1. Tổng quan
Libya là một quốc gia nằm ở Bắc Phi, giáp với Địa Trung Hải về phía bắc, Ai Cập về phía đông, Sudan về phía đông nam, Tchad và Niger về phía nam, Algérie và Tunisia về phía tây. Với diện tích gần 1.80 M km2, Libya là quốc gia lớn thứ tư ở châu Phi và thứ 17 trên thế giới. Thủ đô và thành phố lớn nhất là Tripoli, nơi tập trung một phần đáng kể dân số khoảng 7 triệu người của đất nước. Ba vùng lịch sử truyền thống của Libya là Tripolitania, Fezzan và Cyrenaica. Về mặt địa lý, phần lớn lãnh thổ Libya là sa mạc Sahara, với khí hậu khô cằn khắc nghiệt; tuy nhiên, các vùng ven biển phía bắc có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa hơn. Libya sở hữu trữ lượng dầu mỏ đã được xác minh thuộc hàng lớn nhất thế giới, là nền tảng kinh tế chủ yếu của quốc gia.
Lịch sử Libya ghi dấu ấn của nhiều nền văn minh cổ đại như người Phoenicia, Hy Lạp cổ đại, Đế quốc La Mã, sau đó là các cuộc chinh phục của người Hồi giáo và sự thống trị của Đế quốc Ottoman. Vào đầu thế kỷ 20, Libya trở thành thuộc địa của Ý. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Libya giành độc lập vào năm 1951 dưới hình thức một vương quốc. Năm 1969, một cuộc đảo chính quân sự do Muammar Gaddafi lãnh đạo đã lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập Cộng hòa Ả Rập Libya và sau đó là chế độ Jamahiriya. Thời kỳ Gaddafi kéo dài 42 năm, đặc trưng bởi hệ tư tưởng "Lý thuyết Quốc tế thứ Ba" trong Sách Xanh, các chính sách xã hội chủ nghĩa dựa trên nguồn thu từ dầu mỏ, nhưng cũng đi kèm với sự cai trị độc đoán, đàn áp chính trị và cô lập quốc tế.
Năm 2011, trong bối cảnh Mùa xuân Ả Rập, các cuộc biểu tình chống chính phủ đã bùng phát thành Nội chiến Libya lần thứ nhất, dẫn đến sự can thiệp quân sự của NATO và sự sụp đổ của chế độ Gaddafi. Tuy nhiên, giai đoạn chuyển tiếp sau đó rơi vào hỗn loạn, với sự nổi lên của nhiều phe phái vũ trang, sự chia rẽ chính trị giữa chính phủ ở Tripoli và Tobruk, và sự trỗi dậy của các nhóm Hồi giáo cực đoan, đỉnh điểm là Nội chiến Libya lần thứ hai. Mặc dù một thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết vào năm 2020 và các nỗ lực thành lập chính phủ thống nhất quốc gia đã được tiến hành, tình hình chính trị Libya vẫn còn nhiều bất ổn, các cuộc tổng tuyển cử bị trì hoãn và các thách thức về kinh tế, xã hội, nhân quyền vẫn còn dai dẳng. Trận lũ lụt Derna năm 2023 đã gây ra thảm họa nhân đạo nghiêm trọng, đặt thêm gánh nặng lên quá trình tái thiết đất nước.
2. Tên gọi
Tên gọi "Libya" có nguồn gốc từ tiếng Ai Cập cổ đại là "Lebu" (rbw𓂋𓏤𓐁𓏤𓂝𓏤𓅱𓏤Egyptian (Ancient) rbw), một thuật ngữ dùng để chỉ chung một liên minh lớn các bộ lạc người Berber cổ đại ở phía đông Libya, những người sinh sống quanh các vùng tươi tốt của Cyrenaica và Marmarica. Tên này xuất hiện lần đầu tiên trong một bản khắc của Ramesses II. Dưới thời Pharaoh Merneptah, khoảng năm 1208 TCN, một đội quân 40.000 người và một liên minh các bộ lạc được gọi là "Các tù trưởng vĩ đại của Libu", do Vua Meryey lãnh đạo, đã tiến hành một cuộc chiến chống lại Ai Cập ở vùng châu thổ phía tây, sự kiện này được ghi lại trong Bia chiến thắng Merneptah (Great Karnak Inscription).
Tiếng Hy Lạp cổ đại đã vay mượn thuật ngữ này và gọi là ΛιβύηLibyēGreek, Ancient. Ban đầu, người Hy Lạp cổ đại sử dụng "Libya" để chỉ toàn bộ vùng đất Bắc Phi ở phía tây Ai Cập, và đôi khi là cả lục địa châu Phi. Sau này, khi người Ý chiếm đóng khu vực này từ Đế quốc Ottoman vào đầu thế kỷ 20, nhà địa lý người Ý Federico Minutilli đã đề xuất sử dụng lại tên gọi "Libya" vào năm 1903 để thay thế các thuật ngữ dùng cho Tripolitania thuộc Ottoman. Năm 1934, Ý chính thức hợp nhất ba vùng Cyrenaica, Tripolitania và Fezzan thành một thuộc địa thống nhất và đặt tên là "Libya".
Sau khi giành độc lập vào năm 1951, quốc gia này có tên là Vương quốc Libya Thống nhất (المملكة الليبية المتحدةal-Mamlakah al-Lībiyyah al-MuttaḥidahArabic). Năm 1963, tên được đổi thành Vương quốc Libya (المملكة الليبيةal-Mamlakah al-LībiyyahArabic). Sau cuộc đảo chính năm 1969 do Muammar Gaddafi lãnh đạo, tên nước được đổi thành Cộng hòa Ả Rập Libya (الجمهورية العربية الليبيةal-Jumhūriyyah al-'Arabiyyah al-LībiyyahArabic). Từ năm 1977 đến 1986, tên chính thức là Jamahiriya Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Ả Rập Libya (الجماهيرية العربية الليبية الشعبية الاشتراكيةal-Jamāhīriyyah al-'Arabiyyah al-Lībiyyah ash-Sha'biyyah al-IshtirākiyyahArabic), và từ năm 1986 đến 2011 là Đại Jamahiriya Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Ả Rập Libya (الجماهيرية العربية الليبية الشعبية الاشتراكية العظمىal-Jamāhīriyyah al-'Arabiyyah al-Lībiyyah ash-Sha'biyyah al-Ishtirākiyyah al-'UẓmáArabic).
Hội đồng Dân tộc Chuyển tiếp, thành lập năm 2011, gọi nhà nước đơn giản là "Libya". Liên Hợp Quốc chính thức công nhận tên nước là "Libya" vào tháng 9 năm 2011. Tháng 11 năm 2011, tiêu chuẩn ISO 3166-1 được thay đổi để phản ánh tên nước mới là "Libya" trong tiếng Anh và "Libye (la)" trong tiếng Pháp.
Vào tháng 1 năm 2013, Đại hội Quốc dân (GNC) đã chính thức đổi tên Libya thành Nhà nước Libya (دولة ليبياDawlat LībiyāArabic) cho đến khi hiến pháp mới được ban hành. Tháng 12 năm 2017, Phái đoàn Thường trực của Libya tại Liên Hợp Quốc đã thông báo cho Liên Hợp Quốc rằng tên chính thức của đất nước từ đó là "Nhà nước Libya"; "Libya" vẫn là tên gọi tắt chính thức.
3. Lịch sử
Lịch sử Libya trải dài từ các nền văn minh cổ đại, qua các thời kỳ thống trị của các đế quốc, đến việc thành lập quốc gia hiện đại và những biến động chính trị gần đây, phản ánh một di sản phong phú và phức tạp.
3.1. Thời cổ đại và trung đại


Đồng bằng ven biển Libya đã có người thuộc thời đại đồ đá mới sinh sống từ khoảng 8000 năm TCN. Tổ tiên nói tiếng Phi-Á của người Berber được cho là đã lan rộng ra khu vực này vào cuối Thời đại đồ đồng. Tên gọi sớm nhất được biết đến của một bộ lạc như vậy là người Garamantes, có trụ sở tại Germa. Người Phoenicia là những người đầu tiên thành lập các trạm buôn bán ở Libya. Đến thế kỷ thứ 5 TCN, thuộc địa lớn nhất của người Phoenicia là Carthage, đã mở rộng quyền bá chủ của mình trên phần lớn Bắc Phi, nơi một nền văn minh đặc biệt, được gọi là Punic, đã hình thành.
Năm 630 TCN, người Hy Lạp cổ đại đã thuộc địa hóa khu vực xung quanh Barca ở Đông Libya và thành lập thành phố Cyrene. Trong vòng 200 năm, bốn thành phố Hy Lạp quan trọng khác đã được thành lập trong khu vực được gọi là Cyrenaica. Khu vực này là quê hương của trường phái triết học nổi tiếng của người Cyrenaic. Năm 525 TCN, quân đội Ba Tư của Cambyses II đã tràn qua Cyrenaica, và trong hai thế kỷ tiếp theo, vùng này nằm dưới sự cai trị của Ba Tư hoặc Ai Cập. Alexandros Đại đế đã chấm dứt sự cai trị của Ba Tư vào năm 331 TCN và nhận được cống nạp từ Cyrenaica. Đông Libya một lần nữa rơi vào quyền kiểm soát của người Hy Lạp, lần này là một phần của Vương quốc Ptolemaic.
Sau sự sụp đổ của Carthage, người La Mã không chiếm đóng ngay Tripolitania (vùng xung quanh Tripoli), mà để nó dưới sự kiểm soát của các vị vua Numidia, cho đến khi các thành phố ven biển yêu cầu và nhận được sự bảo hộ của La Mã. Ptolemy Apion, vị vua Hy Lạp cuối cùng, đã để lại Cyrenaica cho Rome, và Rome chính thức sáp nhập khu vực này vào năm 74 TCN và hợp nhất nó với Crete thành một tỉnh La Mã là Creta et Cyrenaica. Là một phần của tỉnh Africa Nova, Tripolitania rất thịnh vượng, và đạt đến thời kỳ hoàng kim vào thế kỷ thứ 2 và 3, khi thành phố Leptis Magna, quê hương của triều đại Severan, ở đỉnh cao của nó.
Ở phía Đông, các cộng đồng Kitô giáo đầu tiên của Cyrenaica được thành lập vào thời Hoàng đế Claudius. Nó bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Kitos và gần như bị tước đoạt dân số người Hy Lạp và người Do Thái. Mặc dù được Trajan tái định cư bằng các thuộc địa quân sự, từ đó bắt đầu sự suy tàn của nó. Libya sớm chuyển sang Kitô giáo Nicene và là quê hương của Giáo hoàng Victor I; tuy nhiên, Libya cũng là nơi có nhiều hình thức Kitô giáo sơ kỳ không theo Nicene, chẳng hạn như Thuyết Arian và Donatism.
Dưới sự chỉ huy của Amr ibn al-As, quân đội Rashidun đã chinh phục Cyrenaica. Năm 647, một đội quân do Abdullah ibn Saad lãnh đạo đã chiếm Tripoli từ tay Byzantine một cách dứt khoát. Fezzan bị Uqba ibn Nafi chinh phục vào năm 663. Các bộ lạc Berber ở vùng nội địa chấp nhận Hồi giáo, tuy nhiên họ chống lại sự cai trị chính trị của người Ả Rập.
Trong vài thập kỷ tiếp theo, Libya nằm dưới sự cai trị của Vương triều Umayyad của Caliph ở Damascus cho đến khi người Abbasid lật đổ người Umayyad vào năm 750, và Libya nằm dưới sự cai trị của Baghdad. Khi Caliph Harun al-Rashid bổ nhiệm Ibrahim I ibn al-Aghlab làm thống đốc Ifriqiya vào năm 800, Libya được hưởng quyền tự trị đáng kể dưới triều đại Aghlabid. Đến thế kỷ thứ 10, người Fatimid theo dòng Shiite kiểm soát Tây Libya, và cai trị toàn bộ khu vực vào năm 972 và bổ nhiệm Bologhine ibn Ziri làm thống đốc.
Triều đại Zirid của Ibn Ziri cuối cùng đã ly khai khỏi người Fatimid Shiite, và công nhận người Abbasid Sunni ở Baghdad là Caliph hợp pháp. Để trả đũa, người Fatimid đã mang hàng ngàn người di cư chủ yếu từ hai bộ lạc Ả Rập Qaisi, Banu Sulaym và Banu Hilal đến Bắc Phi. Hành động này đã làm thay đổi đáng kể cấu trúc của vùng nông thôn Libya, và củng cố sự Ả Rập hóa về văn hóa và ngôn ngữ của khu vực.
Tuy nhiên, sự cai trị của Zirid ở Tripolitania không kéo dài, và vào năm 1001, người Berber của Banu Khazrun đã ly khai. Tripolitania vẫn nằm dưới sự kiểm soát của họ cho đến năm 1146, khi khu vực này bị người Norman ở Sicily chiếm đóng. Trong 50 năm tiếp theo, Tripolitania là nơi diễn ra nhiều trận chiến giữa người Ayyubid, những người cai trị Almohad và quân nổi dậy của Banu Ghaniya. Sau đó, một vị tướng của Almohad, Muhammad ibn Abu Hafs, đã cai trị Libya từ năm 1207 đến năm 1221 trước khi thành lập Vương quốc Hafsid của Tunisia sau này, độc lập với Almohad. Vào thế kỷ 14, triều đại Banu Thabit cai trị Tripolitania trước khi quay trở lại quyền kiểm soát trực tiếp của Hafsid. Đến thế kỷ 16, người Hafsid ngày càng bị cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực giữa Tây Ban Nha và Đế quốc Ottoman.
Sau khi sự kiểm soát của Abbasid suy yếu, Cyrenaica nằm dưới sự cai trị của các nhà nước có trụ sở tại Ai Cập như Tulunid, Ikhshidid, Ayyubid, và Mamluk trước khi bị Ottoman chinh phục vào năm 1517. Fezzan giành được độc lập dưới triều đại Awlad Muhammad sau sự cai trị của Kanem-Bornu. Người Ottoman cuối cùng đã chinh phục Fezzan từ năm 1556 đến năm 1577.
3.2. Thời kỳ Đế quốc Ottoman

Sau một cuộc xâm lược Tripoli thành công của Habsburg Tây Ban Nha vào năm 1510, và việc giao nó cho Hiệp sĩ St. John, đô đốc Đế quốc Ottoman Sinan Pasha đã nắm quyền kiểm soát Libya vào năm 1551. Người kế nhiệm ông, Turgut Reis, được phong làm Bey của Tripoli và sau đó là Pasha của Tripoli vào năm 1556. Đến năm 1565, quyền hành chính với tư cách là nhiếp chính ở Tripoli được giao cho một pasha do sultan ở Constantinople/Istanbul trực tiếp bổ nhiệm. Vào những năm 1580, những người cai trị Fezzan đã tuyên thệ trung thành với sultan, và mặc dù quyền lực của Ottoman không có ở Cyrenaica, một bey đã được bố trí ở Benghazi vào cuối thế kỷ sau để làm đại diện cho chính phủ ở Tripoli. Nô lệ châu Âu và một số lượng lớn nô lệ da đen được vận chuyển từ Sudan cũng là một đặc điểm của cuộc sống hàng ngày ở Tripoli. Năm 1551, Turgut Reis đã bắt làm nô lệ gần như toàn bộ dân số của đảo Gozo thuộc Malta, khoảng 5.000 người, và đưa họ đến Libya.

