1. Sự nghiệp câu lạc bộ
Savić đã trải qua các giai đoạn phát triển quan trọng tại các câu lạc bộ khác nhau, từ khởi đầu ở Serbia đến việc khẳng định tên tuổi tại các giải đấu hàng đầu châu Âu.
1.1. Sự nghiệp tại Serbia
Savić bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với FK BSK Borča trong mùa giải 2008-09. Vào đầu năm 2010, anh có một đợt thử việc kéo dài mười ngày với Arsenal. Theo lời Savić, anh đã đồng ý gia nhập Arsenal vào mùa hè năm đó, nhưng vụ chuyển nhượng cuối cùng đã không thành hiện thực.
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2010, Savić ký hợp đồng bốn năm với Partizan và được trao chiếc áo số 15. Anh đã có bốn lần ra sân ở vòng bảng UEFA Champions League 2010-11 và góp phần giúp câu lạc bộ giành được cú đúp danh hiệu quốc nội (Giải vô địch quốc gia và Cúp quốc gia) trong mùa giải đó.
1.2. Manchester City
Vào ngày 6 tháng 7 năm 2011, Savić ký hợp đồng bốn năm với Manchester City trong một thương vụ trị giá 6.00 M GBP. Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 15 tháng 8 trong trận đấu với Swansea City tại Sân vận động Thành phố Manchester, vào sân từ băng ghế dự bị. Vào ngày 1 tháng 10, anh vào sân từ băng ghế dự bị và ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4-0 trên sân khách trước Blackburn Rovers, đánh đầu ghi bàn từ một quả phạt góc của Samir Nasri.
Trong thời gian trung vệ Vincent Kompany bị cấm thi đấu bốn trận từ ngày 11 đến 25 tháng 1, Savić đã thay thế anh trong đội hình xuất phát, khi lựa chọn thứ ba là Kolo Touré đang làm nhiệm vụ quốc tế với Bờ Biển Ngà tại Cúp bóng đá châu Phi 2012. Mặc dù Savić đôi khi thể hiện những khoảnh khắc xuất sắc trong giai đoạn này, anh cũng mắc nhiều lỗi do sự căng thẳng, dẫn đến những đường chuyền và phá bóng sai vị trí thường xuyên. Đáng chú ý, anh đã để thủng lưới một quả phạt đền trong trận đấu League Cup với Liverpool, dẫn đến thất bại của Manchester City. Một pha chạm bóng lỗi của anh cũng dẫn đến bàn thắng của Jermain Defoe trong chiến thắng 3-2 của City trước Tottenham Hotspur. Khi Kompany trở lại đội hình chính, Savić trở lại băng ghế dự bị. Anh kết thúc mùa giải với 12 lần ra sân ở giải vô địch quốc gia, đủ điều kiện để nhận huy chương khi Manchester City giành chức vô địch Premier League 2011-12 vào ngày cuối cùng của mùa giải. Sau đó, huấn luyện viên Roberto Mancini đã thông báo rằng ông không thể đảm bảo thời gian thi đấu cho Savić trong mùa giải tới, khiến anh quyết định rời câu lạc bộ để gia nhập Fiorentina.
1.3. Fiorentina
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2012, câu lạc bộ Serie A của Ý là Fiorentina đã ký hợp đồng với Savić như một phần của thỏa thuận chuyển nhượng Matija Nastasić sang Manchester City. Anh được trao chiếc áo số 15 và ra mắt Fiorentina vào ngày 7 tháng 10, thi đấu trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 1-0 trước Bologna. Vào tháng 12, anh ghi hai bàn thắng đầu tiên cho đội trong trận hòa 2-2 trên sân nhà với Sampdoria. Anh kết thúc mùa giải với 26 lần ra sân ở giải vô địch quốc gia và một lần ra sân ở Coppa Italia, giúp Fiorentina cán đích ở vị trí thứ tư tại Serie A 2012-13, qua đó giành một suất tham dự UEFA Europa League 2013-14.
