộ phim bí ẩn của Anh The Seven-Per-Cent Solution (1976). Năm 1979, ông đóng vai chính và đồng sản xuất bộ phim hài The In-Laws. Arkin đóng cùng Peter Falk trong một bộ phim do Arthur Hiller đạo diễn và Andrew Bergman viết kịch bản.
Năm 1980, Arkin đóng vai chính trong bộ phim hài Simon của Marshall Brickman, bộ phim nhận được nhiều đánh giá trái chiều nhưng đã mang về cho ông đề cử Giải Sao Thổ. Năm tiếp theo, ông đóng vai chính trong ba bộ phim hài: Improper Channels, Chu Chu and the Philly Flash đối diễn với Carol Burnett, và Full Moon High. Ông cũng lồng tiếng cho phù thủy Schmendrick trong bộ phim hoạt hình kinh điển The Last Unicorn (1982). Trong những năm 1980, Arkin thường xuyên xuất hiện trong nhiều chương trình truyền hình khác nhau. Năm 1985, Arkin đóng vai chính trong bộ phim truyền hình The Fourth Wise Man cùng với Martin Sheen và Eileen Brennan. Ông đã giành giải Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất tại Giải Genie cho vai Reuben Shapiro trong bộ phim chuyển thể năm 1985 của tiểu thuyết bán tự truyện Joshua Then and Now của Mordecai Richler.
Năm 1990, Arkin xuất hiện trong một vai phụ trong bộ phim lãng mạn giả tưởng Edward Scissorhands của Tim Burton cùng với Johnny Depp và Winona Ryder. Ông cũng xuất hiện trong bộ phim người thật đóng của Walt Disney Pictures The Rocketeer (1991) cùng với Bill Campbell và Jennifer Connelly, và bộ phim chuyển thể từ vở kịch của David Mamet Glengarry Glen Ross (1992) cùng với Al Pacino, Jack Lemmon và Kevin Spacey. Năm 1993, ông xuất hiện trong các bộ phim hài Indian Summer và So I Married an Axe Murderer. Năm tiếp theo, Arkin góp mặt trong bộ phim North của Rob Reiner.
Năm 1996, Arkin xuất hiện trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết Mother Night của Kurt Vonnegut cùng với Nick Nolte, Sheryl Lee, John Goodman và Kirsten Dunst. Năm tiếp theo, Arkin xuất hiện trong bộ phim hài Grosse Pointe Blank cùng với John Cusack cũng như bộ phim khoa học viễn tưởng dystopian Gattaca cùng với Ethan Hawke. Năm 1998, ông đóng vai chính trong bộ phim hài Slums of Beverly Hills của Tamara Jenkins cùng với Natasha Lyonne. Năm 1999, ông đóng vai Max Frankfurter trong bộ phim Jakob the Liar cùng với Robin Williams. Năm 2001, ông xuất hiện trong bộ phim hài America's Sweethearts cùng với John Cusack, Julia Roberts, Billy Crystal và Catherine Zeta-Jones. Ông cũng đóng vai chính trong bộ phim tâm lý Thirteen Conversations About One Thing của Jill Sprecher cùng với Matthew McConaughey, John Turturro và Clea DuVall. Với màn trình diễn của mình, ông đã nhận được Giải của Hội phê bình phim Boston cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất.
Năm 2006, Arkin xuất hiện trong một vai phụ trong bộ phim hài kịch Little Miss Sunshine cùng với Greg Kinnear, Steve Carell, Toni Collette, Paul Dano và Abigail Breslin. Vai diễn của ông trong bộ phim phim độc lập này, một người ông thô tục có sở thích hít heroin, đã mang về cho ông Giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất; Giải BAFTA cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất; và Giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Ở tuổi 72 tuổi, Arkin là người chiến thắng giải Oscar Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất già thứ sáu. Khi nhận giải Oscar vào ngày 25 tháng 2 năm 2007, Arkin nói:
"Hơn bất cứ điều gì, tôi vô cùng xúc động trước sự trân trọng cởi mở mà bộ phim nhỏ của chúng tôi đã nhận được, điều mà trong thời đại phân mảnh này, nói lên một cách cởi mở về khả năng của sự ngây thơ, trưởng thành và kết nối."