Theo thời gian, quyền lực thực sự nằm trong tay đội quân janissary của pasha. Năm 1611, các dey đã tổ chức một cuộc đảo chính chống lại pasha, và Dey Sulayman Safar được bổ nhiệm làm người đứng đầu chính phủ. Trong một trăm năm tiếp theo, một loạt các dey đã cai trị Tripolitania một cách hiệu quả. Hai Dey quan trọng nhất là Mehmed Saqizli (trị vì 1631-49) và Osman Saqizli (trị vì 1649-72), cả hai cũng là Pasha, đã cai trị khu vực một cách hiệu quả. Người sau cũng đã chinh phục Cyrenaica.
Thiếu sự chỉ đạo từ chính phủ Ottoman, Tripoli rơi vào một thời kỳ hỗn loạn quân sự, trong đó các cuộc đảo chính nối tiếp nhau và ít dey nào tại vị được hơn một năm. Một trong những cuộc đảo chính đó do sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ Ahmed Karamanli lãnh đạo. Triều đại Karamanli cai trị từ năm 1711 đến năm 1835 chủ yếu ở Tripolitania, và cũng có ảnh hưởng ở Cyrenaica và Fezzan vào giữa thế kỷ 18. Tuy nhiên, những người kế vị Ahmed tỏ ra kém năng lực hơn ông, nhưng sự cân bằng quyền lực mong manh của khu vực đã cho phép Karamanli. Cuộc nội chiến Tripolitania 1793-95 xảy ra trong những năm đó. Năm 1793, sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ Ali Pasha đã phế truất Hamet Karamanli và khôi phục lại Tripolitania về sự cai trị của Ottoman trong một thời gian ngắn. Anh trai của Hamet, Yusuf Karamanli (trị vì 1795-1832) đã tái lập nền độc lập của Tripolitania.
Vào đầu thế kỷ 19, chiến tranh nổ ra giữa Hoa Kỳ và Tripolitania, và một loạt các trận chiến đã diễn ra trong cái được gọi là Chiến tranh Barbary lần thứ nhất và Chiến tranh Barbary lần thứ hai. Đến năm 1819, các hiệp ước khác nhau của Chiến tranh Napoléon đã buộc các quốc gia Barbary phải từ bỏ hoàn toàn nạn cướp biển, và nền kinh tế của Tripolitania bắt đầu sụp đổ. Khi Yusuf suy yếu, các phe phái nổi lên xung quanh ba người con trai của ông. Nội chiến nhanh chóng xảy ra.
Sultan Ottoman Mahmud II đã gửi quân đến với mục đích bề ngoài là lập lại trật tự, đánh dấu sự kết thúc của cả triều đại Karamanli và một Tripolitania độc lập. Trật tự không dễ dàng được phục hồi, và cuộc nổi dậy của người Libya dưới sự lãnh đạo của Abd-El-Gelil và Gûma ben Khalifa kéo dài cho đến khi người sau qua đời vào năm 1858. Giai đoạn thứ hai của sự cai trị trực tiếp của Ottoman chứng kiến những thay đổi về hành chính và trật tự hơn trong việc quản lý ba tỉnh của Libya. Cuối cùng, Ottoman đã tái khẳng định quyền cai trị đối với Fezzan từ năm 1850 đến năm 1875 để thu lợi từ thương mại Sahara.
3.3. Thời kỳ thuộc địa Ý và chiếm đóng của Đồng Minh

Sau Chiến tranh Ý-Thổ Nhĩ Kỳ (1911-1912), Ý đồng thời biến ba vùng thành thuộc địa. Từ năm 1912 đến 1927, lãnh thổ Libya được gọi là Bắc Phi thuộc Ý. Từ năm 1927 đến 1934, lãnh thổ được chia thành hai thuộc địa, Cyrenaica thuộc Ý và Tripolitania thuộc Ý, do các thống đốc Ý cai trị. Khoảng 150.000 người Ý đã định cư ở Libya, chiếm khoảng 20% tổng dân số.
Omar Mukhtar nổi lên như một nhà lãnh đạo phong trào kháng chiến chống lại sự thuộc địa hóa của Ý và trở thành một anh hùng dân tộc mặc dù ông bị bắt và hành quyết vào ngày 16 tháng 9 năm 1931. Khuôn mặt của ông hiện được in trên tờ tiền mười dinar Libya để tưởng nhớ và ghi nhận lòng yêu nước của ông. Một nhà lãnh đạo kháng chiến nổi bật khác, Idris al-Mahdi as-Senussi (sau này là Vua Idris I), Tiểu vương Cyrenaica, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến Libya cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.

Cái gọi là "bình định Libya" của người Ý đã dẫn đến cái chết hàng loạt của người dân bản địa ở Cyrenaica, giết chết khoảng một phần tư dân số 225.000 người của Cyrenaica. Ilan Pappé ước tính rằng từ năm 1928 đến năm 1932, quân đội Ý "đã giết một nửa dân số Bedouin (trực tiếp hoặc qua bệnh tật và đói kém trong các trại tập trung của Ý ở Libya)."
Năm 1934, Ý hợp nhất Cyrenaica, Tripolitania và Fezzan và lấy tên "Libya" (được người Hy Lạp cổ đại sử dụng cho toàn bộ Bắc Phi trừ Ai Cập) cho thuộc địa thống nhất, với Tripoli làm thủ đô. Người Ý nhấn mạnh việc cải thiện cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng. Đặc biệt, họ đã mở rộng đáng kể mạng lưới đường sắt và đường bộ của Libya từ năm 1934 đến 1940, xây dựng hàng trăm kilômét đường và đường sắt mới, đồng thời khuyến khích thành lập các ngành công nghiệp mới và hàng chục làng nông nghiệp mới.
Tháng 6 năm 1940, Ý tham gia Thế chiến II. Libya trở thành nơi diễn ra Chiến dịch Bắc Phi đầy cam go, cuối cùng kết thúc bằng thất bại của Ý và đồng minh Đức vào năm 1943.
Từ năm 1943 đến 1951, Libya nằm dưới sự chiếm đóng của Đồng Minh. Quân đội Anh quản lý hai tỉnh cũ của Libya thuộc Ý là Tripolitana và Cyrenaïca, trong khi Pháp quản lý tỉnh Fezzan. Năm 1944, Idris trở về từ nơi lưu vong ở Cairo nhưng từ chối trở lại định cư lâu dài ở Cyrenaica cho đến khi một số khía cạnh của sự kiểm soát nước ngoài được dỡ bỏ vào năm 1947. Theo các điều khoản của Hiệp ước hòa bình năm 1947 với Đồng Minh, Ý từ bỏ mọi yêu sách đối với Libya.
3.4. Vương quốc Libya

Một hội đồng quốc gia đã soạn thảo một hiến pháp thành lập một chế độ quân chủ và ngỏ lời mời lên ngôi cho Sayyid Idris, Tiểu vương Cyrenaica. Sayyid Idris giữ vị trí được kính trọng là người lãnh đạo của huynh đệ tôn giáo Senussi có ảnh hưởng, được thành lập bởi ông nội của ông vào thế kỷ trước như một phản ứng đối với ảnh hưởng của phương Tây trong thế giới Ả Rập. Phong trào Hồi giáo sùng đạo này đã thu hút được sự ủng hộ đáng kể từ những người Bedouin sa mạc và trở thành một lực lượng chính trị lớn ở Libya. Trong những năm suy tàn của Đế quốc Ottoman, nó đã cai trị hiệu quả nội địa Libya.
Sinh ra tại một ốc đảo ở Cyrenaica vào năm 1890, Sayyid Idris đã đảm nhận vai trò lãnh đạo Senussi khi còn trẻ. Ông đã trải qua một thời gian dài lưu vong ở Ai Cập dưới sự cai trị của Ý và trở về Libya sau khi phe Trục bị trục xuất vào năm 1943. Vào ngày 24 tháng 12 năm 1951, với tư cách là Vua Idris I, ông đã phát biểu trước quốc dân qua đài phát thanh từ Benghazi. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1949, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng Libya nên độc lập trước ngày 1 tháng 1 năm 1952. Idris đại diện cho Libya trong các cuộc đàm phán của Liên Hợp Quốc sau đó. Đến ngày 24 tháng 12 năm 1951, Libya tuyên bố độc lập với tên gọi Vương quốc Libya Thống nhất, một chế độ quân chủ lập hiến và cha truyền con nối dưới thời Vua Idris I.
Tuy nhiên, vương quốc mới phải đối mặt với những triển vọng đầy thách thức. Nó thiếu các ngành công nghiệp và tài nguyên nông nghiệp quan trọng. Các mặt hàng xuất khẩu chính của vương quốc bao gồm da sống, len, ngựa và lông đà điểu. Mặc dù có một trong những mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới, nó cũng phải chịu một trong những tỷ lệ mù chữ cao nhất. Vua Idris I, khi đó đã ở tuổi sáu mươi, không có người thừa kế trực tiếp. Người em họ mà ông kết hôn năm 1932 được cho là đã sảy thai nhiều lần, và con trai của họ, sinh năm 1953, đã qua đời ngay sau khi sinh. Thái tử Rida, em trai của Idris, là người thừa kế được chỉ định, nhưng hoàng gia lại đầy rẫy những tranh chấp không dứt. Lòng sùng đạo Hồi giáo của Vua Idris, vốn củng cố sự ủng hộ của ông trong dân chúng Bedouin, lại mâu thuẫn với các trào lưu hiện đại hóa và trí thức đô thị ở Libya. Để giải quyết sự kình địch giữa Cyrenaica và Tripolitania, Benghazi và Tripoli thay phiên nhau làm thủ đô hai năm một lần.
Sự xuất hiện nhanh chóng của một số lượng lớn các quan chức đã dẫn đến một chính phủ hoàng gia tốn kém. Việc phát hiện ra trữ lượng dầu mỏ đáng kể vào năm 1959 và thu nhập sau đó từ việc bán xăng dầu đã cho phép một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới thành lập một nhà nước cực kỳ giàu có. Mặc dù dầu mỏ đã cải thiện đáng kể tài chính của chính phủ Libya, sự bất bình của dân chúng bắt đầu gia tăng do sự tập trung ngày càng tăng của cải quốc gia vào tay Vua Idris và giới tinh hoa quốc gia. Sự bất mãn này tiếp tục gia tăng cùng với sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Nasser và Chủ nghĩa dân tộc Ả Rập trên khắp Bắc Phi và Trung Đông.
3.5. Chế độ Gaddafi

Ngày 1 tháng 9 năm 1969, một nhóm sĩ quan quân đội nổi dậy do Muammar Gaddafi lãnh đạo đã tiến hành một cuộc đảo chính chống lại Vua Idris, được gọi là Cách mạng Al Fateh. Gaddafi được gọi là "Lãnh đạo Anh em và Người dẫn đường Cách mạng" trong các tuyên bố của chính phủ và báo chí chính thức của Libya. Ông bắt đầu thống trị lịch sử và chính trị Libya trong bốn thập kỷ tiếp theo. Nhằm giảm bớt ảnh hưởng của Ý, vào tháng 10 năm 1970, tất cả tài sản thuộc sở hữu của người Ý đã bị tịch thu và cộng đồng người Ý gồm 12.000 người đã bị trục xuất khỏi Libya cùng với cộng đồng nhỏ hơn của người Do Thái Libya gốc Ý. Ngày này trở thành một ngày lễ quốc gia được gọi là "Ngày báo thù"; sau đó nó được đổi tên thành "Ngày hữu nghị" do sự cải thiện trong quan hệ Ý-Libya.
Sự gia tăng thịnh vượng của Libya đi kèm với sự đàn áp chính trị nội bộ ngày càng tăng, và bất đồng chính kiến bị coi là bất hợp pháp theo Luật 75 năm 1973. Việc giám sát rộng rãi dân chúng được thực hiện thông qua các Ủy ban Cách mạng của Gaddafi. Gaddafi cũng muốn nới lỏng các hạn chế xã hội nghiêm ngặt áp đặt lên phụ nữ bởi chế độ trước đó, thành lập Tổ chức Phụ nữ Cách mạng để khuyến khích cải cách. Năm 1970, một luật được ban hành khẳng định bình đẳng giới và trả lương ngang bằng. Năm 1971, Gaddafi tài trợ cho việc thành lập Liên đoàn Phụ nữ Libya Chung. Năm 1972, một luật được thông qua hình sự hóa việc kết hôn của các cô gái dưới mười sáu tuổi và biến sự đồng ý của người phụ nữ thành một điều kiện tiên quyết cần thiết cho một cuộc hôn nhân.
Ngày 25 tháng 10 năm 1975, một âm mưu đảo chính đã được một nhóm 20 sĩ quan quân đội, chủ yếu đến từ thành phố Misrata, tiến hành. Điều này dẫn đến việc bắt giữ và hành quyết những kẻ âm mưu đảo chính. Tháng 3 năm 1977, Libya chính thức trở thành "Jamahiriya Ả Rập Libya Xã hội chủ nghĩa Nhân dân". Gaddafi chính thức chuyển giao quyền lực cho các Ủy ban Nhân dân Tổng quát và từ đó tuyên bố mình không hơn gì một nhân vật tượng trưng. Cấu trúc quản trị jamahiriya mới (tiếng Ả Rập có nghĩa là "cộng hòa") mà ông thành lập được chính thức gọi là "dân chủ trực tiếp". Gaddafi, trong tầm nhìn của mình về chính phủ dân chủ và triết học chính trị, đã xuất bản Sách Xanh vào năm 1975. Cuốn sách ngắn của ông ghi lại một sự pha trộn đại diện của chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa dân tộc Ả Rập với một chút chủ nghĩa thượng đẳng của người Bedouin.
3.5.1. Phương thức cai trị và tư tưởng
Triết lý cai trị độc đáo của chế độ Gaddafi là Jamahiriya, một hình thức "nhà nước của quần chúng" dựa trên các đại hội nhân dân cơ sở và các ủy ban nhân dân. Về mặt lý thuyết, hệ thống này nhằm mục đích thực hiện nền dân chủ trực tiếp, nơi người dân trực tiếp tham gia vào việc ra quyết định mà không cần thông qua đại diện. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực vẫn tập trung cao độ trong tay Gaddafi và vòng tròn thân tín của ông, với các Ủy ban Cách mạng đóng vai trò giám sát và thực thi ý chí của nhà lãnh đạo. Các đại hội và ủy ban nhân dân thường chỉ đóng vai trò phê chuẩn các quyết định đã được đưa ra từ cấp trên.
Nền tảng tư tưởng của chế độ là "Lý thuyết Quốc tế thứ Ba", được trình bày trong Sách Xanh xuất bản năm 1975. Sách Xanh bao gồm ba phần: giải pháp cho vấn đề dân chủ (dân chủ trực tiếp), giải pháp cho vấn đề kinh tế (chủ nghĩa xã hội), và cơ sở xã hội của Lý thuyết Quốc tế thứ Ba. Nó phê phán cả chủ nghĩa tư bản phương Tây và chủ nghĩa cộng sản, đề xuất một con đường riêng cho Libya và thế giới Ả Rập. Lý thuyết này kết hợp các yếu tố của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc Ả Rập và một số khía cạnh của tư tưởng Hồi giáo, nhấn mạnh đến vai trò của tôn giáo và truyền thống trong xã hội.
Việc áp dụng trên thực tế bao gồm việc quốc hữu hóa nhiều ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là dầu mỏ, và thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng rãi. Tuy nhiên, hệ thống này cũng dẫn đến sự thiếu vắng các thể chế dân chủ thực sự, không có tự do báo chí, tự do lập hội, và các quyền chính trị cơ bản bị hạn chế nghiêm ngặt. Bất kỳ sự bất đồng chính kiến nào cũng bị đàn áp mạnh mẽ. Cấu trúc xã hội bị chi phối bởi các mối quan hệ bộ lạc, và Gaddafi thường sử dụng các mối quan hệ này để củng cố quyền lực của mình, đồng thời kìm hãm sự phát triển của một xã hội dân sự độc lập.
3.5.2. Quan hệ đối ngoại và cô lập quốc tế