Savić tiếp tục là trụ cột trong hàng phòng ngự của Fiorentina trong mùa giải 2013-14, có 31 lần ra sân ở giải vô địch quốc gia khi Fiorentina một lần nữa kết thúc ở vị trí thứ tư. Savić đã có bốn lần ra sân ở vòng bảng Europa League và hai lần nữa ở vòng loại khi Fiorentina lọt vào vòng 16 đội của giải đấu, bị đối thủ Juventus đánh bại với tổng tỷ số 2-1. Anh cũng thi đấu cả hai trận bán kết Coppa Italia thắng Udinese và trong trận chung kết, nơi đội bóng của anh thua 3-1 trước Napoli.
Trong mùa giải 2014-15, Savić đạt cột mốc 100 lần ra sân cho Fiorentina trên mọi đấu trường. Anh là một phần quan trọng trong hành trình của đội bóng đến bán kết Europa League 2014-15 và lần thứ ba liên tiếp cán đích ở vị trí thứ tư tại Serie A, với tổng cộng 41 lần ra sân trên mọi đấu trường.
1.4. Atlético Madrid
Vào ngày 20 tháng 7 năm 2015, Savić chuyển đến Atlético Madrid với mức phí 10.00 M EUR và ký hợp đồng năm năm với câu lạc bộ. Tiền vệ Mario Suárez chuyển đến Fiorentina theo chiều ngược lại miễn phí như một phần của thỏa thuận, mặc dù Suárez sau đó được bán với giá 4.00 M EUR vào tháng 1 năm 2016. Savić trở thành cầu thủ Montenegro đầu tiên thi đấu trong trận chung kết UEFA Champions League ở thế kỷ 21, 18 năm sau Predrag Mijatović, người đã ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết năm 1998 cho Real Madrid trước Juventus.

Tại Atlético, Savić đã tạo thành một cặp trung vệ vững chắc cùng với Diego Godín. Tuy nhiên, anh cũng phải đối mặt với nhiều chấn thương tái phát trong thời gian này. Trước khi mùa giải 2017-18 kết thúc, Inter Milan được cho là đã bày tỏ sự quan tâm đến việc chiêu mộ anh. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2021, Savić đã đạt cột mốc 200 trận đấu chính thức cho câu lạc bộ trong trận đấu với FC Barcelona. Trong mùa giải 2020-21, anh đã có 42 lần ra sân trên mọi đấu trường và góp công lớn giúp câu lạc bộ giành chức vô địch La Liga, danh hiệu đầu tiên của họ sau bảy mùa giải. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2021, anh gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ đến năm 2024.
Trong mùa giải 2022-23, Savić có số lần ra sân không ổn định do những chấn thương nhẹ và các án treo giò. Anh đã thi đấu 22 trận ở giải vô địch quốc gia. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2023, trong trận đấu vòng 16 La Liga với FC Barcelona, anh đã dính thẻ đỏ trực tiếp sau một pha ẩu đả với Ferran Torres và bị cấm thi đấu hai trận sau đó. Cuối tháng 4, anh bị gãy xương ngón chân, dẫn đến một thời gian dài phải nghỉ thi đấu.
1.5. Trabzonspor
Vào ngày 25 tháng 7 năm 2024, câu lạc bộ Süper Lig của Thổ Nhĩ Kỳ là Trabzonspor đã xác nhận rằng Savić đã ký hợp đồng với họ.