Trong khoảng thời gian từ 2006 đến 2007, Arkin được chọn vào các vai phụ trong Rendition với vai Thượng nghị sĩ Hawkins và The Santa Clause 3: The Escape Clause với vai Bud Newman, cùng với Ann-Margret đóng vai vợ ông. Năm 2008, ông xuất hiện trong các bộ phim hài Sunshine Cleaning cùng với Emily Blunt và Amy Adams, Get Smart cùng với Steve Carell, Anne Hathaway và Dwayne Johnson, và Marley & Me cùng với Owen Wilson và Jennifer Aniston. Năm tiếp theo, ông xuất hiện trong The Private Lives of Pippa Lee của Rebecca Miller và City Island của Raymond De Felitta (cả hai đều năm 2010).
Năm 2012, ông xuất hiện trong một vai phụ với vai nhà sản xuất Hollywood Lester Siegel trong bộ phim tâm lý Argo của Ben Affleck cùng với Affleck, John Goodman và Bryan Cranston. Với màn trình diễn của mình, ông đã nhận được đề cử Giải Oscar thứ tư, lần thứ hai cho Giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, thua Christoph Waltz trong Django Unchained. Ông cũng nhận được đề cử Giải Quả cầu vàng, Giải BAFTA và Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh. Ông đã giành Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên điện ảnh. Cùng năm đó, ông xuất hiện trong bộ phim tâm lý tội phạm Stand Up Guys, đối diễn với Al Pacino và Christopher Walken. Năm tiếp theo, ông xuất hiện trong bộ phim hài The Incredible Burt Wonderstone cùng với Steve Carell, Steve Buscemi, Olivia Wilde và Jim Carrey và Grudge Match cùng với Robert De Niro, Sylvester Stallone và Kim Basinger. Ông tiếp tục đóng các vai phụ trong các bộ phim như bộ phim tâm lý thể thao Million Dollar Arm (2014) cùng với Jon Hamm và bộ phim hài Giáng sinh Love the Coopers (2015).
Hai vai diễn điện ảnh cuối cùng của Arkin là vào năm 2020 và 2022. Ông đóng cùng Mark Wahlberg và Winston Duke trong bộ phim Netflix năm 2020 Spenser Confidential. Vai diễn cuối cùng của ông là lồng tiếng cho nhân vật Wild Knuckles trong bộ phim hoạt hình của Universal Pictures Minions: The Rise of Gru, bộ phim đã được giới phê bình và thương mại đón nhận thành công. Vào tháng 9 năm 2022, Arkin đã tham gia cùng Casey Affleck, Kathy Bates và Teyana Taylor trong bộ phim kinh dị trộm cướp độc lập The Smack, bộ phim đang trong giai đoạn tiền sản xuất trước khi ông qua đời.
2.2.2. Sự nghiệp truyền hình
Vào đầu những năm 1960, Alan Arkin xuất hiện trong các tập phim của East Side/West Side (1964) và ABC Stage 67 (1966). Từ năm 1970 đến 1971, ông cùng người vợ thứ hai Barbara Dana xuất hiện trong các phân đoạn của chương trình Sesame Street với vai cặp đôi hài hước Larry và Phyllis. Năm 1978, ông tham gia bộ phim truyền hình về nhà tù The Other Side of Hell và bộ phim truyền hình The Defection of Simas Kudirka cùng với Shirley Knight.