Chính sách đối ngoại của Libya dưới thời Gaddafi mang đậm dấu ấn cá nhân của nhà lãnh đạo này, với đường lối chống Hoa Kỳ và phương Tây mạnh mẽ, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc và các nhóm bị coi là khủng bố. Libya đã cung cấp vũ khí và hỗ trợ tài chính cho nhiều tổ chức trên thế giới, từ các phong trào chống chủ nghĩa đế quốc ở Châu Phi và Mỹ Latinh đến các nhóm vũ trang ở Châu Âu như IRA.
Tháng 2 năm 1977, Libya bắt đầu cung cấp vũ khí cho Goukouni Oueddei và Lực lượng Vũ trang Nhân dân ở Chad. Cuộc chiến Chad-Libya bắt đầu một cách nghiêm túc khi sự hỗ trợ của Libya cho các lực lượng nổi dậy ở miền bắc Chad leo thang thành một cuộc xâm lược. Cùng năm đó, Libya và Ai Cập đã có một cuộc chiến tranh biên giới kéo dài bốn ngày được gọi là Chiến tranh Libya-Ai Cập. Cả hai quốc gia đã đồng ý ngừng bắn dưới sự trung gian của Tổng thống Algérie Houari Boumédiène. Hàng trăm người Libya đã thiệt mạng khi nước này hỗ trợ Idi Amin của Uganda trong cuộc chiến chống lại Tanzania. Gaddafi cũng tài trợ cho nhiều nhóm khác nhau từ các phong trào chống hạt nhân đến các công đoàn Úc.
Libya bị cáo buộc đứng sau nhiều vụ tấn công khủng bố, nổi bật nhất là vụ đánh bom máy bay Pan Am 103 trên bầu trời Lockerbie, Scotland năm 1988, khiến 270 người thiệt mạng. Vụ việc này dẫn đến các lệnh trừng phạt cứng rắn của Liên Hợp Quốc và sự cô lập quốc tế sâu sắc đối với Libya. Năm 1986, Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc không kích vào Tripoli và Benghazi nhằm đáp trả cáo buộc Libya dính líu đến vụ đánh bom một vũ trường ở Berlin mà quân nhân Mỹ thường lui tới, một hành động mà Gaddafi coi là âm mưu ám sát ông.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 2000, đặc biệt sau sự kiện 11 tháng 9 và cuộc chiến tranh Iraq, Gaddafi đã có những bước đi nhằm bình thường hóa quan hệ với phương Tây. Năm 2003, Libya tuyên bố từ bỏ chương trình phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và đồng ý bồi thường cho các nạn nhân vụ Lockerbie. Điều này dẫn đến việc dỡ bỏ dần các lệnh trừng phạt và cải thiện quan hệ ngoại giao.
Mặc dù có sự cải thiện, chính sách đối ngoại của Gaddafi vẫn khó đoán định và thường gây tranh cãi. Việc bình thường hóa quan hệ giúp Libya tái hòa nhập cộng đồng quốc tế ở một mức độ nào đó, nhưng di sản của sự ủng hộ khủng bố và lập trường chống phương Tây vẫn là một rào cản lớn. Chính sách đối ngoại này có tác động tiêu cực đến người dân Libya do sự cô lập kinh tế và chính trị, cũng như gây khó khăn cho các nhóm thiểu số và những người bất đồng chính kiến trong nước.
3.5.3. Tác động kinh tế - xã hội và nhân quyền
Dưới thời Gaddafi, nguồn thu khổng lồ từ dầu mỏ đã cho phép Libya thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội rộng rãi. Giáo dục và y tế được miễn phí, nhà ở được trợ cấp và chính phủ đã đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Nổi bật nhất là Dự án Sông Nhân tạo Vĩ đại, một hệ thống kênh dẫn nước khổng lồ nhằm cung cấp nước ngọt từ các tầng ngậm nước ở sa mạc Sahara đến các vùng ven biển, giải quyết vấn đề thiếu nước nghiêm trọng. Thu nhập bình quân đầu người của Libya tăng lên đáng kể, nằm trong số các quốc gia cao nhất châu Phi, và Chỉ số Phát triển Con người (HDI) cũng đạt mức cao nhất châu lục. Libya cũng là một quốc gia không có nợ nước ngoài.
Tuy nhiên, những thành tựu kinh tế - xã hội này đi kèm với một cái giá đắt về nhân quyền và tự do chính trị. Chế độ Gaddafi là một chế độ độc tài, mọi hình thức bất đồng chính kiến đều bị đàn áp tàn bạo thông qua lực lượng an ninh và các Ủy ban Cách mạng. Không có tự do báo chí, tự do ngôn luận hay tự do lập hội. Các vụ bắt giữ tùy tiện, tra tấn và mất tích bí ẩn những người bị coi là mối đe dọa đối với chế độ là phổ biến.
Mặc dù có sự cải thiện về mức sống chung, sự bất bình đẳng kinh tế vẫn gia tăng, với sự giàu có tập trung trong tay gia đình Gaddafi và giới tinh hoa thân cận. Quyền của người lao động bị hạn chế, không có công đoàn độc lập. Các nhóm thiểu số, đặc biệt là người Berber, phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bị hạn chế trong việc thể hiện văn hóa và ngôn ngữ của họ. Tình hình của các nhóm dễ bị tổn thương khác như người di cư và người tị nạn cũng rất đáng lo ngại. Sự thiếu vắng các thể chế dân chủ và pháp quyền đã tạo ra một môi trường mà ở đó các vi phạm nhân quyền có thể diễn ra mà không bị trừng phạt.
3.6. Nội chiến Libya lần thứ nhất và sự sụp đổ của chế độ Gaddafi


Bị ảnh hưởng bởi làn sóng Mùa xuân Ả Rập đã lật đổ các nhà lãnh đạo ở Tunisia và Ai Cập, các cuộc biểu tình chống chính phủ Gaddafi bắt đầu nổ ra ở Libya vào ngày 15 tháng 2 năm 2011, và leo thang thành một cuộc nổi dậy toàn diện vào 17 tháng 2. Chế độ độc tài của Muammar Gaddafi đã phản kháng mạnh mẽ hơn nhiều so với các chế độ ở Ai Cập và Tunisia. Trong khi việc lật đổ các chế độ ở Ai Cập và Tunisia là một quá trình tương đối nhanh chóng, chiến dịch của Gaddafi đã gây ra những đình trệ đáng kể cho cuộc nổi dậy ở Libya.
Đến ngày 20 tháng 2, tình trạng bất ổn đã lan đến Tripoli. Ngày 27 tháng 2 năm 2011, Hội đồng Dân tộc Chuyển tiếp (NTC) được thành lập để quản lý các khu vực Libya dưới sự kiểm soát của phe nổi dậy, do Mahmoud Jibril làm thủ tướng lâm thời. Ngày 10 tháng 3 năm 2011, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đã công nhận hội đồng này là đại diện hợp pháp của nhân dân Libya và rút lại sự công nhận đối với chế độ Gaddafi.
Các lực lượng trung thành với Gaddafi đã có thể đáp trả quân sự đối với các cuộc tấn công của phe nổi dậy ở Tây Libya và phát động một cuộc phản công dọc theo bờ biển về phía Benghazi, trung tâm trên thực tế của cuộc nổi dậy. Thị trấn Zawiya, cách Tripoli 48 km, đã bị máy bay không quân và xe tăng quân đội bắn phá và bị quân đội Jamahiriya chiếm giữ, "thể hiện một mức độ tàn bạo chưa từng thấy trong cuộc xung đột."
Các tổ chức của Liên Hợp Quốc, bao gồm Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon và Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, đã lên án cuộc đàn áp là vi phạm luật pháp quốc tế, với việc cơ quan sau đã trục xuất Libya hoàn toàn trong một hành động chưa từng có tiền lệ. Ngày 17 tháng 3 năm 2011, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1973, với 10 phiếu thuận và 5 phiếu trắng (bao gồm Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Brasil và Đức). Nghị quyết này cho phép thiết lập một vùng cấm bay và sử dụng "mọi biện pháp cần thiết" để bảo vệ dân thường ở Libya. Ngày 19 tháng 3, hành động đầu tiên của các đồng minh NATO nhằm đảm bảo vùng cấm bay bắt đầu bằng việc phá hủy hệ thống phòng không của Libya khi các máy bay quân sự Pháp tiến vào không phận Libya trong một nhiệm vụ trinh sát báo hiệu các cuộc tấn công vào các mục tiêu của đối phương.
Trong những tuần tiếp theo, lực lượng Hoa Kỳ đi đầu trong các hoạt động của NATO chống lại Libya. Hơn 8.000 quân nhân Hoa Kỳ trên các tàu chiến và máy bay đã được triển khai trong khu vực. Ít nhất 3.000 mục tiêu đã bị tấn công trong 14.202 phi vụ tấn công, trong đó 716 phi vụ ở Tripoli và 492 ở Brega. Cuộc tấn công bằng đường không của Hoa Kỳ bao gồm các chuyến bay của máy bay ném bom tàng hình B-2, mỗi chiếc được trang bị 16 quả bom nặng 2000 pound, bay đi và trở về căn cứ của chúng ở Missouri, Hoa Kỳ lục địa. Sự hỗ trợ của lực lượng không quân NATO đã góp phần vào thành công cuối cùng của cuộc cách mạng.
Đến ngày 22 tháng 8 năm 2011, các tay súng phe nổi dậy đã tiến vào Tripoli và chiếm giữ Quảng trường Xanh, sau này được đổi tên thành Quảng trường Liệt sĩ để vinh danh những người thiệt mạng kể từ ngày 17 tháng 2 năm 2011. Ngày 20 tháng 10 năm 2011, giao tranh ác liệt cuối cùng của cuộc nổi dậy đã kết thúc tại thành phố Sirte. Trận Sirte vừa là trận chiến quyết định cuối cùng vừa là trận chiến cuối cùng nói chung của Nội chiến Libya lần thứ nhất, nơi Gaddafi bị lực lượng được NATO hậu thuẫn bắt giữ và giết chết vào ngày 20 tháng 10 năm 2011. Sirte là thành trì cuối cùng của những người trung thành với Gaddafi và là nơi sinh của ông. Sự thất bại của các lực lượng trung thành được kỷ niệm vào ngày 23 tháng 10 năm 2011, ba ngày sau sự sụp đổ của Sirte. Ít nhất 30.000 người Libya đã thiệt mạng trong cuộc nội chiến. Ngoài ra, Hội đồng Dân tộc Chuyển tiếp ước tính có 50.000 người bị thương. Cuộc xung đột đã gây ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng, với hàng trăm ngàn người phải di tản và thiếu thốn các nhu yếu phẩm cơ bản.
3.7. Giai đoạn chuyển tiếp và Nội chiến Libya lần thứ hai
Chính phủ do Tobruk lãnh đạo;
Chính phủ Hiệp định Quốc gia;
Lực lượng Bảo vệ Cơ sở Dầu mỏ;
Các bộ lạc Tuareg;
Lực lượng địa phương
Sau thất bại của các lực lượng trung thành với Gaddafi, Libya bị chia rẽ bởi vô số các nhóm dân quân vũ trang đối địch, liên kết với các vùng, thành phố và bộ lạc riêng biệt, trong khi chính quyền trung ương yếu kém và không thể thực thi quyền lực một cách hiệu quả trên cả nước. Các nhóm dân quân đối địch tranh giành quyền lực chính trị giữa các chính trị gia Hồi giáo và đối thủ của họ. Ngày 7 tháng 7 năm 2012, người Libya tổ chức cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên kể từ khi chế độ cũ sụp đổ. Ngày 8 tháng 8, Hội đồng Dân tộc Chuyển tiếp chính thức chuyển giao quyền lực cho Đại hội Quốc dân được bầu hoàn toàn, sau đó được giao nhiệm vụ thành lập chính phủ lâm thời và soạn thảo Hiến pháp Libya mới để được thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý chung.

Ngày 25 tháng 8 năm 2012, trong một hành động mà Reuters gọi là "cuộc tấn công bè phái trắng trợn nhất" kể từ khi kết thúc nội chiến, những kẻ tấn công có tổ chức không rõ danh tính đã san ủi một nhà thờ Hồi giáo Sufi với các ngôi mộ ở trung tâm thủ đô Tripoli. Đây là vụ san bằng một địa điểm Sufi thứ hai trong hai ngày. Nhiều hành vi phá hoại và hủy diệt di sản đã được thực hiện bởi các nhóm dân quân Hồi giáo bị nghi ngờ, bao gồm việc dỡ bỏ Tượng Linh dương Khỏa thân và phá hủy, xúc phạm các ngôi mộ của Anh thời Chiến tranh thế giới thứ hai gần Benghazi. Nhiều trường hợp phá hoại di sản khác được báo cáo là do các nhóm dân quân và đám đông cực đoan có liên quan đến Hồi giáo thực hiện, những kẻ này đã phá hủy, cướp bóc hoặc cướp phá một số địa điểm lịch sử.
Ngày 11 tháng 9 năm 2012, các chiến binh Hồi giáo đã tiến hành một cuộc tấn công vào khu ngoại giao của Mỹ ở Benghazi, giết chết Đại sứ Mỹ tại Libya, J. Christopher Stevens, và ba người khác. Vụ việc đã gây ra sự phẫn nộ ở Hoa Kỳ và Libya. Ngày 7 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng đắc cử của Libya, Mustafa A. G. Abushagur, đã bị lật đổ sau khi thất bại lần thứ hai trong việc giành được sự chấp thuận của quốc hội cho một nội các mới. Ngày 14 tháng 10 năm 2012, Đại hội Quốc dân đã bầu cựu thành viên GNC và luật sư nhân quyền Ali Zeidan làm thủ tướng được chỉ định. Zeidan đã tuyên thệ nhậm chức sau khi nội các của ông được GNC chấp thuận. Ngày 11 tháng 3 năm 2014, sau khi bị GNC lật đổ vì không thể ngăn chặn một chuyến hàng dầu lậu, Thủ tướng Zeidan đã từ chức và được thay thế bởi Thủ tướng Abdullah al-Thani.
3.7.1. Chia rẽ chính trị và tranh giành quyền lực