2. Sự nghiệp quốc tế

Stefan Savić đã đại diện cho Montenegro ở mọi cấp độ đội trẻ, bao gồm U17, U19 và U21. Anh có trận ra mắt quốc tế cho đội tuyển quốc gia trong một trận giao hữu với Bắc Ireland vào ngày 11 tháng 8 năm 2010, vào sân thay cho Milan Jovanović trong 15 phút cuối cùng tại Sân vận động Pod Goricom. Vào ngày 10 tháng 8 năm 2011, anh đã ghi hai bàn trong trận giao hữu thua 3-2 trước nước láng giềng Albania tại Sân vận động Loro Boriçi ở Shkodër. Tính đến ngày 25 tháng 3 năm 2024, Savić đã có 73 lần khoác áo đội tuyển quốc gia và ghi được 9 bàn thắng.
3. Đời tư
Cha của Stefan, Dragan Savić, từng là chủ tịch hội đồng thành phố ở Mojkovac. Ông đã tự sát vào ngày 6 tháng 4 năm 2011, khi Stefan 20 tuổi. Sau đó, những người hâm mộ cực đoan của Red Star Belgrade (Delije), vốn không nổi tiếng là thông cảm với những người liên quan đến đối thủ cùng thành phố Partizan, đã giăng một biểu ngữ với dòng chữ "Ủng hộ Stefan Savić" sau sự mất mát của cha anh.
Ngoài tiếng Montenegro bản địa, Savić còn nói trôi chảy tiếng Anh, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
4. Thống kê sự nghiệp
4.1. Thống kê cấp câu lạc bộ
Số liệu thống kê tính đến ngày 26 tháng 2 năm 2025.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia (bao gồm Cúp bóng đá Serbia, Cúp FA, Coppa Italia, Cúp Nhà vua Tây Ban Nha, Cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ) | Cúp liên đoàn (bao gồm Cúp EFL) | Châu Âu | Khác (bao gồm Siêu cúp Anh, Siêu cúp châu Âu, Siêu cúp Tây Ban Nha) | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | |||
BSK Borča | 2008-09 | 3 | 0 | 0 | 0 | - | - | - | 3 | 0 | ||||
2009-10 | 21 | 1 | 1 | 1 | - | - | - | 22 | 2 | |||||
2010-11 | 3 | 0 | 0 | 0 | - | - | - | 3 | 0 | |||||
Tổng cộng | 27 | 1 | 1 | 1 | - | - | - | 28 | 2 | |||||
Partizan | 2010-11 | 20 | 1 | 4 | 0 | - | 4 | 0 | - | 28 | 1 | |||
Manchester City | 2011-12 | 11 | 1 | 1 | 0 | 5 | 0 | 3 | 0 | 0 | 0 | 20 | 1 | |
2012-13 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | ||
Tổng cộng | 11 | 1 | 1 | 0 | 5 | 0 | 3 | 0 | 1 | 0 | 21 | 1 | ||
Fiorentina | 2012-13 | 26 | 2 | 1 | 0 | - | - | - | 27 | 2 | ||||
2013-14 | 31 | 0 | 3 | 0 | - | 6 | 0 | - | 40 | 0 | ||||
2014-15 | 29 | 2 | 3 | 0 | - | 9 | 0 | - | 41 | 2 | ||||
Tổng cộng | 86 | 4 | 7 | 0 | - | 15 | 0 | - | 108 | 4 | ||||
Atlético Madrid | 2015-16 | 12 | 0 | 5 | 0 | - | 7 | 0 | - | 24 | 0 | |||
2016-17 | 32 | 1 | 7 | 0 | - | 10 | 0 | - | 49 | 1 | ||||
2017-18 | 27 | 0 | 3 | 0 | - | 7 | 0 | - | 37 | 0 | ||||
2018-19 | 18 | 0 | 2 | 0 | - | 1 | 0 | 1 | 0 | 22 | 0 | |||
2019-20 | 22 | 0 | 0 | 0 | - | 4 | 1 | 2 | 0 | 28 | 1 | |||
2020-21 | 33 | 1 | 1 | 0 | - | 8 | 0 | - | 42 | 1 | ||||
2021-22 | 28 | 0 | 0 | 0 | - | 5 | 0 | 0 | 0 | 33 | 0 | |||
2022-23 | 22 | 0 | 4 | 0 | - | 3 | 0 | - | 29 | 0 | ||||
2023-24 | 23 | 0 | 3 | 0 | - | 6 | 0 | 1 | 0 | 33 | 0 | |||
Tổng cộng | 217 | 2 | 25 | 0 | - | 51 | 1 | 4 | 0 | 297 | 3 | |||
Trabzonspor | 2024-25 | 8 | 0 | 1 | 0 | - | 3 | 0 | - | 12 | 0 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 369 | 9 | 39 | 1 | 5 | 0 | 76 | 1 | 5 | 0 | 494 | 11 |
4.2. Thống kê cấp đội tuyển quốc gia
Số liệu thống kê tính đến ngày 25 tháng 3 năm 2024.