Trong những năm 1980, Arkin thường xuyên xuất hiện trong nhiều chương trình truyền hình khác nhau, bao gồm The Muppet Show và St. Elsewhere. Năm 1985, Arkin đóng vai chính trong bộ phim truyền hình The Fourth Wise Man cùng với Martin Sheen và Eileen Brennan. Năm 1987, ông tham gia sitcom Harry, nhưng chương trình này đã bị hủy sau bốn tập có lượng người xem thấp. Quan trọng hơn, cùng năm đó, ông đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Escape from Sobibor, hóa thân thành Leon Felhendler. Bộ phim xoay quanh cuộc vượt ngục hàng loạt khỏi trại hủy diệt của Đức Quốc Xã tại Sobibor. Với vai diễn này, Arkin đã nhận được đề cử Giải Emmy cho Nam diễn viên chính xuất sắc trong loạt phim giới hạn hoặc tuyển tập hoặc phim điện ảnh và đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Loạt phim, phim ngắn tập hoặc phim truyền hình.
Năm 2003, ông đóng vai chính trong bộ phim truyền hình The Pentagon Papers với vai Harry Rowen, bộ phim đã mang về cho ông đề cử Giải Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc trong loạt phim giới hạn hoặc tuyển tập hoặc phim điện ảnh. Cùng năm đó, ông đóng vai chính trong một bộ phim truyền hình khác là And Starring Pancho Villa as Himself cùng với Antonio Banderas. Năm 2005, ông xuất hiện với vai Marty Adler trong sitcom Will & Grace của NBC trong tập "It's a Dad, Dad, Dad, Dad World".
Từ năm 2015 đến 2016, Arkin lồng tiếng cho J. D. Salinger trong loạt phim hoạt hình của Netflix BoJack Horseman. Từ năm 2018 đến 2019, ông đóng cùng Michael Douglas trong loạt phim Netflix The Kominsky Method, bộ phim đã mang về cho ông hai đề cử liên tiếp cho Giải Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc trong loạt phim hài, hai đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Loạt phim, phim ngắn tập hoặc phim truyền hình, và một số đề cử Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh.
2.2.3. Sự nghiệp sân khấu
Alan Arkin là một thành viên ban đầu của nhóm hài kịch The Second City vào những năm 1960. Ông ra mắt sân khấu Broadway với tư cách là người biểu diễn trong vở From the Second City tại Royale Theatre vào năm 1961. Năm 1963, ông đóng vai chính David Kolowitz trong vở kịch hài Enter Laughing của Joseph Stein trên sân khấu Broadway. Nhà phê bình Howard Taubman của tờ The New York Times đã dành lời khen ngợi cho màn trình diễn của Arkin, mô tả đó là "một ví dụ điển hình của một diễn viên sắc sảo đang trêu chọc nghề nghiệp của mình". Với vai diễn này, ông đã nhận được Giải Tony cho Nam diễn viên nổi bật nhất trong vở kịch và Giải Theatre World. Năm tiếp theo, ông trở lại Broadway đóng vai Harry Berlin trong vở Luv do Mike Nichols đạo diễn. Arkin đóng cùng Eli Wallach và Anne Jackson.

Năm 1966, ông đạo diễn vở kịch Hail Scrawdyke! tại Booth Theatre, Broadway. Năm 1972, ông đạo diễn vở The Sunshine Boys của Neil Simon tại Broadhurst Theatre, Broadway. Ông đã nhận được đề cử Giải Tony cho Đạo diễn vở kịch xuất sắc nhất, nhưng thua A. J. Antoon cho vở That Championship Season. Năm 1973, ông đạo diễn vở Molly tại Alvin Theatre, Broadway. Năm 1998, ông là đạo diễn, đồng biên kịch và người biểu diễn trong vở Power Plays tại Seattle và sau đó là Manhattan Theater Club, New York. Năm 2000, ông đạo diễn vở Taller Than a Dwarf tại Longacre Theatre, Broadway.
2.3. Sự nghiệp đạo diễn
Năm 1969, Alan Arkin có tác phẩm đạo diễn đầu tay là bộ phim thiếu nhi dài 12 phút được đề cử giải Oscar có tựa đề People Soup, với sự tham gia của hai con trai ông là Adam Arkin và Matthew Arkin. Dựa trên một câu chuyện cùng tên mà ông đã xuất bản trên tạp chí Galaxy Science Fiction vào năm 1958, People Soup là một câu chuyện giả tưởng về hai cậu bé thử nghiệm các nguyên liệu nhà bếp khác nhau cho đến khi họ pha chế ra một loại súp ma thuật biến họ thành các loài động vật và đồ vật khác nhau.