Nội chiến Libya lần thứ hai bắt đầu vào tháng 5 năm 2014 sau các cuộc giao tranh giữa các nghị viện đối địch, với các nhóm dân quân bộ lạc và các nhóm thánh chiến nhanh chóng lợi dụng khoảng trống quyền lực. Đáng chú ý nhất, các chiến binh Hồi giáo cực đoan đã chiếm Derna vào năm 2014 và Sirte vào năm 2015 nhân danh Nhà nước Hồi giáo (ISIL). Tháng 2 năm 2015, nước láng giềng Ai Cập đã tiến hành các cuộc không kích chống lại ISIL để hỗ trợ chính phủ Tobruk.
Tháng 6 năm 2014, các cuộc bầu cử đã được tổ chức cho Hạ viện, một cơ quan lập pháp mới nhằm thay thế Đại hội Quốc dân. Các cuộc bầu cử bị ảnh hưởng bởi bạo lực và tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu thấp, với các điểm bỏ phiếu bị đóng cửa ở một số khu vực. Những người theo chủ nghĩa thế tục và tự do đã giành được kết quả tốt trong các cuộc bầu cử, gây bất bình cho các nhà lập pháp Hồi giáo trong GNC, những người đã tái họp và tuyên bố tiếp tục nhiệm kỳ cho GNC, từ chối công nhận Hạ viện mới. Những người ủng hộ vũ trang của Đại hội Quốc dân đã chiếm Tripoli, buộc quốc hội mới được bầu phải chạy trốn đến Tobruk.
Cục diện tranh giành quyền lực trở nên phức tạp với sự tồn tại của hai chính phủ và hai nghị viện song song: chính phủ được quốc tế công nhận đặt tại Tobruk (Hạ viện - HoR) và chính phủ tự xưng do các lực lượng Hồi giáo hậu thuẫn tại Tripoli (Đại hội Quốc dân mới - GNC). Bên cạnh đó, vô số nhóm vũ trang và dân quân nổi lên, thường dựa trên lòng trung thành với bộ lạc, thành phố hoặc hệ tư tưởng, tranh giành ảnh hưởng và tài nguyên. Sự phân mảnh quyền lực này đã cản trở nghiêm trọng các nỗ lực xây dựng một nhà nước thống nhất và ổn định, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức cực đoan như ISIL mở rộng hoạt động. Tác động đối với sự phát triển dân chủ là vô cùng tiêu cực, khi bạo lực và sự đối đầu vũ trang thay thế cho đối thoại chính trị và các tiến trình dân chủ.
3.7.2. Can thiệp của cộng đồng quốc tế và nỗ lực hòa bình
Tháng 1 năm 2015, các cuộc họp đã được tổ chức với mục đích tìm kiếm một thỏa thuận hòa bình giữa các bên đối địch ở Libya. Cái gọi là các cuộc đàm phán Geneva-Ghadames được cho là sẽ đưa GNC và chính phủ Tobruk lại gần nhau để tìm giải pháp cho cuộc xung đột nội bộ. Tuy nhiên, GNC trên thực tế chưa bao giờ tham gia, một dấu hiệu cho thấy sự chia rẽ nội bộ không chỉ ảnh hưởng đến "Phe Tobruk" mà còn cả "Phe Tripoli". Trong khi đó, chủ nghĩa khủng bố ở Libya ngày càng gia tăng, cũng ảnh hưởng đến các nước láng giềng. Vụ tấn công khủng bố vào Bảo tàng Bardo ở Tunisia vào ngày 18 tháng 3 năm 2015 được cho là do hai chiến binh được huấn luyện ở Libya thực hiện.
Trong suốt năm 2015, một loạt các cuộc họp ngoại giao và đàm phán hòa bình kéo dài đã được Liên Hợp Quốc hỗ trợ, do Đại diện Đặc biệt của Tổng thư ký (SRSG), nhà ngoại giao Tây Ban Nha Bernardino León, tiến hành. Sự hỗ trợ của Liên Hợp Quốc cho quá trình đối thoại do SRSG dẫn đầu được thực hiện cùng với công việc thường lệ của Phái bộ Hỗ trợ của Liên Hợp Quốc tại Libya (UNSMIL). Tháng 7 năm 2015, SRSG León đã báo cáo với Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về tiến trình đàm phán, mà tại thời điểm đó vừa đạt được một thỏa thuận chính trị vào ngày 11 tháng 7, đặt ra "một khuôn khổ toàn diện... bao gồm các nguyên tắc chỉ đạo... các thể chế và cơ chế ra quyết định để hướng dẫn quá trình chuyển đổi cho đến khi thông qua một hiến pháp vĩnh viễn."
Các cuộc đàm phán và đối thoại tiếp tục diễn ra vào giữa năm 2015 tại nhiều địa điểm quốc tế khác nhau, đỉnh điểm là tại Skhirat ở Maroc vào đầu tháng 9.
Cũng trong năm 2015, như một phần của sự hỗ trợ liên tục từ cộng đồng quốc tế, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã yêu cầu một báo cáo về tình hình Libya và Cao ủy Nhân quyền, Zeid Ra'ad Al Hussein, đã thành lập một cơ quan điều tra (OIOL) để báo cáo về nhân quyền và xây dựng lại hệ thống tư pháp Libya. Libya bị hỗn loạn đã nổi lên như một điểm trung chuyển chính cho những người cố gắng đến châu Âu trong cuộc khủng hoảng di cư châu Âu. Từ năm 2013 đến 2018, gần 700.000 người di cư đã đến Ý bằng thuyền, nhiều người trong số họ từ Libya.
Tháng 5 năm 2018, các nhà lãnh đạo đối địch của Libya đã đồng ý tổ chức các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống sau một cuộc họp ở Paris. Tháng 4 năm 2019, Khalifa Haftar đã phát động Chiến dịch Lũ lụt Nhân phẩm, một cuộc tấn công của Quân đội Quốc gia Libya nhằm chiếm các lãnh thổ phía Tây từ Chính phủ Hiệp định Quốc gia (GNA). Tháng 6 năm 2019, các lực lượng liên minh với Chính phủ Hiệp định Quốc gia được Liên Hợp Quốc công nhận đã chiếm thành công Gharyan, một thị trấn chiến lược nơi chỉ huy quân sự Khalifa Haftar và các chiến binh của ông đóng quân. Theo một phát ngôn viên của lực lượng GNA, Mustafa al-Mejii, hàng chục chiến binh LNA dưới quyền Haftar đã bị giết, trong khi ít nhất 18 người bị bắt làm tù binh.
Tháng 3 năm 2020, chính phủ do Liên Hợp Quốc hậu thuẫn của Fayez al-Sarraj đã bắt đầu Chiến dịch Bão Hòa bình. Chính phủ đã khởi xướng cuộc đấu thầu để đối phó với tình trạng các cuộc tấn công do Thống chế Khalifa Haftar của LNA thực hiện. "Chúng tôi là một chính phủ dân sự hợp pháp, tôn trọng các nghĩa vụ của mình đối với cộng đồng quốc tế, nhưng chủ yếu cam kết với người dân của mình và có nghĩa vụ bảo vệ công dân của mình," Sarraj nói phù hợp với quyết định của mình.
Ngày 28 tháng 8 năm 2020, BBC Africa Eye và BBC Arabic Documentaries tiết lộ rằng một máy bay không người lái do Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) điều khiển đã giết chết 26 học viên trẻ tuổi tại một học viện quân sự ở Tripoli vào ngày 4 tháng 1. Hầu hết các học viên đều ở độ tuổi thiếu niên và không ai trong số họ được trang bị vũ khí. Máy bay không người lái Wing Loong II do Trung Quốc sản xuất đã bắn tên lửa Blue Arrow 7, được điều khiển từ căn cứ không quân Al-Khadim của UAE ở Libya. Vào tháng 2, những máy bay không người lái này đóng tại Libya đã được chuyển đến một căn cứ không quân gần Siwa ở sa mạc phía tây Ai Cập. Tờ The Guardian đã điều tra và phát hiện ra sự vi phạm trắng trợn lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hợp Quốc bởi UAE và Thổ Nhĩ Kỳ vào ngày 7 tháng 10 năm 2020. Theo báo cáo, cả hai quốc gia đã gửi các máy bay chở hàng quân sự quy mô lớn đến Libya để hỗ trợ các bên tương ứng của họ.
Ngày 23 tháng 10 năm 2020, một lệnh ngừng bắn vĩnh viễn đã được ký kết để chấm dứt chiến tranh.
3.8. Sau nội chiến và hiện tại
Tháng 12 năm 2021, cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của đất nước đã được lên kế hoạch, nhưng đã bị trì hoãn đến tháng 6 năm 2022 và sau đó bị hoãn thêm.
Fathi Bashagha được quốc hội bổ nhiệm làm thủ tướng vào tháng 2 năm 2022 để lãnh đạo một chính quyền chuyển tiếp, nhưng thủ tướng đương nhiệm Abdul Hamid Dbeibeh đã từ chối chuyển giao quyền lực tính đến tháng 4 năm 2022. Để phản đối chính phủ Dbeibah, các nhà lãnh đạo bộ lạc từ thị trấn sa mạc Ubari đã đóng cửa Mỏ dầu El Sharara, mỏ dầu lớn nhất của Libya, vào ngày 18 tháng 4 năm 2022. Việc đóng cửa này có nguy cơ gây ra tình trạng thiếu dầu trong nước ở Libya và ngăn cản Tổng công ty Dầu khí Quốc gia do nhà nước điều hành khai thác giá dầu cao trên thị trường quốc tế do cuộc xâm lược Ukraina của Nga. Ngày 2 tháng 7, Hạ viện đã bị người biểu tình đốt cháy.
Vào ngày 10 tháng 9 năm 2023, lũ lụt thảm khốc do vỡ đập do Bão Daniel gây ra đã tàn phá thành phố cảng Derna, khiến hơn 5.900 người thiệt mạng và có thể lên tới 24.000 người. Các trận lũ lụt là thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại của Libya.
Tháng 11 năm 2024, Chính phủ Thống nhất Quốc gia đã thành lập một lực lượng cảnh sát đạo đức để trấn áp "các kiểu tóc kỳ lạ", thực thi trang phục " kín đáo" và yêu cầu nam giới giám hộ phụ nữ.
Tình hình chính trị vẫn phức tạp với sự tồn tại song song của Chính phủ Thống nhất Quốc gia (GNU) ở Tripoli do Abdul Hamid Dbeibeh lãnh đạo và Chính phủ Ổn định Quốc gia (GNS) được Hạ viện ở Tobruk hậu thuẫn do Fathi Bashagha (và sau đó là Osama Hammad) đứng đầu. Các nỗ lực nhằm tổ chức bầu cử và thống nhất đất nước vẫn gặp nhiều trở ngại do sự chia rẽ sâu sắc giữa các phe phái và sự can thiệp từ bên ngoài. Các vấn đề nhân đạo, đặc biệt là tình hình người di cư và người tị nạn, vẫn là một mối quan tâm lớn. An ninh vẫn còn mong manh với sự hiện diện của nhiều nhóm vũ trang và nguy cơ tái bùng phát xung đột.
4. Địa lý


Libya có diện tích 1.76 M km2, là quốc gia lớn thứ 16 trên thế giới. Phía bắc Libya giáp với Địa Trung Hải, phía tây giáp Tunisia và Algérie, phía tây nam giáp Niger, phía nam giáp Tchad, phía đông nam giáp Sudan, và phía đông giáp Ai Cập. Libya nằm giữa vĩ độ 19° và 34°B, và kinh độ 9° và 26°Đ.
Với đường bờ biển dài 1.77 K km, Libya là quốc gia châu Phi có đường bờ biển Địa Trung Hải dài nhất. Phần Địa Trung Hải phía bắc Libya thường được gọi là Biển Libya. Khí hậu chủ yếu là cực kỳ khô cằn và mang tính sa mạc. Tuy nhiên, các vùng phía bắc có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa hơn.
Sáu vùng sinh thái nằm trong biên giới Libya: Thực vật chịu mặn Sahara, Rừng và thảo nguyên khô Địa Trung Hải, Rừng và cây bụi Địa Trung Hải, Thảo nguyên và rừng cây Bắc Sahara, Rừng cây bụi núi Tibesti-Jebel Uweinat, và Rừng cây bụi núi Tây Sahara.
Các mối nguy hiểm tự nhiên bao gồm gió sirocco nóng, khô, mang nhiều bụi (ở Libya gọi là gibli). Đây là một loại gió nam thổi từ một đến bốn ngày vào mùa xuân và mùa thu. Ngoài ra còn có bão bụi và bão cát. Các ốc đảo cũng nằm rải rác khắp Libya, quan trọng nhất là Ghadames và Kufra. Libya là một trong những quốc gia nắng nhất và khô nhất thế giới do sự hiện diện chủ yếu của môi trường sa mạc.
4.1. Địa hình và khí hậu
Libya có ba vùng địa lý chính: vùng ven biển Địa Trung Hải ở phía bắc, vùng sa mạc Sahara rộng lớn chiếm phần lớn lãnh thổ, và một số khu vực miền núi như dãy Jebel Akhdar (Núi Xanh) ở phía đông bắc và dãy Nafusa ở phía tây bắc, cùng với các khối núi ở phía nam như Tibesti (một phần) và Jebel Uweinat.
Vùng ven biển phía bắc, nơi tập trung phần lớn dân cư và các thành phố lớn như Tripoli và Benghazi, có khí hậu Địa Trung Hải với mùa hè nóng khô và mùa đông ôn hòa, mưa nhiều hơn. Đây cũng là vùng đất nông nghiệp chính của đất nước. Dãy Jebel Akhdar ở Cyrenaica có lượng mưa tương đối cao so với các vùng khác, tạo điều kiện cho thảm thực vật phong phú hơn.
Phần còn lại của đất nước chủ yếu là sa mạc Sahara, với khí hậu sa mạc nóng (theo phân loại khí hậu Köppen là BWh). Nhiệt độ ban ngày có thể rất cao, đặc biệt vào mùa hè, trong khi ban đêm nhiệt độ giảm mạnh. Lượng mưa ở sa mạc cực kỳ khan hiếm và không đều. Gió gibli, một loại gió nóng, khô và đầy bụi từ sa mạc thổi về phía bắc, thường xảy ra vào mùa xuân và mùa thu, gây khó chịu và ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp.
Các vùng núi ở phía nam, dù vẫn mang đặc điểm khô cằn, có thể có nhiệt độ mát mẻ hơn một chút do độ cao. Nhìn chung, sự thiếu hụt nguồn nước là một thách thức lớn đối với Libya.
4.2. Sa mạc Libya

Sa mạc Libya, bao phủ phần lớn lãnh thổ Libya, là một trong những nơi khô cằn và nóng bỏng nhất trên Trái Đất. Ở một số nơi, có thể hàng thập kỷ trôi qua mà không có mưa, và ngay cả ở các vùng cao nguyên, mưa cũng hiếm khi xảy ra, khoảng 5-10 năm một lần. Tại Jebel Uweinat, tính đến năm 2006, trận mưa cuối cùng được ghi nhận là vào tháng 9 năm 1998.
Tương tự, nhiệt độ ở Sa mạc Libya có thể rất khắc nghiệt; vào ngày 13 tháng 9 năm 1922, thị trấn 'Aziziya, nằm ở phía tây nam Tripoli, đã ghi nhận nhiệt độ không khí là 58 °C, từng được coi là kỷ lục thế giới. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm 2012, con số kỷ lục thế giới 58 °C đã được Tổ chức Khí tượng Thế giới xác định là không hợp lệ.
Có một vài ốc đảo nhỏ không có người ở nằm rải rác, thường liên kết với các vùng trũng lớn, nơi có thể tìm thấy nước bằng cách đào sâu vài feet. Ở phía tây có một nhóm ốc đảo phân bố rộng rãi trong các vùng trũng nông không liên thông, đó là nhóm Kufra, bao gồm Tazerbo, Rebianae và Kufra. Ngoài các vách đá, sự bằng phẳng chung chỉ bị gián đoạn bởi một loạt các cao nguyên và khối núi gần trung tâm Sa mạc Libya, xung quanh điểm hội tụ của biên giới Ai Cập-Sudan-Libya.
Xa hơn một chút về phía nam là các khối núi Arkenu, Uweinat và Kissu. Những ngọn núi đá granit này rất cổ xưa, được hình thành từ rất lâu trước các lớp đá sa thạch xung quanh chúng. Arkenu và Tây Uweinat là các phức hợp vòng rất giống với các phức hợp ở Dãy núi Aïr. Đông Uweinat (điểm cao nhất ở Sa mạc Libya) là một cao nguyên đá sa thạch nhô cao liền kề với phần đá granit ở phía tây xa hơn.
Đồng bằng phía bắc Uweinat rải rác các đặc điểm núi lửa bị xói mòn. Cùng với việc phát hiện ra dầu mỏ vào những năm 1950, người ta cũng phát hiện ra một tầng ngậm nước khổng lồ bên dưới phần lớn Libya. Nước trong Hệ thống tầng ngậm nước sa thạch Nubia có từ trước các kỷ băng hà cuối cùng và chính Sa mạc Sahara. Khu vực này cũng chứa Cấu trúc Arkenu, từng được cho là hai miệng núi lửa va chạm.
4.3. Sinh thái và các vấn đề môi trường
Libya là một quốc gia tiên phong ở Bắc Phi trong việc bảo vệ các loài, với việc thành lập khu bảo tồn El Kouf vào năm 1975. Hệ sinh thái của Libya chủ yếu là sa mạc và bán sa mạc, với một dải ven biển hẹp có thảm thực vật Địa Trung Hải. Các loài động thực vật hoang dã thích nghi với điều kiện khô cằn, bao gồm các loài như linh dương gazelle, cáo fennec, thằn lằn sa mạc và nhiều loài chim di cư. Các ốc đảo là những điểm nóng đa dạng sinh học quan trọng, cung cấp môi trường sống cho nhiều loài.
Tuy nhiên, Libya phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Sa mạc hóa là một mối đe dọa lớn, do chăn thả quá mức, canh tác không bền vững và biến đổi khí hậu. Tình trạng thiếu nước ngày càng trầm trọng do khai thác quá mức các nguồn nước ngầm, bao gồm cả Dự án Sông Nhân tạo Vĩ đại, vốn khai thác nguồn nước hóa thạch không thể tái tạo.
Nạn săn bắt trộm đã gia tăng đáng kể sau sự sụp đổ của chế độ Gaddafi. Trước năm 2011, ngay cả súng săn cũng bị cấm. Nhưng kể từ đó, nạn săn bắt trộm được thực hiện bằng vũ khí chiến tranh và các phương tiện hiện đại. Có những trường hợp người ta tìm thấy tới 200 đầu linh dương gazelle bị giết bởi các tay súng dân quân săn bắn để giết thời gian. Cũng xuất hiện những thợ săn không liên quan đến các bộ lạc truyền thống săn bắn; họ bắn mọi thứ tìm thấy, ngay cả trong mùa sinh sản. Hơn 500.000 con chim bị giết theo cách này mỗi năm. Các khu bảo tồn đã bị các thủ lĩnh bộ lạc chiếm giữ và biến thành của riêng. Các loài động vật từng sống ở đó đều đã biến mất, bị săn bắt nếu ăn được hoặc thả đi nếu không.
Ô nhiễm dầu ở các khu vực khai thác và ven biển cũng là một vấn đề. Sự bất ổn chính trị và xung đột vũ trang kéo dài đã làm suy yếu các nỗ lực quản lý môi trường và bảo tồn. Các vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học mà còn tác động tiêu cực đến sinh kế của các cộng đồng địa phương, đặc biệt là những người phụ thuộc vào nông nghiệp và chăn nuôi.
4.4. Các thành phố chính
Libya có một số thành phố chính đóng vai trò quan trọng về kinh tế, văn hóa và hành chính, chủ yếu tập trung ở vùng ven biển phía bắc.
- Tripoli: Là thủ đô và thành phố lớn nhất Libya, nằm ở phía tây bắc đất nước trên bờ Địa Trung Hải. Dân số của Tripoli và vùng đô thị xung quanh chiếm một phần đáng kể tổng dân số cả nước (ước tính hơn 1 triệu người trong tổng số khoảng 7 triệu người của Libya). Tripoli là trung tâm chính trị, kinh tế, thương mại và văn hóa hàng đầu của Libya. Thành phố có một lịch sử lâu đời với nhiều di tích lịch sử, bao gồm Thành phố cổ (Medina) và Lâu đài Đỏ.
- Benghazi: Là thành phố lớn thứ hai, nằm ở phía đông Libya, thuộc vùng Cyrenaica. Benghazi là một trung tâm kinh tế và cảng biển quan trọng, đồng thời cũng có một lịch sử phong phú và vai trò trung tâm trong nhiều sự kiện chính trị của Libya, bao gồm cả cuộc nổi dậy năm 2011. Dân số ước tính khoảng hơn 600.000 người.
- Misrata: Nằm ở phía tây Tripoli, trên bờ Địa Trung Hải, Misrata là thành phố lớn thứ ba và là một trung tâm công nghiệp, thương mại và cảng biển quan trọng. Thành phố này đóng một vai trò nổi bật trong cuộc nội chiến Libya. Dân số ước tính khoảng hơn 400.000 người.
- Al Bayda: Nằm trong vùng núi Jebel Akhdar ở phía đông, Al Bayda từng là thủ đô hành chính của Vương quốc Libya và là một trung tâm giáo dục và tôn giáo quan trọng, đặc biệt gắn liền với phong trào Sanusi. Dân số ước tính khoảng hơn 250.000 người.
- Tobruk: Một thành phố cảng ở cực đông Libya, gần biên giới Ai Cập. Tobruk có tầm quan trọng chiến lược và lịch sử, đặc biệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Gần đây, nó là nơi đặt trụ sở của Hạ viện Libya.
- Sabha: Là thành phố chính và trung tâm hành chính của vùng Fezzan ở phía nam Libya. Sabha là một đầu mối giao thông và thương mại quan trọng trong khu vực sa mạc.
- Sirte: Nằm trên bờ Vịnh Sidra, giữa Tripoli và Benghazi. Sirte là quê hương của Muammar Gaddafi và từng là một trung tâm quyền lực quan trọng dưới chế độ của ông. Thành phố này đã bị tàn phá nặng nề trong các cuộc nội chiến.
- Zawiya: Một thành phố ven biển phía tây Tripoli, nổi tiếng với các nhà máy lọc dầu và là một trung tâm kinh tế quan trọng.
Các thành phố này phản ánh sự đa dạng về địa lý và lịch sử của Libya, đồng thời cũng là những trung tâm của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước.
5. Chính trị
Chính trị Libya đã ở trong tình trạng hỗn loạn kể từ khi bắt đầu Mùa xuân Ả Rập và sự can thiệp của NATO liên quan đến Khủng hoảng Libya năm 2011; cuộc khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của Jamahiriya Ả Rập Libya và cái chết của Muammar Gaddafi, trong bối cảnh Nội chiến Libya lần thứ nhất và sự can thiệp quân sự của nước ngoài. Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng hơn do bạo lực bè phái sau Nội chiến lần thứ nhất, dẫn đến sự bùng nổ của Nội chiến Libya lần thứ hai vào năm 2014. Quyền kiểm soát đất nước hiện đang bị chia rẽ giữa Hạ viện (HoR) ở Tobruk và Chính phủ Thống nhất Quốc gia (GNU) ở Tripoli cùng những người ủng hộ tương ứng của họ, cũng như các nhóm thánh chiến và các yếu tố bộ lạc khác nhau kiểm soát các phần khác nhau của đất nước.