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Montenegro | 2010 | 4 | 0 |
2011 | 8 | 2 | |
2012 | 7 | 0 | |
2013 | 6 | 0 | |
2014 | 4 | 0 | |
2015 | 7 | 1 | |
2016 | 4 | 1 | |
2017 | 6 | 0 | |
2018 | 4 | 1 | |
2019 | 2 | 0 | |
2020 | 3 | 0 | |
2021 | 6 | 0 | |
2022 | 3 | 2 | |
2023 | 8 | 2 | |
2024 | 1 | 0 | |
Tổng cộng | 73 | 9 |
Bàn thắng quốc tế của Stefan Savić:
# | Ngày | Địa điểm | Số trận | Đối thủ | Tỷ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 10 tháng 8 năm 2011 | Sân vận động Loro Boriçi, Shkodër, Albania | 7 | AlbaniaAlbanian | 1-1 | 2-3 | Giao hữu |
2 | 2-1 | ||||||
3 | 8 tháng 9 năm 2015 | Sân vận động Zimbru, Chișinău, Moldova | 33 | MoldovaRomanian | 1-0 | 2-0 | Vòng loại UEFA Euro 2016 |
4 | 8 tháng 10 năm 2016 | Sân vận động Thành phố Podgorica, Podgorica, Montenegro | 38 | Kazakhstan | 5-0 | 5-0 | Vòng loại FIFA World Cup 2018 |
5 | 10 tháng 9 năm 2018 | Sân vận động Thành phố Podgorica, Podgorica, Montenegro | 50 | Litva | 1-0 | 2-0 | UEFA Nations League 2018-19 |
6 | 17 tháng 11 năm 2022 | Sân vận động Thành phố Podgorica, Podgorica, Montenegro | 63 | Slovakia | 1-2 | 2-2 | Giao hữu |
7 | 2-2 | ||||||
8 | 7 tháng 9 năm 2023 | Sân vận động Darius và Girėnas, Kaunas, Litva | 69 | Litva | 2-1 | 2-2 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
9 | 11 tháng 9 năm 2023 | Sân vận động Thành phố Podgorica, Podgorica, Montenegro | 70 | Bulgaria | 1-0 | 2-1 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
5. Danh hiệu
5.1. Danh hiệu cấp câu lạc bộ
- BSK Borča
- Serbian First League: 2008-09
- Partizan
- Serbian SuperLiga: 2010-11
- Cúp bóng đá Serbia: 2010-11
- Manchester City
- Giải bóng đá Ngoại hạng Anh: 2011-12
- Siêu cúp Anh: 2012
- Fiorentina
- Á quân Coppa Italia: 2013-14
- Atlético Madrid
- La Liga: 2020-21
- UEFA Europa League: 2017-18
- Siêu cúp châu Âu: 2018
- Á quân UEFA Champions League: 2015-16
5.2. Danh hiệu cá nhân
- Đội hình tiêu biểu Serbian SuperLiga: 2010-11
- Cầu thủ bóng đá Montenegro của năm: 2016, 2017, 2018, 2020, 2021, 2022, 2023