Năm 1971, ông đạo diễn bộ phim hài kịch đen Little Murders, sau này trở thành một tác phẩm kinh điển đình đám. Được viết bởi họa sĩ hoạt hình Jules Feiffer, đây là một bộ phim hài đen với sự tham gia của Elliott Gould và Marcia Rodd về một cô gái, Patsy (Rodd), đưa bạn trai Alfred (Gould) về nhà để gặp gia đình rối loạn chức năng của mình giữa một loạt các vụ xả súng ngẫu nhiên, đình công rác thải và mất điện tàn phá khu phố. Bộ phim đã nhận được một đánh giá ấm áp từ Roger Greenspun và một đánh giá tích cực hơn từ Vincent Canby trên tờ The New York Times. Đánh giá của Roger Ebert trên tờ Chicago Sun-Times rất nhiệt tình, nói rằng "Một trong những lý do khiến nó thành công và thực sự là một sự phản ánh rõ ràng về những tâm trạng đen tối hơn của Mỹ là vì nó chia nhỏ khán giả thành những cá nhân cô lập, dễ bị tổn thương và không chắc chắn." Arkin cũng đạo diễn bộ phim Fire Sale (1977). Ngoài ra, ông còn đạo diễn Samuel Beckett Is Coming Soon (1993) và Arigo (2000).
3. Đời tư
Alan Arkin đã kết hôn ba lần; hai cuộc hôn nhân đầu tiên của ông đều kết thúc bằng ly hôn. Ông và người vợ đầu tiên, Jeremy Yaffe, có hai con trai: Adam (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1956) và Matthew (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1960).
Ông kết hôn với nữ diễn viên kiêm biên kịch Barbara Dana từ năm 1964 đến 1994; bà đã xuất hiện cùng ông trong các phân đoạn của Sesame Street vào những năm 1970. Họ sống ở Chappaqua, New York. Năm 1967, họ có một con trai, Anthony ("Tony").

Năm 1996, hai năm sau khi ly hôn với Barbara, Arkin kết hôn với nhà trị liệu tâm lý Tiến sĩ Suzanne Newlander. Ông đã lấy họ của bà để đặt tên cho nhân vật của mình, Norman Newlander, trong loạt phim Netflix The Kominsky Method.
Bắt đầu từ cuối những năm 1990, ông và Suzanne duy trì một ngôi nhà theo mùa ở Cape Breton Island thuộc tỉnh Nova Scotia của Canada. Arkin nói rằng ông "cảm thấy một năng lượng ở Cape Breton mà [ông] chưa bao giờ cảm thấy ở bất cứ nơi nào trên thế giới". Năm 2019, Arkin đã thu âm giọng nói của mình cho nhân vật Wild Knuckles trong Minions: The Rise of Gru tại một phòng thu âm ở Point Aconi, gần nhà ông.
4. Cái chết
Alan Arkin qua đời tại nhà riêng ở San Marcos, California, vào ngày 29 tháng 6 năm 2023, hưởng thọ 89 tuổi. Cái chết của ông được cho là do các vấn đề về tim, mà ông đã có tiền sử bệnh.
5. Giải thưởng và đề cử
Trong suốt sự nghiệp của mình, Alan Arkin đã nhận được nhiều giải thưởng và đề cử danh giá, khẳng định tài năng và những đóng góp to lớn của ông cho ngành nghệ thuật.
- Giải Oscar:
- Đoạt giải Giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Little Miss Sunshine (2006).
- Đề cử Giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Russians Are Coming, the Russians Are Coming (1966).
- Đề cử Giải Oscar cho Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho The Heart Is a Lonely Hunter (1968).
- Đề cử Giải Oscar cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Argo (2012).
- Giải BAFTA:
- Đoạt giải Giải BAFTA cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Little Miss Sunshine (2006).
- Đề cử Giải BAFTA cho Diễn viên mới triển vọng nhất trong vai chính cho The Russians Are Coming, the Russians Are Coming (1967).