Dưới thời Gaddafi, cơ cấu chính trị của Libya được gọi là Jamahiriya (nhà nước của quần chúng), dựa trên hệ thống các đại hội nhân dân cơ sở và ủy ban nhân dân, về lý thuyết là một hình thức dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực tập trung trong tay Gaddafi và các cộng sự thân cận.
Sau khi chế độ Gaddafi sụp đổ năm 2011, Libya bước vào giai đoạn chuyển tiếp đầy bất ổn. Các cuộc bầu cử đã được tổ chức vào năm 2012 để thành lập Đại hội Quốc dân (GNC). Tuy nhiên, sự chia rẽ chính trị và xung đột vũ trang đã dẫn đến việc hình thành hai chính phủ và nghị viện đối địch vào năm 2014: Hạ viện (HoR) được quốc tế công nhận đặt tại Tobruk ở miền đông, và Đại hội Quốc dân mới (New GNC) đặt tại Tripoli.
Năm 2015, dưới sự trung gian của Liên Hợp Quốc, Thỏa thuận Chính trị Libya đã được ký kết, dẫn đến việc thành lập Chính phủ Hiệp định Quốc gia (GNA) tại Tripoli, được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, Hạ viện ở Tobruk và các lực lượng liên minh với Khalifa Haftar không hoàn toàn ủng hộ GNA, dẫn đến tình trạng chia rẽ tiếp diễn.
Tháng 3 năm 2021, một Chính phủ Thống nhất Quốc gia (GNU) lâm thời đã được thành lập thông qua Diễn đàn Đối thoại Chính trị Libya (LPDF) do Liên Hợp Quốc bảo trợ, với nhiệm vụ chuẩn bị cho các cuộc bầu cử toàn quốc. Tuy nhiên, các cuộc bầu cử dự kiến vào tháng 12 năm 2021 đã bị trì hoãn vô thời hạn do những bất đồng về luật bầu cử và tư cách ứng cử viên. Tình hình càng phức tạp hơn khi vào tháng 2 năm 2022, Hạ viện ở Tobruk đã bỏ phiếu bổ nhiệm một thủ tướng mới, Fathi Bashagha, để thành lập một Chính phủ Ổn định Quốc gia (GNS) song song, nhưng Thủ tướng GNU Abdul Hamid Dbeibeh từ chối từ chức. Điều này một lần nữa đẩy Libya vào tình trạng có hai chính phủ song song.
Hiện tại, hệ thống chính trị Libya vẫn rất mong manh, với các thể chế nhà nước yếu kém, sự hiện diện của nhiều nhóm vũ trang và dân quân, và sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài. Các thách thức chính bao gồm việc thống nhất đất nước, giải trừ vũ khí các nhóm dân quân, xây dựng lại các thể chế nhà nước, tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng, và giải quyết các vấn đề kinh tế và nhân đạo.
5.1. Cơ cấu chính phủ và tình hình hiện tại

Kể từ tháng 3 năm 2021, cơ cấu chính phủ chính thức của Libya là Chính phủ Thống nhất Quốc gia (GNU), một chính phủ lâm thời được thành lập thông qua Diễn đàn Đối thoại Chính trị Libya (LPDF) do Liên Hợp Quốc bảo trợ. GNU có trụ sở tại Tripoli và do Thủ tướng Abdul Hamid Dbeibeh đứng đầu. Một Hội đồng Tổng thống gồm ba thành viên, do Mohamed al-Menfi làm chủ tịch, đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia tập thể. Mục tiêu chính của GNU là thống nhất các thể chế nhà nước, cải thiện dịch vụ công và chuẩn bị cho các cuộc bầu cử quốc gia.
Tuy nhiên, vào tháng 2 năm 2022, Hạ viện (HoR), đặt tại Tobruk ở miền đông Libya, đã bỏ phiếu bất tín nhiệm GNU và bổ nhiệm một thủ tướng mới, Fathi Bashagha, để thành lập một chính phủ song song được gọi là Chính phủ Ổn định Quốc gia (GNS). Hạ viện cho rằng nhiệm kỳ của GNU đã kết thúc sau khi không tổ chức được bầu cử vào tháng 12 năm 2021. Thủ tướng Dbeibeh và GNU đã từ chối công nhận tính hợp pháp của GNS và không chịu từ chức, dẫn đến tình trạng Libya một lần nữa có hai chính quyền song song tranh giành quyền lực.
Cơ quan lập pháp chính là Hạ viện (HoR), được bầu vào năm 2014 và có trụ sở tại Tobruk. Một cơ quan tư vấn khác là Hội đồng Cấp cao Nhà nước, có trụ sở tại Tripoli, được thành lập từ các thành viên của Đại hội Quốc dân (GNC) trước đây.
Tình hình hiện tại của Libya vẫn rất bất ổn và phức tạp. Nguyên nhân chính của sự bất ổn là sự chia rẽ sâu sắc giữa các phe phái chính trị và quân sự ở miền đông và miền tây, sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, sự can thiệp của các cường quốc bên ngoài vào công việc nội bộ của Libya, và sự hiện diện của nhiều nhóm vũ trang và dân quân không chịu sự kiểm soát của chính quyền trung ương.
Các nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết để thúc đẩy ổn định và dân chủ bao gồm:
- Tạo ra một khuôn khổ hiến pháp và pháp lý được tất cả các bên chấp nhận để tổ chức các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội tự do, công bằng và minh bạch.
- Thống nhất các thể chế nhà nước, đặc biệt là quân đội và các cơ quan an ninh, dưới một sự chỉ huy duy nhất.
- Giải giáp, giải ngũ và tái hòa nhập (DDR) các nhóm vũ trang và dân quân.
- Cải thiện tình hình kinh tế, giải quyết vấn đề tham nhũng và đảm bảo phân phối công bằng nguồn thu từ dầu mỏ.
- Giải quyết các vấn đề nhân đạo, bao gồm tình hình người di cư và người tị nạn, và những người phải di dời trong nước.
- Thúc đẩy hòa giải dân tộc và xây dựng lòng tin giữa các cộng đồng khác nhau.
Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp Quốc, tiếp tục đóng vai trò trung gian hòa giải, nhưng tiến trình chính trị vẫn gặp nhiều bế tắc.
5.2. Các lực lượng chính trị chủ chốt
Sau nội chiến năm 2011 và sự sụp đổ của chế độ Gaddafi, bối cảnh chính trị Libya trở nên phân mảnh với sự nổi lên của nhiều lực lượng chính trị, quân sự và bộ lạc khác nhau, mỗi bên đều có những lợi ích và chương trình nghị sự riêng.
- Chính phủ Thống nhất Quốc gia (GNU): Có trụ sở tại Tripoli, được thành lập vào tháng 3 năm 2021 thông qua Diễn đàn Đối thoại Chính trị Libya do Liên Hợp Quốc bảo trợ. GNU, do Thủ tướng Abdul Hamid Dbeibeh lãnh đạo, được quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp của Libya. Lực lượng này chủ yếu nhận được sự ủng hộ từ các nhóm vũ trang ở miền tây Libya, bao gồm các dân quân từ Misrata và Tripoli, và có mối quan hệ gần gũi với Thổ Nhĩ Kỳ.
- Hạ viện (HoR) và Chính phủ Ổn định Quốc gia (GNS): Hạ viện, được bầu vào năm 2014, có trụ sở tại Tobruk ở miền đông. HoR không hoàn toàn ủng hộ GNU và vào năm 2022 đã bổ nhiệm Fathi Bashagha (sau đó là Osama Hammad) làm thủ tướng của một chính phủ song song, GNS. Lực lượng này nhận được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ Quân đội Quốc gia Libya (LNA).
- Quân đội Quốc gia Libya (LNA): Do Thống chế Khalifa Haftar lãnh đạo, LNA là lực lượng quân sự thống trị ở miền đông và một phần miền nam Libya. LNA tự coi mình là quân đội quốc gia và đã tiến hành các chiến dịch quân sự chống lại các nhóm Hồi giáo cực đoan và các lực lượng liên kết với GNU. LNA nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia như Ai Cập, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nga và Pháp.
- Các nhóm vũ trang và dân quân: Vô số nhóm vũ trang và dân quân hoạt động trên khắp Libya, thường dựa trên lòng trung thành với thành phố, bộ lạc hoặc hệ tư tưởng. Một số nhóm mạnh nhất bao gồm các lữ đoàn từ Misrata, Zintan, và các nhóm vũ trang ở Tripoli. Các nhóm này có vai trò quan trọng trong việc duy trì an ninh (hoặc gây mất an ninh) ở các địa phương và thường có ảnh hưởng chính trị đáng kể. Một số liên kết lỏng lẻo với GNU hoặc LNA, trong khi những nhóm khác hoạt động độc lập hơn.
- Các lực lượng bộ lạc: Cấu trúc bộ lạc vẫn đóng một vai trò quan trọng trong xã hội và chính trị Libya. Các bộ lạc lớn như Warfalla, Magarha, và Zintan có ảnh hưởng đáng kể đến cục diện chính trị và quân sự ở các khu vực tương ứng của họ. Lòng trung thành bộ lạc thường chi phối các liên minh và xung đột.
- Các nhóm HIslam giáo: Bao gồm các nhóm ôn hòa và cực đoan. Các đảng phái Hồi giáo như Đảng Công lý và Xây dựng (liên kết với Anh em Hồi giáo) tham gia vào chính trường. Các nhóm thánh chiến cực đoan, bao gồm các chi nhánh của Al-Qaeda và ISIL, đã lợi dụng tình trạng hỗn loạn để thiết lập sự hiện diện ở một số khu vực, mặc dù ảnh hưởng của chúng đã suy giảm trong những năm gần đây sau các chiến dịch quân sự chống lại chúng.
- Các nhà hoạt động xã hội dân sự và chính trị gia độc lập: Một số cá nhân và tổ chức xã hội dân sự đang nỗ lực thúc đẩy dân chủ, nhân quyền và hòa giải dân tộc, nhưng tiếng nói của họ thường bị hạn chế trong bối cảnh xung đột và phân cực chính trị.
Sự phân mảnh này là một trong những thách thức lớn nhất đối với việc tái thiết và ổn định Libya.
5.3. Phân chia hành chính
Trong lịch sử, khu vực Libya được coi là ba tỉnh (hoặc tiểu bang): Tripolitania ở phía tây bắc, Barka (Cyrenaica) ở phía đông, và Fezzan ở phía tây nam. Chính cuộc chinh phục của Ý trong Chiến tranh Ý-Thổ Nhĩ Kỳ đã hợp nhất chúng thành một đơn vị chính trị duy nhất.
Kể từ năm 2007, Libya được chia thành 22 quận (شعبيةshabiyatArabic, số ít: shabiya). Hệ thống này đã thay thế hệ thống 32 quận trước đó. Các quận này là cấp hành chính địa phương chính.
Danh sách 22 quận (shabiyat) là:
- 1. Quận Butnan
- 2. Quận Derna
- 3. Quận Jabal al Akhdar
- 4. Quận Marj
- 5. Quận Benghazi
- 6. Quận Al Wahat
- 7. Quận Kufra
- 8. Quận Sirte
- 9. Quận Misrata
- 10. Quận Murqub
- 11. Quận Tripoli
- 12. Quận Jafara
- 13. Quận Zawiya
- 14. Quận Nuqat al Khams
- 15. Quận Jabal al Gharbi
- 16. Quận Nalut
- 17. Quận Jufra
- 18. Quận Wadi al Shatii
- 19. Quận Sabha
- 20. Quận Wadi al Hayaa
- 21. Quận Ghat
- 22. Quận Murzuq
Năm 2022, Chính phủ Thống nhất Quốc gia đã tuyên bố thành lập 18 tỉnh mới, có thể là một nỗ lực nhằm cải cách cơ cấu hành chính hiện tại, tuy nhiên, việc thực thi và công nhận rộng rãi hệ thống tỉnh mới này vẫn chưa rõ ràng trong bối cảnh chính trị phân mảnh của Libya. Các tỉnh được đề xuất bao gồm: Bờ biển phía Đông, Jabal Al-Akhdar, Al-Hizam, Benghazi, Al-Wahat, Al-Kufra, Al-Khaleej, Al-Margab, Tripoli, Al-Jafara, Al-Zawiya, Bờ biển phía Tây, Gheryan, Zintan, Nalut, Sabha, Al-Wadi, và Lưu vực Murzuq.
Quá trình thay đổi phân chia hành chính ở Libya thường phản ánh những biến động chính trị và nỗ lực của các chính quyền khác nhau nhằm củng cố quyền lực hoặc cải thiện quản lý địa phương.
5.4. Quan hệ đối ngoại

Chính sách đối ngoại của Libya đã trải qua nhiều biến động kể từ khi giành độc lập năm 1951. Dưới thời Vương quốc (1951-1969), Libya duy trì lập trường thân phương Tây rõ rệt, là thành viên của khối bảo thủ truyền thống trong Liên đoàn Ả Rập (thành lập năm 1953). Chính phủ có quan hệ hữu nghị với các nước phương Tây như Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Ý, Hy Lạp, và thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Liên Xô vào năm 1955. Mặc dù ủng hộ các chính nghĩa Ả Rập, Libya ít tham gia tích cực vào xung đột Ả Rập-Israel hoặc chính trị liên Ả Rập đầy biến động trong những năm 1950 và đầu những năm 1960.
Sau cuộc đảo chính năm 1969, Muammar Gaddafi đã đóng cửa các căn cứ của Mỹ và Anh, quốc hữu hóa một phần lợi ích dầu mỏ và thương mại nước ngoài. Gaddafi nổi tiếng với việc ủng hộ một số nhà lãnh đạo bị coi là chống lại Tây phương hóa và chủ nghĩa tự do chính trị, bao gồm Tổng thống Uganda Idi Amin, Hoàng đế Trung Phi Jean-Bédel Bokassa, nhà lãnh đạo Ethiopia Haile Mariam Mengistu, Tổng thống Liberia Charles Taylor, và Tổng thống Nam Tư Slobodan Milošević.
Quan hệ với phương Tây trở nên căng thẳng do một loạt các sự cố trong hầu hết thời kỳ cai trị của Gaddafi, bao gồm vụ giết nữ cảnh sát London Yvonne Fletcher, vụ đánh bom vũ trường ở Tây Berlin nơi quân nhân Mỹ thường lui tới, và vụ đánh bom Chuyến bay Pan Am 103, dẫn đến các lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc trong những năm 1990. Tuy nhiên, vào cuối những năm 2000, Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác đã bình thường hóa quan hệ với Libya. Quyết định của Gaddafi từ bỏ việc theo đuổi vũ khí hủy diệt hàng loạt sau Chiến tranh Iraq, khi nhà độc tài Iraq Saddam Hussein bị lật đổ và đưa ra xét xử, đã khiến Libya được ca ngợi là một thành công cho các sáng kiến quyền lực mềm của phương Tây trong Cuộc chiến chống Khủng bố. Tháng 10 năm 2010, Gaddafi đã xin lỗi các nhà lãnh đạo châu Phi thay mặt các quốc gia Ả Rập về sự tham gia của họ vào buôn bán nô lệ xuyên Sahara.
Libya được đưa vào Chính sách Láng giềng châu Âu (ENP) của Liên minh châu Âu, nhằm mục đích đưa EU và các nước láng giềng đến gần nhau hơn. Chính quyền Libya đã từ chối các kế hoạch của Liên minh châu Âu nhằm ngăn chặn di cư từ Libya. Năm 2017, Libya đã ký hiệp ước của Liên Hợp Quốc về Cấm Vũ khí Hạt nhân.
Sau năm 2011, chính sách đối ngoại của Libya trở nên phân mảnh do sự tồn tại của các chính phủ đối địch. Các nỗ lực hòa giải quốc tế, đặc biệt là từ Liên Hợp Quốc, đã cố gắng thống nhất đất nước và chính sách đối ngoại của nó. Tuy nhiên, sự can thiệp của các cường quốc khu vực và quốc tế, mỗi bên ủng hộ các phe phái khác nhau, đã làm phức tạp thêm tình hình. Các vấn đề nhân đạo, đặc biệt là cuộc khủng hoảng người di cư cố gắng vượt Địa Trung Hải từ Libya để đến châu Âu, đã trở thành một tâm điểm quan trọng trong quan hệ quốc tế của Libya.
Libya có quan hệ ngoại giao với Việt Nam từ năm 1975.
5.5. Quân sự
Quân đội quốc gia trước đây của Libya, Lực lượng vũ trang Jamahiriya Ả Rập Libya, đã bị đánh bại trong Nội chiến Libya lần thứ nhất và bị giải tán. Hạ viện có trụ sở tại Tobruk, tự nhận là chính phủ hợp pháp của Libya, đã cố gắng tái lập một lực lượng quân sự được gọi là Quân đội Quốc gia Libya (LNA). Dưới sự lãnh đạo của Khalifa Haftar, LNA kiểm soát phần lớn miền đông Libya. Vào tháng 5 năm 2012, ước tính có khoảng 35.000 quân nhân đã gia nhập hàng ngũ LNA.
Chính phủ Hiệp định Quốc gia (GNA) được quốc tế công nhận, thành lập năm 2015 (và sau đó là Chính phủ Thống nhất Quốc gia - GNU, thành lập năm 2021), có quân đội riêng của mình, trên danh nghĩa thay thế LNA, nhưng lực lượng này phần lớn bao gồm các nhóm dân quân ô hợp và thiếu kỷ luật, chủ yếu tập trung ở miền tây Libya.
Tính đến tháng 11 năm 2012, quân đội mới được coi là vẫn còn trong giai đoạn phát triển sơ khai. Tổng thống Mohammed Magariaf đã hứa rằng việc trao quyền cho quân đội và lực lượng cảnh sát là ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Tổng thống el-Megarif cũng ra lệnh rằng tất cả các nhóm dân quân của đất nước phải đặt dưới quyền của chính phủ hoặc giải tán.
Tuy nhiên, cho đến nay, các nhóm dân quân vẫn từ chối được tích hợp vào một lực lượng an ninh trung ương. Nhiều nhóm dân quân này có kỷ luật, nhưng những nhóm mạnh nhất trong số đó chỉ tuân theo các hội đồng điều hành của các thành phố Libya khác nhau. Các nhóm dân quân này tạo thành cái gọi là Lực lượng Khiên Libya, một lực lượng quốc gia song song, hoạt động theo yêu cầu chứ không phải theo lệnh của bộ quốc phòng.
Quá trình tái thiết quân đội Libya sau khi chế độ Gaddafi sụp đổ gặp vô vàn khó khăn do sự chia rẽ chính trị, thiếu nguồn lực, và sự trỗi dậy của vô số nhóm vũ trang với các lợi ích và lòng trung thành khác nhau. Vấn đề thống nhất các lực lượng vũ trang dưới một sự chỉ huy duy nhất vẫn là một thách thức lớn đối với sự ổn định của Libya.
5.6. Nhân quyền
Theo báo cáo thường niên năm 2016 của Human Rights Watch, các nhà báo vẫn đang bị các nhóm vũ trang ở Libya nhắm đến. Tổ chức này cho biết thêm rằng Libya xếp hạng rất thấp trong Chỉ số Tự do Báo chí năm 2015, đứng thứ 154/180 quốc gia. Đến Chỉ số Tự do Báo chí năm 2021, thứ hạng của Libya giảm xuống còn 165/180 quốc gia.
Đồng tính luyến ái là bất hợp pháp ở Libya. Các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc, bao gồm cả người Berber (Amazigh), đã phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và bạo lực.
Tình hình người di cư và người tị nạn ở Libya đặc biệt nghiêm trọng. Nhiều người bị giam giữ tùy tiện trong các điều kiện vô nhân đạo, bị tra tấn, bóc lột lao động và bạo lực tình dục. Các vụ vi phạm nhân quyền sau nội chiến diễn ra phổ biến, bao gồm các vụ giết người ngoài vòng pháp luật, tra tấn, bắt cóc và giam giữ tùy tiện do các nhóm vũ装 khác nhau thực hiện.
Các nỗ lực cải thiện tình hình nhân quyền gặp nhiều khó khăn do tình trạng vô luật pháp, các thể chế nhà nước yếu kém và xung đột kéo dài. Việc bảo vệ các nhóm yếu thế, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người di cư và các nhóm thiểu số, là một thách thức lớn. Cộng đồng quốc tế đã nhiều lần lên tiếng quan ngại và kêu gọi các bên ở Libya tôn trọng nhân quyền và luật pháp nhân đạo quốc tế.
6. Kinh tế
Kinh tế Libya chủ yếu phụ thuộc vào nguồn thu từ ngành dầu khí, chiếm hơn một nửa GDP và 97% kim ngạch xuất khẩu. Libya nắm giữ trữ lượng dầu mỏ đã được chứng minh lớn nhất ở châu Phi và là một nhà cung cấp quan trọng dầu thô nhẹ, ngọt trên toàn cầu. Năm 2010, khi giá dầu trung bình ở mức 80 USD/thùng, sản xuất dầu chiếm 54% GDP. Ngoài dầu mỏ, các tài nguyên thiên nhiên khác bao gồm khí đốt tự nhiên và thạch cao. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính tăng trưởng GDP thực của Libya đạt 122% vào năm 2012 và 16,7% vào năm 2013, sau khi giảm mạnh 60% vào năm 2011.
Ngân hàng Thế giới định nghĩa Libya là một 'Nền kinh tế có thu nhập trung bình cao', cùng với chỉ bảy quốc gia châu Phi khác. Nguồn thu đáng kể từ ngành năng lượng, cùng với dân số nhỏ, mang lại cho Libya một trong những mức GDP bình quân đầu người cao nhất ở châu Phi. Điều này cho phép nhà nước Jamahiriya Ả Rập Libya cung cấp một mức độ an sinh xã hội rộng rãi, đặc biệt trong các lĩnh vực nhà ở và giáo dục.
Tuy nhiên, Libya phải đối mặt với nhiều vấn đề cơ cấu bao gồm thiếu thể chế, quản trị yếu kém và thất nghiệp cơ cấu kinh niên. Nền kinh tế thiếu đa dạng hóa và phụ thuộc đáng kể vào lao động nhập cư. Libya theo truyền thống dựa vào mức độ tuyển dụng cao không bền vững của khu vực công để tạo việc làm. Vào giữa những năm 2000, chính phủ đã tuyển dụng khoảng 70% tổng số lao động trong nước.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 8% năm 2008 lên 21% năm 2009, theo số liệu điều tra dân số. Theo một báo cáo của Liên đoàn Ả Rập, dựa trên dữ liệu từ năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ là 18% trong khi của nam giới là 21%, khiến Libya trở thành quốc gia Ả Rập duy nhất có nhiều nam giới thất nghiệp hơn phụ nữ. Libya có mức độ bất bình đẳng xã hội cao, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên cao và chênh lệch kinh tế giữa các vùng. Cung cấp nước cũng là một vấn đề, với khoảng 28% dân số không được tiếp cận với nước uống an toàn vào năm 2000.
Hai tuyến đường bộ xuyên châu Phi đi qua Libya, bao gồm Đường cao tốc Cairo-Dakar và Đường cao tốc Tripoli-Cape Town. Các tuyến đường này đã góp phần vào sự phát triển kinh tế của Libya.
Libya nhập khẩu tới 90% nhu cầu tiêu thụ ngũ cốc, và lượng lúa mì nhập khẩu trong năm 2012/13 ước tính là 1 triệu tấn. Sản lượng lúa mì năm 2012 ước tính là 200.000 tấn. Chính phủ hy vọng sẽ tăng sản lượng lương thực lên 800.000 tấn ngũ cốc vào năm 2020. Tuy nhiên, các điều kiện tự nhiên và môi trường hạn chế tiềm năng sản xuất nông nghiệp của Libya. Trước năm 1958, nông nghiệp là nguồn thu chính của đất nước, chiếm khoảng 30% GDP. Với việc phát hiện ra dầu mỏ vào năm 1958, quy mô của ngành nông nghiệp suy giảm nhanh chóng, chiếm chưa đến 5% GDP vào năm 2005.
Nước này gia nhập OPEC vào năm 1962. Libya không phải là thành viên WTO, nhưng các cuộc đàm phán gia nhập đã bắt đầu vào năm 2004. Vào đầu những năm 1980, Libya là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới; GDP bình quân đầu người của nước này cao hơn một số nước phát triển.
Trong những năm đầu thập niên 2000, các quan chức thời Jamahiriya đã thực hiện các cải cách kinh tế để tái hòa nhập Libya vào nền kinh tế toàn cầu. Các lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc đã được dỡ bỏ vào tháng 9 năm 2003, và Libya tuyên bố vào tháng 12 năm 2003 rằng họ sẽ từ bỏ các chương trình chế tạo vũ khí hủy diệt hàng loạt. Các bước khác bao gồm việc xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, giảm trợ cấp, và công bố kế hoạch tư nhân hóa.
Chính quyền đã tư nhân hóa hơn 100 công ty nhà nước sau năm 2003 trong các ngành bao gồm lọc dầu, du lịch và bất động sản, trong đó 29 công ty thuộc sở hữu 100% của nước ngoài. Nhiều công ty dầu khí quốc tế đã quay trở lại đất nước, bao gồm các tập đoàn dầu khí khổng lồ như Shell và ExxonMobil. Sau khi các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ, lưu lượng hàng không tăng dần, và đến năm 2005 đã có 1,5 triệu lượt hành khách hàng không hàng năm. Libya từ lâu đã là một quốc gia nổi tiếng khó khăn cho khách du lịch phương Tây đến thăm do các yêu cầu thị thực nghiêm ngặt.
Năm 2007, Saif al-Islam Gaddafi, con trai thứ hai của Muammar Gaddafi, đã tham gia vào một dự án phát triển xanh có tên là Khu vực Phát triển Bền vững Núi Xanh, nhằm mục đích đưa du lịch đến Cyrene và bảo tồn các di tích Hy Lạp trong khu vực.
Vào tháng 8 năm 2011, người ta ước tính rằng sẽ mất ít nhất 10 năm để xây dựng lại cơ sở hạ tầng của Libya. Ngay cả trước cuộc chiến năm 2011, cơ sở hạ tầng của Libya đã ở trong tình trạng tồi tệ do "sự bỏ bê hoàn toàn" của chính quyền Gaddafi, theo NTC. Đến tháng 10 năm 2012, nền kinh tế đã phục hồi sau cuộc xung đột năm 2011, với sản lượng dầu trở lại gần mức bình thường. Sản lượng dầu là hơn 1,6 triệu thùng mỗi ngày trước chiến tranh. Đến tháng 10 năm 2012, sản lượng dầu trung bình đã vượt quá 1,4 triệu thùng/ngày. Việc nối lại sản xuất có thể thực hiện được nhờ sự trở lại nhanh chóng của các công ty lớn của phương Tây, như TotalEnergies, Eni, Repsol, Wintershall và Occidental Petroleum. Năm 2016, một thông báo từ công ty cho biết công ty đặt mục tiêu 900.000 thùng mỗi ngày trong năm tới. Sản lượng dầu đã giảm từ 1,6 triệu thùng/ngày xuống còn 900.000 thùng sau bốn năm chiến tranh.
Dự án Sông Nhân tạo Vĩ đại là dự án thủy lợi lớn nhất thế giới. Dự án sử dụng một hệ thống đường ống bơm nước hóa thạch từ Hệ thống tầng ngậm nước sa thạch Nubia từ phía nam Libya đến các thành phố ở bờ biển Địa Trung Hải đông dân cư phía bắc Libya bao gồm Tripoli và Benghazi. Nước này cung cấp 70% tổng lượng nước ngọt được sử dụng ở Libya. Trong cuộc nội chiến Libya lần thứ hai, kéo dài từ năm 2014 đến năm 2020, cơ sở hạ tầng nước đã bị bỏ bê và thỉnh thoảng bị hỏng hóc. Đến năm 2017, 60% dân số Libya bị suy dinh dưỡng. Kể từ đó, 1,3 triệu người đang chờ viện trợ nhân đạo khẩn cấp, trong tổng dân số 7,1 triệu người.
Tháng 3 năm 2024, Libya đang tích cực thúc đẩy phát triển kinh doanh và khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Sáng kiến chiến lược này nhằm đảm bảo sự ổn định và thịnh vượng kinh tế lâu dài cho Libya bằng cách đa dạng hóa nền tảng kinh tế. Việc nắm bắt các ngành công nghiệp xanh như năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, nông nghiệp bền vững và du lịch sinh thái có tiềm năng tạo ra các cơ hội việc làm mới trong nhiều lĩnh vực, qua đó giải quyết các thách thức về thất nghiệp, đặc biệt là trong giới trẻ.
6.1. Công nghiệp dầu mỏ và tài nguyên

Ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt tự nhiên là trụ cột của kinh tế Libya, chiếm phần lớn GDP và gần như toàn bộ kim ngạch xuất khẩu. Libya sở hữu trữ lượng dầu thô đã được chứng minh lớn nhất châu Phi và đứng thứ 10 trên thế giới. Sản lượng dầu trước năm 2011 đạt khoảng 1,6 triệu thùng/ngày, nhưng đã giảm sút đáng kể do bất ổn chính trị và xung đột vũ trang. Hiện tại, sản lượng đang dần phục hồi nhưng vẫn chưa đạt mức trước chiến tranh. Libya là thành viên của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và đóng vai trò quan trọng trên thị trường năng lượng toàn cầu.
Ngoài dầu mỏ, Libya còn có trữ lượng khí đốt tự nhiên đáng kể và một số tài nguyên khoáng sản khác như thạch cao. Cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là dầu thô và các sản phẩm từ dầu mỏ. Nhập khẩu bao gồm máy móc, thiết bị vận tải, lương thực và hàng tiêu dùng.
Ngành công nghiệp dầu mỏ đã mang lại nguồn thu lớn cho Libya, cho phép chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các chương trình phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, sự phụ thuộc quá lớn vào dầu mỏ cũng tạo ra những thách thức về đa dạng hóa kinh tế và dễ bị tổn thương trước biến động giá dầu thế giới. Các tác động xã hội của ngành dầu khí bao gồm sự hình thành một tầng lớp lao động trong ngành và những vấn đề liên quan đến phân phối của cải. Về mặt môi trường, các hoạt động thăm dò, khai thác và vận chuyển dầu khí có thể gây ô nhiễm đất, nước và không khí nếu không được quản lý chặt chẽ. Tình trạng bất ổn chính trị cũng ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ môi trường và quản lý bền vững tài nguyên.
6.2. Nông nghiệp và Dự án Sông Nhân tạo Vĩ đại