- Đề cử Giải BAFTA cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Argo (2013).
- Giải Quả cầu vàng:
- Đoạt giải Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất cho The Russians Are Coming, the Russians Are Coming (1966).
- Đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất cho The Heart Is a Lonely Hunter (1969).
- Đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phim chính kịch xuất sắc nhất cho Popi (1970).
- Đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Loạt phim, phim ngắn tập hoặc phim truyền hình cho Escape from Sobibor (1988).
- Đề cử Giải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất - Loạt phim, phim ngắn tập hoặc phim truyền hình cho The Kominsky Method (2019, 2020).
- Giải Tony:
- Đoạt giải Giải Tony cho Nam diễn viên nổi bật nhất trong vở kịch cho Enter Laughing (1963).
- Đề cử Giải Tony cho Đạo diễn vở kịch xuất sắc nhất cho The Sunshine Boys (1973).
- Giải Emmy:
- Đề cử Giải Emmy cho Nam diễn viên chính xuất sắc trong loạt phim giới hạn hoặc tuyển tập hoặc phim điện ảnh cho Escape from Sobibor (1987).
- Đề cử Giải Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc trong loạt phim giới hạn hoặc tuyển tập hoặc phim điện ảnh cho The Pentagon Papers (2003).
- Đề cử Giải Emmy cho Nam diễn viên phụ xuất sắc trong loạt phim hài cho The Kominsky Method (2019, 2020).
- Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh:
- Đoạt giải Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên điện ảnh cho Little Miss Sunshine (2007).
- Đoạt giải Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên điện ảnh cho Argo (2013).
- Đề cử Giải Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh cho Diễn xuất xuất sắc của dàn diễn viên trong loạt phim hài cho The Kominsky Method (2019, 2020).
- Các giải thưởng khác:
- Giải Theatre World cho Enter Laughing (1963).
- Đề cử Giải Laurel cho Catch-22 (1970).
- Đề cử Giải Sao Thổ cho Simon (1980).
- Đoạt giải Giải Genie cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Joshua Then and Now (1985).
- Đoạt giải Giải Tinh thần độc lập cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Little Miss Sunshine (2007).
- Đoạt giải Giải của Hội phê bình phim Vancouver cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Little Miss Sunshine (2007).
- Năm 2014, Arkin nhận Giải Gregory Peck cho Thành tựu điện ảnh xuất sắc để vinh danh sự nghiệp của ông tại Liên hoan phim quốc tế San Diego.
6. Tác phẩm đã xuất bản
Alan Arkin là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm truyện thiếu nhi và hồi ký:
- Tony's Hard Work Day (minh họa bởi James Stevenson, 1972)
- The Lemming Condition (minh họa bởi Joan Sandin, 1976)
- Halfway Through the Door: An Actor's Journey Toward Self (1979)
- The Clearing (1986, phần tiếp theo của Lemming)
- An Improvised Life (hồi ký, 2011)
- Out of My Mind (hồi ký thứ hai, 2018)
7. Phim điện ảnh
Năm | Tựa đề | Vai diễn | Ghi chú |
---|---|---|---|
1957 | Calypso Heat Wave | Ca sĩ chính của Tarriers | Vai diễn không được ghi nhận |
1963 | That's Me | Phim ngắn; đồng thời là biên kịch | |
1966 | The Russians Are Coming, the Russians Are Coming | Trung úy Rozanov | |
The Last Mohican | Ông Ableman | Phim ngắn; đồng thời là biên kịch | |