Nông nghiệp ở Libya gặp nhiều khó khăn do điều kiện khí hậu khô cằn và diện tích đất canh tác hạn chế, chủ yếu tập trung ở các vùng ven biển phía bắc và các ốc đảo. Trước năm 1958, nông nghiệp là nguồn thu chính, chiếm khoảng 30% GDP, nhưng sau khi phát hiện dầu mỏ, vai trò của ngành này suy giảm đáng kể, chỉ còn dưới 5% GDP vào năm 2005. Libya phải nhập khẩu tới 90% nhu cầu ngũ cốc. Các sản phẩm nông nghiệp chính bao gồm lúa mì, lúa mạch, ô liu, chà là, cam quýt, rau và gia súc (cừu, dê, lạc đà).
Để giải quyết vấn đề thiếu nước trầm trọng, chính phủ Libya dưới thời Gaddafi đã khởi xướng Dự án Sông Nhân tạo Vĩ đại (Great Man-Made River - GMMR) vào những năm 1980. Đây là dự án thủy lợi lớn nhất thế giới, bao gồm một mạng lưới đường ống khổng lồ vận chuyển nước ngọt hóa thạch từ các tầng ngậm nước cổ đại ở Hệ thống tầng ngậm nước sa thạch Nubia thuộc sa mạc Sahara ở phía nam đến các thành phố và vùng nông nghiệp ven biển. Dự án này cung cấp khoảng 70% tổng lượng nước ngọt được sử dụng ở Libya, đóng vai trò quan trọng trong việc tưới tiêu cho nông nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt và công nghiệp.
Tuy nhiên, GMMR cũng đối mặt với những thách thức. Việc khai thác nước ngầm hóa thạch là không bền vững vì đây là nguồn tài nguyên không thể tái tạo. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng của dự án đã bị bỏ bê và hư hỏng trong các cuộc nội chiến kéo dài từ năm 2014 đến 2020, ảnh hưởng đến việc cung cấp nước. Việc duy trì và bảo vệ hệ thống này trong bối cảnh bất ổn chính trị là một vấn đề lớn. Mặc dù GMMR đã giúp mở rộng diện tích canh tác và cải thiện an ninh lương thực ở một mức độ nào đó, Libya vẫn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu lương thực.
6.3. Cơ cấu kinh tế và thách thức
Cơ cấu kinh tế của Libya chủ yếu phụ thuộc vào ngành dầu khí, vốn chiếm phần lớn GDP và gần như toàn bộ doanh thu xuất khẩu. Sự phụ thuộc này khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của giá dầu thế giới và làm chậm quá trình đa dạng hóa kinh tế. Các ngành phi dầu mỏ như nông nghiệp, công nghiệp chế biến và du lịch vẫn còn kém phát triển.
Các thách thức chính mà kinh tế Libya phải đối mặt bao gồm:
- Bất ổn chính trị và xung đột vũ trang: Đây là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển kinh tế. Xung đột đã phá hủy cơ sở hạ tầng, làm gián đoạn sản xuất dầu mỏ, gây mất an ninh và cản trở đầu tư.
- Thiếu đa dạng hóa kinh tế: Sự phụ thuộc vào dầu mỏ cần được giảm bớt bằng cách phát triển các ngành kinh tế khác. Tuy nhiên, quá trình này đòi hỏi sự ổn định chính trị, cải cách thể chế và đầu tư lớn.
- Thất nghiệp: Tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt trong giới trẻ, là một vấn đề xã hội nghiêm trọng. Khu vực công vẫn là nơi sử dụng lao động chính, nhưng không bền vững.
- Tham nhũng và quản trị yếu kém: Tham nhũng lan tràn và các thể chế nhà nước yếu kém cản trở sự phát triển kinh tế và thu hút đầu tư.
- Cơ sở hạ tầng xuống cấp: Nhiều cơ sở hạ tầng, bao gồm đường sá, điện nước và viễn thông, đã bị hư hỏng hoặc xuống cấp do xung đột và thiếu đầu tư. Việc tái thiết và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng là rất cần thiết.
- Phân phối của cải không đồng đều: Mặc dù có nguồn thu từ dầu mỏ, sự bất bình đẳng kinh tế vẫn còn tồn tại, với sự giàu có tập trung ở một số nhóm và khu vực nhất định.
Các nỗ lực tái thiết kinh tế sau nội chiến gặp nhiều khó khăn. Chính phủ cần phải tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, cải cách khu vực công, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường pháp quyền. Việc thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững và công bằng, đảm bảo rằng lợi ích từ tài nguyên thiên nhiên được chia sẻ rộng rãi cho người dân, là một mục tiêu quan trọng. Tình hình cơ sở hạ tầng xã hội như y tế và giáo dục cũng cần được cải thiện đáng kể.
6.4. Du lịch
Libya sở hữu nhiều tài nguyên du lịch có tiềm năng lớn, bao gồm các di tích cổ đại nổi tiếng thế giới, cảnh quan thiên nhiên đa dạng và một nền văn hóa độc đáo.
- Di tích cổ đại: Libya là nơi có một số di chỉ khảo cổ La Mã và Hy Lạp được bảo tồn tốt nhất bên ngoài Ý và Hy Lạp. Nổi bật nhất là:
- Leptis Magna: Một thành phố La Mã cổ đại hùng vĩ với các công trình kiến trúc ấn tượng như khải hoàn môn, nhà hát, đấu trường và các đền thờ. Được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.
- Sabratha: Một thành phố cảng Phoenicia và La Mã cổ đại khác, nổi tiếng với nhà hát La Mã được phục dựng một phần. Cũng là Di sản Thế giới của UNESCO.
- Cyrene: Một thành phố Hy Lạp cổ đại quan trọng, trung tâm của vùng Pentapolis. Di chỉ này bao gồm các đền thờ, nhà hát và khu lăng mộ. Là Di sản Thế giới của UNESCO.
- Apollonia: Cảng của Cyrene, với các tàn tích dưới nước và trên bờ.
- Cảnh quan thiên nhiên:
- Sa mạc Sahara: Chiếm phần lớn diện tích Libya, sa mạc mang đến những cảnh quan hùng vĩ với các đụn cát, khối núi đá và ốc đảo. Các khu vực như Tadrart Acacus (Di sản Thế giới UNESCO với nghệ thuật đá cổ) và các hồ muối ở vùng Fezzan là những điểm thu hút.
- Dãy núi Jebel Akhdar (Núi Xanh): Một vùng núi tươi tốt ở phía đông bắc, có khí hậu Địa Trung Hải và là nơi có nhiều di tích lịch sử.
- Bờ biển Địa Trung Hải: Với đường bờ biển dài, Libya có nhiều bãi biển đẹp, mặc dù cơ sở hạ tầng du lịch ven biển chưa phát triển mạnh.
- Văn hóa: Các thành phố cổ như Ghadames (Di sản Thế giới UNESCO), với kiến trúc truyền thống độc đáo, và các lễ hội văn hóa địa phương cũng là những điểm thu hút.
Tuy nhiên, ngành du lịch Libya hiện đang đối mặt với nhiều hạn chế nghiêm trọng. Tình trạng bất ổn chính trị kéo dài, xung đột vũ trang và các vấnadece an ninh đã khiến Libya trở thành một điểm đến không an toàn cho du khách quốc tế. Cơ sở hạ tầng du lịch như khách sạn, đường sá và dịch vụ còn yếu kém và bị ảnh hưởng bởi xung đột. Các quy định về thị thực cũng từng là một rào cản.
Để ngành du lịch phát triển, Libya cần phải đạt được sự ổn định chính trị, cải thiện tình hình an ninh, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bảo tồn và quảng bá các di sản, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho du khách. Tiềm năng là rất lớn, nhưng việc khai thác đòi hỏi những nỗ lực dài hạn và toàn diện.
7. Xã hội
Xã hội Libya mang những đặc điểm phức tạp, là sự pha trộn giữa truyền thống bộ lạc, ảnh hưởng của Hồi giáo, di sản từ thời thuộc địa và những biến động chính trị, kinh tế, xã hội trong những thập kỷ gần đây.
7.1. Cơ cấu dân số
Libya có dân số tương đối nhỏ so với diện tích rộng lớn của mình, ước tính khoảng 7 triệu người. Mật độ dân số rất thấp, đặc biệt ở các vùng sa mạc rộng lớn phía nam. Phần lớn dân cư (khoảng 88%) sống tập trung ở các khu vực đô thị ven biển phía bắc, chủ yếu tại ba thành phố lớn nhất là Tripoli, Benghazi và Misrata.
Dân số Libya có cơ cấu trẻ, với khoảng 27,7% dân số dưới 15 tuổi (theo số liệu trước nội chiến). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên tương đối cao. Tuổi thọ trung bình vào năm 2011 là khoảng 74,95 tuổi.
Cuộc sống gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội Libya. Phần lớn người dân sống trong các khu chung cư hoặc nhà ở độc lập, tùy thuộc vào thu nhập và tài sản. Lối sống du mục truyền thống của người Bedouin đang dần phai nhạt khi ngày càng nhiều người định cư tại các thị trấn và thành phố.
Do bất ổn chính trị và xung đột kéo dài, Libya đã chứng kiến sự di dời dân số trong nước đáng kể. Theo UNHCR vào tháng 1 năm 2013, có khoảng 8.000 người tị nạn đã đăng ký, 5.500 người tị nạn chưa đăng ký và 7.000 người xin tị nạn từ nhiều nguồn gốc khác nhau ở Libya. Ngoài ra, 47.000 công dân Libya bị buộc phải rời bỏ nhà cửa trong nước và 46.570 người đã trở về sau khi bị buộc phải rời bỏ nhà cửa. Dòng người di cư và tị nạn từ các nước châu Phi khác qua Libya để đến châu Âu cũng là một đặc điểm nhân khẩu học đáng chú ý và gây ra nhiều vấn đề nhân đạo.
7.2. Dân tộc
Thành phần dân tộc chủ yếu của Libya là người Ả Rập, chiếm khoảng 92% dân số. Nhiều người trong số họ có nguồn gốc từ các bộ lạc Ả Rập Bedouin như Banu Sulaym và Banu Hilal.
Nhóm dân tộc lớn thứ hai là người Berber bản địa (còn gọi là Amazigh), chiếm từ 5% đến 10% dân số (khoảng 600.000 người). Họ chủ yếu sinh sống ở các vùng như Dãy núi Nafusa ở phía tây bắc và thị trấn ven biển Zuwarah. Người Berber có ngôn ngữ và văn hóa riêng, và đã có những nỗ lực nhằm khẳng định bản sắc và quyền văn hóa của họ sau năm 2011.
Ở miền nam Libya, đặc biệt là tại các ốc đảo và khu vực như Sebha, Kufra, Ghat, Ghadames và Murzuk, có sự hiện diện của hai nhóm dân tộc thiểu số khác là người Tuareg và người Toubou. Đây là những nhóm người có truyền thống du mục hoặc bán du mục, với ngôn ngữ và văn hóa riêng biệt.
Ngoài ra, còn có một thiểu số nhỏ người gốc Thổ Nhĩ Kỳ, thường được gọi là "Kouloughlis", tập trung ở một số làng mạc và thị trấn, là hậu duệ của những người lính và quan chức Ottoman định cư tại Libya.
Libya là một trong những quốc gia có tính bộ lạc cao nhất thế giới, với khoảng 140 bộ lạc và thị tộc. Cấu trúc xã hội dựa trên bộ lạc vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống chính trị và xã hội. Lòng trung thành với bộ lạc thường đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ cá nhân và chính trị.
Trước năm 2011, Libya có một số lượng lớn lao động nhập cư, ước tính lên tới hơn 2 triệu người, chủ yếu từ Ai Cập. Sau nội chiến, con số này đã giảm xuống còn khoảng 750.000 người Ai Cập. Theo IOM năm 2023, lao động nước ngoài chiếm khoảng 10% dân số Libya (hơn 700.000 người), bao gồm người từ các nước châu Phi cận Sahara, châu Á (Bangladesh, Philippines, Ấn Độ, Pakistan, v.v.).
7.3. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chính thức của Libya là tiếng Ả Rập. Giống tiếng Ả Rập Libya địa phương được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày, bên cạnh tiếng Ả Rập chuẩn hiện đại được dùng trong các văn bản chính thức, giáo dục và truyền thông.
Ngoài tiếng Ả Rập, các ngữ tộc Berber khác nhau cũng được sử dụng bởi cộng đồng người Berber, bao gồm tiếng Tamashek (do người Tuareg nói), tiếng Ghadamès, tiếng Nafusi, tiếng Sokna và tiếng Awjila. Sau năm 2011, đã có những nỗ lực nhằm thúc đẩy việc sử dụng và công nhận tiếng Berber (Tamazight). Hội đồng Tối cao Amazigh Libya (LAHC) đã tuyên bố tiếng Amazigh là ngôn ngữ chính thức tại các thành phố và quận có người Berber sinh sống.
Tiếng Anh được hiểu rộng rãi ở các thành phố lớn và ngày càng trở nên quan trọng trong giáo dục và kinh doanh. Tiếng Ý, ngôn ngữ của cựu thuộc địa, vẫn được một bộ phận dân cư, đặc biệt là thế hệ lớn tuổi và trong một số lĩnh vực thương mại, sử dụng.
Dưới thời Gaddafi, việc giảng dạy và sử dụng tiếng Berber cũng như các ngoại ngữ khác (ngoài tiếng Anh ở một mức độ hạn chế) trong các cơ sở giáo dục chính thức đã bị cấm hoặc hạn chế nghiêm ngặt.
7.4. Tôn giáo

Khoảng 97% dân số Libya là người Hồi giáo, đại đa số thuộc dòng Hồi giáo Sunni. Hồi giáo là quốc giáo và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa, xã hội và pháp luật của đất nước.
Trước những năm 1930, phong trào Senussi là một phong trào Hồi giáo Sunni Sufi quan trọng ở Libya, đặc biệt có ảnh hưởng mạnh mẽ ở vùng Cyrenaica. Phong trào này đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất các bộ lạc và kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Ý. Vua Idris I, vị vua đầu tiên của Libya độc lập, là người đứng đầu dòng tu Sanusi.
Dưới thời Gaddafi, mặc dù ông tuyên bố là một người Hồi giáo sùng đạo và chính phủ của ông ủng hộ các tổ chức Hồi giáo, các hình thức Hồi giáo chính trị và các nhóm Hồi giáo độc lập thường bị kiểm soát chặt chẽ hoặc đàn áp.
Ngoài dòng Sunni chiếm đa số, còn có một số ít người Hồi giáo Ibadi sinh sống trong nước.
Trước khi Libya độc lập, có một cộng đồng Kitô giáo đáng kể, chủ yếu là người gốc Ý và Malta (ước tính hơn 140.000 người). Sau độc lập và đặc biệt là sau năm 1969, nhiều người đã rời đi. Hiện nay, Kitô hữu ở Libya chủ yếu là người nước ngoài. Chính thống giáo Copt là nhánh Kitô giáo lớn nhất và có lịch sử lâu đời nhất, với khoảng 60.000 tín đồ, chủ yếu là người Ai Cập nhập cư. Có ba nhà thờ Copt ở Tripoli, Benghazi và Misrata. Giáo hội Công giáo Rôma có khoảng 40.000 tín đồ, được phục vụ bởi hai giám mục. Cũng có một cộng đồng Anh giáo nhỏ, chủ yếu là người lao động nhập cư châu Phi ở Tripoli. Việc truyền đạo Kitô giáo là bất hợp pháp. Sau năm 2011, các nhóm Kitô hữu đã phải đối mặt với bạo lực từ các phần tử Hồi giáo cực đoan; một video do ISIL công bố vào tháng 2 năm 2015 chiếu cảnh hành quyết hàng loạt các Kitô hữu Copt đã gây chấn động. Libya được xếp hạng thứ tư trong Danh sách Theo dõi Thế giới năm 2022 của Open Doors về các quốc gia nơi Kitô hữu phải đối mặt với sự 박해 khắc nghiệt nhất.
Libya từng là quê hương của một trong những cộng đồng người Do Thái cổ xưa nhất thế giới, có từ ít nhất 300 năm TCN. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít Ý đã thành lập các trại lao động cưỡng bức cho người Do Thái. Từ năm 1945 đến 1948, hơn 140 người Do Thái đã bị sát hại trong các cuộc pogrom. Đến năm 1948, khoảng 38.000 người Do Thái vẫn còn ở nước này. Sau khi Libya độc lập vào năm 1951, hầu hết cộng đồng Do Thái đã di cư. Hiện nay, cộng đồng Do Thái ở Libya gần như không còn tồn tại.
Kể từ sau Nội chiến Libya lần thứ nhất, các dòng Hồi giáo cực kỳ bảo thủ đã tái khẳng định mình ở một số nơi. Derna ở miền đông Libya, nơi có lịch sử là một điểm nóng của tư tưởng thánh chiến, đã nằm dưới sự kiểm soát của các chiến binh liên kết với ISIL vào năm 2014. Các phần tử thánh chiến cũng đã lan rộng đến Sirte và Benghazi, cùng các khu vực khác, do hậu quả của Nội chiến Libya lần thứ hai.
7.5. Giáo dục