1967 | Woman Times Seven | Fred | Phân đoạn: The Suicides |
Wait Until Dark | Roat / Harry Roat Jr. / Harry Roat Sr. | ||
1968 | Inspector Clouseau | Thanh tra Jacques Clouseau | |
The Heart Is a Lonely Hunter | John Singer | ||
1969 | Popi | Abraham Rodriguez | |
The Monitors | Người thu gom rác trong quảng cáo | Vai khách mời | |
People Soup | Adam | Phim ngắn; đồng thời là biên kịch và đạo diễn | |
1970 | Catch-22 | Đại úy John Yossarian | |
1971 | Little Murders | Trung úy Miles Practice | Đồng thời là đạo diễn |
1972 | Deadhead Miles | Cooper | |
Last of the Red Hot Lovers | Barney Cashman | ||
1974 | Freebie and the Bean | Trung sĩ thám tử Dan "Bean" Delgado | |
1975 | Rafferty and the Gold Dust Twins | Gunny Rafferty | Còn được biết đến là Rafferty and the Highway Hustlers |
Hearts of the West | Burt Kessler | ||
1976 | The Seven-Per-Cent Solution | Sigmund Freud | |
1977 | Fire Sale | Ezra Fikus | Đồng thời là đạo diễn |
1979 | The In-Laws | Sheldon S. Kornpett, D.D.S. | Đồng thời là nhà sản xuất điều hành |
The Magician of Lublin | Yasha Mazur | ||
1980 | Simon | Giáo sư Simon Mendelssohn | |
1981 | Improper Channels | Jeffrey Martley | |
Chu Chu and the Philly Flash | Flash | ||
Full Moon High | Tiến sĩ Brand | ||
1982 | The Last Unicorn | Schmendrick | Lồng tiếng |
1983 | The Return of Captain Invincible | Captain Invincible | |
1985 | Joshua Then and Now | Reuben Shapiro | |
Bad Medicine | Tiến sĩ Ramón Madera | ||
1986 | Big Trouble | Leonard Hoffman | |
1990 | Coupe de Ville | Fred Libner | |
Edward Scissorhands | Bill Boggs | ||
Havana | Joe Volpi | ||
1991 | The Rocketeer | A. "Peevy" Peabody | |
1992 | Glengarry Glen Ross | George Aaronow | |
1993 | Indian Summer | Unca Lou Handler | |
So I Married an Axe Murderer | Cảnh sát trưởng | ||
Samuel Beckett Is Coming Soon | Đạo diễn | Đồng thời là đạo diễn | |
1994 | North | Thẩm phán Buckle | |
1995 | Picture Windows | Tully | Phân đoạn: Soir Bleu |
The Jerky Boys: The Movie | Ernie Lazarro | ||
Steal Big Steal Little | Lou Perilli | ||
1996 | Heck's Way Home | Người bắt chó | |
Mother Night | George Kraft | ||
1997 | Grosse Pointe Blank | Tiến sĩ Oatman | |
Four Days in September | Charles Burke Elbrick | ||
Gattaca | Thám tử Hugo | ||
1998 | Slums of Beverly Hills | Murray Samuel Abromowitz | |
1999 | Jakob the Liar | Max Frankfurter | |
2000 | Magicians | Milo | Phát hành trực tiếp ra video |
2001 | America's Sweethearts | Hướng dẫn viên sức khỏe | |
Thirteen Conversations About One Thing | Gene | ||
2004 | Eros | Tiến sĩ Pearl / Hal | Phân đoạn: Equilibrium |
Noel | Artie Venizelos | ||
2006 | Little Miss Sunshine | Edwin Hoover | Được ghi nhận là Ông nội |
Firewall | Arlin Forester | ||
The Novice | Cha Benkhe | ||
The Santa Clause 3: The Escape Clause | Bud Newman | ||
Raising Flagg | Flagg Purdy | ||
2007 | Rendition | Thượng nghị sĩ Hawkins | |
2008 | Sunshine Cleaning | Joe Lorkowski | |
Get Smart | Trưởng phòng | ||
Marley & Me | Arnie Klein | ||
2009 | The Private Lives of Pippa Lee | Herb Lee | |
City Island | Michael Malakov | ||
2011 | Thin Ice | Gorvy Hauer | |
The Change-Up | Mitchell Planko Sr. | ||