Dân số Libya bao gồm 1,7 triệu học sinh, trong đó hơn 270.000 người học ở bậc giáo dục đại học. Giáo dục cơ bản ở Libya miễn phí cho tất cả công dân, và là bắt buộc cho đến bậc trung học cơ sở. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành vào năm 2010 là 89,2%.
Sau khi Libya độc lập vào năm 1951, trường đại học đầu tiên của nước này - Đại học Libya - được thành lập ở Benghazi theo chiếu chỉ của hoàng gia. Trong năm học 1975-76, số lượng sinh viên đại học ước tính là 13.418 người. Đến năm 2004, con số này đã tăng lên hơn 200.000 người, cùng với 70.000 người khác theo học trong lĩnh vực kỹ thuật và dạy nghề bậc cao. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên trong lĩnh vực giáo dục đại học được phản ánh qua sự gia tăng số lượng các cơ sở giáo dục đại học.
Từ năm 1975, số lượng các trường đại học công lập đã tăng từ hai lên mười hai và kể từ khi được giới thiệu vào năm 1980, số lượng các viện kỹ thuật và dạy nghề bậc cao đã tăng lên 84. Từ năm 2007, một số trường đại học tư thục mới như Đại học Y khoa Quốc tế Libya đã được thành lập. Mặc dù trước năm 2011, một số ít các tổ chức tư nhân đã được công nhận, phần lớn giáo dục đại học của Libya luôn được tài trợ từ ngân sách nhà nước. Năm 1998, ngân sách phân bổ cho giáo dục chiếm 38,2% ngân sách quốc gia của Libya.
Năm 2024, Bộ Giáo dục đã công bố triển khai Dự án Trường học Cả ngày, trong đó 12 trường ở các vùng khác nhau của đất nước sẽ có thời gian học dài hơn. Dự án nhằm cung cấp 800 giờ giảng dạy mỗi năm cho 3.300 học sinh tiểu học.
Tuy nhiên, hệ thống giáo dục Libya đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc nội chiến và tình trạng bất ổn kéo dài, dẫn đến thiếu hụt giáo viên, cơ sở vật chất xuống cấp và gián đoạn việc học tập ở nhiều khu vực.
7.6. Y tế
Năm 2010, chi tiêu cho y tế chiếm 3,88% GDP của đất nước. Năm 2009, có 18,71 bác sĩ và 66,95 y tá trên 10.000 dân. Tuổi thọ trung bình khi sinh là 74,95 tuổi vào năm 2011, cụ thể là 72,44 tuổi đối với nam và 77,59 tuổi đối với nữ.
Năm 2023, Bộ Y tế Libya đã công bố triển khai Chiến lược Quốc gia về Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu giai đoạn 2023-2028 nhằm cải thiện các dịch vụ do các phòng khám nhóm và trung tâm y tế cung cấp. Một mã số y tế duy nhất được cấp cho mỗi công dân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cập hồ sơ bệnh án.
Trước Bão Daniel, Văn phòng Điều phối các Vấn đề Nhân đạo của Liên Hợp Quốc ước tính có khoảng 60.000 người cần viện trợ nhân đạo ở Derna và các vùng phụ cận. Kể từ cơn bão, nhiều bệnh viện và cơ sở y tế ban đầu ở Derna và miền đông Libya đã bị tê liệt một phần hoặc hoàn toàn.
Chỉ số Đói Toàn cầu (GHI) năm 2024 của Libya là 19,2, cho thấy mức độ đói vừa phải. Libya xếp thứ 83/127 quốc gia.
Hệ thống y tế của Libya, từng được coi là một trong những hệ thống tốt nhất ở châu Phi nhờ nguồn thu từ dầu mỏ, đã bị suy yếu nghiêm trọng do các cuộc xung đột kéo dài, quản lý yếu kém và thiếu đầu tư. Các bệnh viện và phòng khám thường xuyên thiếu thuốc men, vật tư y tế và nhân viên lành nghề. Khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, đặc biệt ở các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa, còn nhiều hạn chế. Tình trạng bất ổn cũng cản trở các chương trình y tế công cộng và phòng chống dịch bệnh.
8. Văn hóa
Nhiều người Libya nói tiếng Ả Rập tự coi mình là một phần của một cộng đồng Ả Rập rộng lớn hơn. Điều này được củng cố bởi sự lan rộng của chủ nghĩa Liên Ả Rập vào giữa thế kỷ 20, và việc họ nắm quyền ở Libya, nơi họ thiết lập tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước. Dưới sự cai trị của Gaddafi, việc giảng dạy và thậm chí sử dụng tiếng Berber bản địa bị cấm đoán nghiêm ngặt. Ngoài việc cấm các ngôn ngữ nước ngoài từng được giảng dạy trong các cơ sở học thuật, điều này đã khiến cả một thế hệ người Libya bị hạn chế trong việc hiểu tiếng Anh. Cả phương ngữ Ả Rập nói và tiếng Berber vẫn giữ lại các từ từ tiếng Ý, được tiếp thu trước và trong thời kỳ Libia Italiana.


Người Libya có một di sản trong truyền thống của những người nói tiếng Ả Rập Bedouin du mục trước đây và các bộ lạc Berber định cư. Hầu hết người Libya tự liên kết mình với một họ cụ thể có nguồn gốc từ di sản bộ lạc hoặc dựa trên các cuộc chinh phục.
Phản ánh "bản chất cho đi" ({{lang-ar|الاحسان}} {{chuyển tự tiếng Ả Rập|ar|Ihsan}}, {{lang-ber|ⴰⵏⴰⴽⴽⴰⴼ|Anakkaf}}), giữa những người Libya cũng như ý thức hiếu khách, gần đây nhà nước Libya đã lọt vào top 20 trong chỉ số cho đi của thế giới năm 2013. Theo CAF, trong một tháng điển hình, gần ba phần tư (72%) tất cả người Libya đã giúp đỡ một người nào đó mà họ không quen biết - mức cao thứ ba trong số 135 quốc gia được khảo sát.

Có rất ít nhà hát hoặc phòng trưng bày nghệ thuật do nhiều thập kỷ đàn áp văn hóa dưới chế độ Gaddafi và thiếu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng dưới chế độ độc tài. Trong nhiều năm không có nhà hát công cộng, và chỉ có rất ít rạp chiếu phim chiếu phim nước ngoài. Truyền thống văn hóa dân gian vẫn còn sống động, với các đoàn biểu diễn âm nhạc và khiêu vũ tại các lễ hội thường xuyên, cả ở Libya và nước ngoài.
Một số lượng lớn các đài truyền hình Libya tập trung vào các bài bình luận chính trị, các chủ đề Hồi giáo và các hiện tượng văn hóa. Một số đài truyền hình phát sóng nhiều phong cách âm nhạc truyền thống của Libya. Âm nhạc Tuareg và khiêu vũ phổ biến ở Ghadames và miền nam. Truyền hình Libya phát sóng các chương trình chủ yếu bằng tiếng Ả Rập mặc dù thường có các khung giờ cho các chương trình tiếng Anh và tiếng Pháp. Một phân tích năm 1996 của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo cho thấy truyền thông Libya bị kiểm soát chặt chẽ nhất trong thế giới Ả Rập trong thời kỳ độc tài của đất nước. Kể từ năm 2012, hàng trăm đài truyền hình đã bắt đầu phát sóng do sự sụp đổ của kiểm duyệt từ chế độ cũ và sự khởi đầu của "truyền thông tự do".
Nhiều người Libya thường lui tới các bãi biển của đất nước và họ cũng đến thăm các địa điểm khảo cổ của Libya-đặc biệt là Leptis Magna, nơi được nhiều người coi là một trong những địa điểm khảo cổ La Mã được bảo tồn tốt nhất trên thế giới. Phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất giữa các thành phố là xe buýt, mặc dù nhiều người đi bằng ô tô. Không có dịch vụ đường sắt ở Libya, nhưng những dịch vụ này được lên kế hoạch xây dựng trong tương lai gần.
Thủ đô của Libya, Tripoli, có nhiều bảo tàng và kho lưu trữ. Chúng bao gồm Thư viện Chính phủ, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Khảo cổ học, Kho lưu trữ Quốc gia, Bảo tàng Bia ký và Bảo tàng Hồi giáo. Bảo tàng Lâu đài Đỏ nằm ở thủ đô gần bờ biển và ngay trung tâm thành phố, được xây dựng với sự tư vấn của UNESCO, có thể là bảo tàng nổi tiếng nhất của đất nước.
8.1. Truyền thống và lối sống
Người Libya mang trong mình di sản văn hóa phong phú từ truyền thống của những người nói tiếng Ả Rập Bedouin du mục và các bộ lạc Berber định cư. Cuộc sống gia đình đóng vai trò trung tâm trong xã hội Libya. Hầu hết người Libya tự liên kết mình với một họ cụ thể, thường bắt nguồn từ di sản bộ lạc hoặc lịch sử chinh phục. Lòng trung thành với bộ lạc và các mối quan hệ họ hàng vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và trong cấu trúc chính trị.
Lối sống du mục truyền thống của người Bedouin với lều trại đang dần phai nhạt khi ngày càng nhiều người định cư tại các thị trấn và thành phố. Tuy nhiên, các giá trị của lòng hiếu khách, sự tôn trọng người lớn tuổi và tinh thần cộng đồng vẫn được coi trọng. Văn hóa hiếu khách của người Libya rất nổi tiếng; khách thường được mời dùng trà và đồ ăn nhẹ. "Bản chất cho đi" ({{lang-ar|الاحسان|Ihsan}}, {{lang-ber|ⴰⵏⴰⴽⴽⴰⴼ|Anakkaf}}) được thể hiện rõ nét, với việc Libya từng lọt vào top 20 thế giới về chỉ số thiện nguyện.
Hồi giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày, định hình các chuẩn mực xã hội và các nghi lễ. Các ngày lễ tôn giáo như Eid al-Fitr và Eid al-Adha được tổ chức rộng rãi. Trang phục truyền thống như djellaba cho nam và haik cho nữ vẫn được mặc, đặc biệt trong các dịp lễ hội và ở các vùng nông thôn, mặc dù trang phục phương Tây ngày càng phổ biến ở các thành phố.
8.2. Ẩm thực

Ẩm thực Libya là sự pha trộn ảnh hưởng từ ẩm thực Ý, Bedouin và Ả Rập truyền thống. Mì ống là thực phẩm chủ yếu ở miền tây Libya, trong khi gạo thường là thực phẩm chủ yếu ở miền đông.
Các món ăn Libya phổ biến bao gồm nhiều biến thể của các món mì ống sốt cà chua đỏ (tương tự món Sugo all'arrabbiata của Ý); cơm, thường được phục vụ với thịt cừu hoặc gà (thường được hầm, chiên, nướng hoặc luộc trong sốt); và couscous, được hấp trong khi giữ trên nồi sốt cà chua đỏ và thịt đang sôi (đôi khi còn có bí ngòi và đậu gà), thường được phục vụ cùng với dưa chuột thái lát, xà lách và ô liu.
Bazeen, một món ăn làm từ bột lúa mạch và ăn kèm với sốt cà chua đỏ, theo truyền thống được ăn chung, nhiều người cùng chia sẻ một đĩa, thường bằng tay. Món này thường được phục vụ trong các đám cưới truyền thống hoặc lễ hội. Asida là một phiên bản ngọt của Bazeen, làm từ bột mì trắng và ăn kèm với hỗn hợp mật ong, ghee hoặc bơ. Một cách phổ biến khác để phục vụ Asida là với rub (xi-rô chà là tươi) và dầu ô liu. Usban là lòng động vật được khâu lại và nhồi cơm cùng rau củ, nấu trong súp cà chua hoặc hấp. Shurba là một loại súp nền cà chua đỏ, thường được ăn kèm với các hạt mì ống nhỏ.
Một món ăn nhẹ rất phổ biến của người Libya được gọi là khubs bi' tun, nghĩa đen là "bánh mì với cá ngừ", thường được phục vụ dưới dạng bánh mì baguette nướng hoặc bánh mì pita nhồi cá ngừ đã trộn với harissa (tương ớt) và dầu ô liu. Nhiều người bán đồ ăn nhẹ chuẩn bị những chiếc bánh mì sandwich này và chúng có thể được tìm thấy trên khắp Libya. Các nhà hàng Libya có thể phục vụ ẩm thực quốc tế, hoặc có thể phục vụ các món ăn đơn giản hơn như thịt cừu, gà, rau hầm, khoai tây và macaroni. Việc tiêu thụ rượu là bất hợp pháp.
Có bốn thành phần chính của thực phẩm Libya truyền thống: ô liu (và dầu ô liu), chà là, ngũ cốc và sữa. Ngũ cốc được rang, xay, sàng và dùng để làm bánh mì, bánh ngọt, súp và bazeen. Chà là được thu hoạch, sấy khô và có thể ăn nguyên trái, làm thành xi-rô hoặc chiên sơ và ăn với bsisa và sữa. Sau bữa ăn, người Libya thường uống trà đen. Điều này thường được lặp lại lần thứ hai (cho ly trà thứ hai), và trong vòng trà thứ ba, nó được phục vụ với đậu phộng rang hoặc hạnh nhân rang được gọi là shay bi'l-luz (trộn với trà trong cùng một ly).
8.3. Nghệ thuật và truyền thông
Dưới thời Gaddafi, các hoạt động văn hóa nghệ thuật ở Libya bị hạn chế và kiểm soát chặt chẽ. Có rất ít nhà hát công cộng và phòng trưng bày nghệ thuật do thiếu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và sự đàn áp văn hóa. Các rạp chiếu phim chủ yếu chiếu phim nước ngoài. Tuy nhiên, nghệ thuật dân gian truyền thống như âm nhạc và vũ điệu vẫn được duy trì và biểu diễn tại các lễ hội trong và ngoài nước. Âm nhạc Tuareg và các điệu nhảy của họ phổ biến ở Ghadames và các vùng phía nam.
Sau nội chiến năm 2011, đã có những thay đổi đáng kể trong lĩnh vực nghệ thuật và truyền thông. Mặc dù tình hình bất ổn cản trở sự phát triển, một số nghệ sĩ và phòng trưng bày tư nhân đã bắt đầu xuất hiện, mang đến không gian cho các tài năng trẻ thể hiện.
Môi trường truyền thông cũng có sự chuyển biến. Trước năm 2011, truyền thông Libya, bao gồm truyền hình và phát thanh, bị kiểm soát chặt chẽ nhất trong thế giới Ả Rập. Các chương trình chủ yếu bằng tiếng Ả Rập, tập trung vào bình luận chính trị, các chủ đề Hồi giáo và văn hóa theo định hướng của nhà nước. Sau sự sụp đổ của chế độ Gaddafi, hàng trăm đài truyền hình và phát thanh tư nhân đã ra đời, tạo ra một không gian truyền thông đa dạng hơn, mặc dù vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức về chuyên môn, tài chính và an ninh.
Các bảo tàng và kho lưu trữ ở thủ đô Tripoli, như Thư viện Chính phủ, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Khảo cổ học và Bảo tàng Lâu đài Đỏ, lưu giữ nhiều hiện vật quan trọng về lịch sử và văn hóa Libya.
8.4. Thể thao
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Libya. Đội tuyển quốc gia Libya đã từng đăng cai Cúp bóng đá châu Phi 1982 và giành vị trí á quân sau khi thua Ghana trong loạt sút luân lưu. Năm 2014, Libya đã giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Phi sau khi đánh bại Ghana trong trận chung kết. Mặc dù đội tuyển quốc gia chưa từng giành được một giải đấu lớn nào hoặc đủ điều kiện tham dự FIFA World Cup, niềm đam mê bóng đá vẫn rất lớn và chất lượng bóng đá đang được cải thiện. Saadi Gaddafi, con trai thứ ba của Muammar Gaddafi, từng là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, thi đấu cho đội tuyển quốc gia và một số câu lạc bộ ở Ý.
Đua ngựa cũng là một môn thể thao phổ biến ở Libya và là một phần truyền thống trong nhiều dịp đặc biệt và ngày lễ. Libya cũng đã tham gia nhiều kỳ Thế vận hội Mùa hè. Các giải đấu thể thao trong nước, đặc biệt là bóng đá, thu hút sự quan tâm của đông đảo người hâm mộ, mặc dù tình hình bất ổn chính trị đôi khi ảnh hưởng đến việc tổ chức các giải đấu.
8.5. Di sản thế giới
Libya tự hào có năm địa điểm được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, tất cả đều là di sản văn hóa, phản ánh lịch sử phong phú và đa dạng của đất nước:
- Di chỉ khảo cổ Leptis Magna (công nhận năm 1982): Một trong những thành phố La Mã nổi bật và được bảo tồn tốt nhất ở Địa Trung Hải. Các di tích bao gồm một nhà hát, đền thờ, chợ, khải hoàn môn và các công trình công cộng khác, cho thấy sự giàu có và tầm quan trọng của thành phố trong thời kỳ La Mã.
- Di chỉ khảo cổ Sabratha (công nhận năm 1982): Một thành phố cảng cổ của người Phoenicia và sau đó là La Mã, nổi tiếng với nhà hát La Mã được phục dựng một phần, cùng với các đền thờ và nhà tắm công cộng.
- Di chỉ khảo cổ Cyrene (công nhận năm 1982): Một thành phố Hy Lạp cổ đại quan trọng, là một trong năm thành phố của vùng Pentapolis. Các di tích bao gồm đền thờ thần Zeus, đền thờ Apollo, agora, nhà hát và một khu nghĩa địa rộng lớn.
- Các địa điểm nghệ thuật đá Tadrart Acacus (công nhận năm 1985): Một dãy núi sa mạc ở phía tây nam Libya, nổi tiếng với hàng ngàn bức tranh và chạm khắc trên đá có niên đại từ 12.000 TCN đến 100 SCN, mô tả sự thay đổi của hệ động thực vật và cuộc sống của con người qua các thời kỳ.
- Phố cổ Ghadames (công nhận năm 1986): Một thị trấn ốc đảo cổ xưa, được mệnh danh là "viên ngọc của sa mạc", nổi tiếng với kiến trúc bản địa độc đáo với những ngôi nhà bằng bùn có mái che, được thiết kế để chống chọi với khí hậu sa mạc khắc nghiệt.
Tuy nhiên, do tình hình bất ổn và xung đột kéo dài ở Libya, tất cả năm di sản này hiện đang nằm trong Danh sách di sản thế giới bị đe dọa của UNESCO.