The Muppets | Hướng dẫn viên du lịch | Vai khách mời | |
2012 | Argo | Lester Siegel | |
Stand Up Guys | Richard Hirsch | ||
2013 | The Incredible Burt Wonderstone | Rance Holloway | |
In Security | Cảnh sát Riggs | ||
Grudge Match | Louis "Lightning" Conlon | ||
2014 | Million Dollar Arm | Ray Poitevint | |
2015 | Love the Coopers | Bucky | |
2017 | Going in Style | Albert Garner | |
2019 | Dumbo | J. Griffin Remington | |
2020 | Spenser Confidential | Henry Cimoli | Phim gốc của Netflix |
2022 | Minions: The Rise of Gru | Wild Knuckles | Lồng tiếng |
2024 | The Smack | Smack | Phát hành sau khi mất |
8. Phim truyền hình
Năm | Tựa đề | Vai diễn | Ghi chú |
---|---|---|---|
1964 | East Side/West Side | Ted Miller | Tập: "The Beatnik and the Politician" |
1966 | ABC Stage 67 | Barney Kempinski | Tập: "The Love Song of Barney Kempinski" |
1970-1971 | Sesame Street | Larry | 4 tập, cùng với người vợ lúc bấy giờ Barbara Dana trong vai Phyllis |
1978 | The Other Side of Hell | Frank Dole | Phim truyền hình |
The Defection of Simas Kudirka | Simas Kudirka | Phim truyền hình | |
1979 | Carol Burnett & Company | Chính mình | Tập #1.2 |
1980 | The Muppet Show | Chính mình | Tập: "Alan Arkin" |
1983 | St. Elsewhere | Jerry Singleton | 3 tập |
1984 | American Playhouse | Flagg Purdy | Tập: "A Matter of Principle" |
1985 | Faerie Tale Theatre | Bo | Tập: "The Emperor's New Clothes" |
The Fourth Wise Man | Orontes | Phim truyền hình | |
1986 | A Deadly Business | Harold Kaufman | Phim truyền hình |
1987 | Harry | Harry Porschak | 7 tập |
Escape from Sobibor | Leon Feldhendler | Phim truyền hình | |
1988 | Necessary Parties | Archie Corelli | Phim truyền hình |
1993 | Cooperstown | Harry Willette | Phim truyền hình |
Taking the Heat | Tommy Canard | Phim truyền hình | |
1994 | Doomsday Gun | Đại tá Yossi | Phim truyền hình |
1995 | Picture Windows | Tully | Loạt phim ngắn |
1997 | Chicago Hope | Zoltan Karpathein | Tập: "The Son Also Rises" |
1999 | Blood Money | Willy "The Hammer" Canzaro | Phim truyền hình |
2001 | Varian's War | Bill Freier | Phim truyền hình |
2001-2002 | 100 Centre Street | Joe Rifkind | 10 tập |
2003 | The Pentagon Papers | Harry Rowen | Phim truyền hình |
And Starring Pancho Villa as Himself | Sam Drebben | Phim truyền hình | |
2005 | Will & Grace | Marty Adler | Tập: "It's a Dad, Dad, Dad, Dad World" |
2015-2016 | BoJack Horseman | J. D. Salinger | Lồng tiếng, 4 tập |
2017 | Get Shorty | Eugene | Tập: "The Yips" |
2018-2019 | The Kominsky Method | Norman Newlander | 16 tập |
9. Sân khấu
Năm | Tựa đề | Vai trò | Địa điểm |
---|---|---|---|
1961 | From the Second City | Người biểu diễn | Royale Theatre, Broadway |
1963 | Enter Laughing | Người biểu diễn - David Kolowitz | Henry Miller's Theatre, Broadway |
1964 | Luv | Người biểu diễn - Harry Berlin | Booth Theatre, Broadway |
1966 | Hail Scrawdyke! | Đạo diễn | Booth Theatre, Broadway |
1972 | The Sunshine Boys | Đạo diễn | Broadhurst Theatre, Broadway |
1973 | Molly | Đạo diễn | Alvin Theatre, Broadway |
1998 | Power Plays | Đạo diễn/Đồng biên kịch/Người biểu diễn | Seattle; Manhattan Theater Club, New York |
2000 | Taller Than a Dwarf | Đạo diễn | Longacre Theatre, Broadway |