1. Cuộc sống ban đầu và giáo dục
1.1. Sinh ra và thời thơ ấu
Zumwalt sinh ra tại San Francisco, California, là con trai của Elmo Russell Zumwalt và vợ ông, Frances Pearl (nhũ danh Frank) Zumwalt, cả hai đều là bác sĩ nông thôn. Frances được nuôi dưỡng trong gia đình theo đạo Do Thái, là con gái của Julius và Sarah Frank từ Burlington, Vermont. Gia đình ông sau đó chuyển đến Tulare, California, nơi ông lớn lên. Bà Frances đã xa lánh cha mẹ mình vì kết hôn với người ngoài đạo, do gia đình Zumwalt là người Thiên Chúa giáo.
1.2. Giáo dục và nhập học Học viện Hải quân
Zumwalt là một Eagle Scout và là người nhận Giải thưởng Eagle Scout xuất sắc từ Hội Nam Hướng đạo Hoa Kỳ. Ông theo học Trường Trung học Tulare Union ở Tulare, California, nơi ông trở thành thủ khoa, và Trường Dự bị Rutherford ở Long Beach, California.
Zumwalt ban đầu dự định trở thành bác sĩ giống như cha mẹ mình, nhưng vào năm 1939, ông được nhận vào Học viện Hải quân Hoa Kỳ (USNA) tại Annapolis, Maryland. Với tư cách là một học viên sĩ quan tại USNA, ông là chủ tịch của Hội Trident, phó chủ tịch của Hội Quarterdeck và là người hai lần đoạt giải trong Cuộc thi Hùng biện Tuần lễ Tháng Sáu (1940-41). Zumwalt cũng tham gia tranh luận giữa các trường và là Đại đội trưởng (1941) và Chỉ huy Trung đoàn ba sọc (1942). Ông tốt nghiệp với thành tích xuất sắc và được phong hàm Chuẩn úy vào ngày 19 tháng 6 năm 1942. Ông cũng nhận bằng danh dự từ Đại học Công nghệ Texas.
2. Sự nghiệp Hải quân
2.1. Phục vụ ban đầu và Chiến tranh thế giới thứ hai
Zumwalt được điều động đến tàu USS Phelps (DD-360), một tàu khu trục. Vào tháng 8 năm 1943, Phelps được điều đến Bộ Tư lệnh Huấn luyện Tác chiến - Thái Bình Dương ở San Francisco để huấn luyện. Tháng 1 năm 1944, Zumwalt báo cáo làm nhiệm vụ trên tàu USS Robinson (DD-562). Trên con tàu này, ông đã được trao Huân chương Sao Đồng với Thiết bị Valor vì "sự phục vụ anh hùng với tư cách là Người đánh giá trong Trung tâm Thông tin Chiến đấu... trong hành động chống lại các thiết giáp hạm Nhật Bản của địch trong Hải chiến vịnh Leyte, ngày 25 tháng 10 năm 1944".
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào tháng 8 năm 1945, Zumwalt tiếp tục phục vụ cho đến ngày 8 tháng 12 năm 1945, với tư cách là sĩ quan chỉ huy thủy thủ đoàn tịch thu tàu pháo Ataka của Nhật Bản, một tàu pháo sông có trọng tải 1.20 K t với thủy thủ đoàn 200 người. Trong vai trò này, ông đã đưa con tàu đầu tiên do Mỹ kiểm soát kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ lên sông Hoàng Phố đến Thượng Hải, Trung Quốc. Tại đó, họ đã giúp khôi phục trật tự và hỗ trợ giải giáp quân Nhật.
2.2. Chỉ huy sau chiến tranh và Chiến tranh Triều Tiên
Zumwalt sau đó phục vụ với tư cách là sĩ quan điều hành của tàu khu trục USS Saufley (DD-465), và vào tháng 3 năm 1946, ông được chuyển đến tàu khu trục USS Zellars (DD-777), với tư cách là sĩ quan điều hành và hoa tiêu.
Tháng 1 năm 1948, Zumwalt được điều động đến đơn vị Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Dự bị Hải quân của Đại học Bắc Carolina tại Chapel Hill, nơi ông ở lại cho đến tháng 6 năm 1950. Cùng tháng đó, ông đảm nhận quyền chỉ huy tàu USS Tills (DE-748), một tàu hộ tống khu trục đã được đưa vào trạng thái dự bị. Tills được đưa vào biên chế chính thức tại Xưởng đóng tàu Hải quân Charleston vào ngày 21 tháng 11 năm 1950, và ông tiếp tục chỉ huy con tàu cho đến tháng 3 năm 1951, khi ông gia nhập thiết giáp hạm USS Wisconsin (BB-64) với tư cách là hoa tiêu và phục vụ cùng tàu trong các hoạt động ở Triều Tiên.
Được điều động khỏi USS Wisconsin vào tháng 6 năm 1952, ông theo học tại Học viện Hải chiến, Newport, Rhode Island, và vào tháng 6 năm 1953, ông báo cáo làm trưởng Phòng Căn cứ Bờ biển và Hải ngoại, Cục Nhân sự Hải quân, Bộ Hải quân, Washington, D.C.. Ông cũng từng là sĩ quan phụ trách yêu cầu sĩ quan và hạ sĩ quan, và là sĩ quan hành động về luật Medicare. Hoàn thành chuyến công tác đó vào tháng 7 năm 1955, ông đảm nhận quyền chỉ huy tàu khu trục USS Arnold J. Isbell (DD-869), tham gia hai đợt triển khai với Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Trong nhiệm vụ này, ông được Tư lệnh, Lực lượng Tuần dương-Khu trục, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, khen ngợi vì đã giành chiến thắng trong Cuộc thi Hiệu quả Chiến đấu cho tàu của mình và vì đã giành được Giải thưởng Xuất sắc về Kỹ thuật, Pháo binh, Chống tàu ngầm và Tác chiến. Tháng 7 năm 1957, ông trở lại Cục Nhân sự Hải quân để tiếp tục nhiệm vụ. Tháng 12 năm 1957, ông được chuyển đến Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Hải quân (Nhân sự và Lực lượng Dự bị), và phục vụ với tư cách trợ lý đặc biệt về nhân sự hải quân cho đến tháng 11 năm 1958, sau đó là trợ lý đặc biệt và tùy viên hải quân cho đến tháng 8 năm 1959.
Được lệnh đến con tàu đầu tiên được đóng từ đầu làm khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường, USS Dewey (DLG-14), được đóng tại Bath (Maine) Iron Works, ông đảm nhận quyền chỉ huy khu trục hạm đó khi nó được biên chế vào tháng 12 năm 1959, và chỉ huy nó cho đến tháng 6 năm 1961. Trong thời gian ông chỉ huy, Dewey đã giành được Giải thưởng Xuất sắc về Kỹ thuật, Hậu cần, Vũ khí, và là á quân trong Cuộc thi Hiệu quả Chiến đấu. Ông là sinh viên tại Học viện Chiến tranh Quốc gia, Washington, D.C., trong năm học 1961-1962. Tháng 6 năm 1962, ông được điều động đến Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng (Các vấn đề An ninh Quốc tế), Washington, D.C., nơi ông phục vụ đầu tiên với tư cách là sĩ quan phụ trách Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, sau đó là giám đốc kiểm soát vũ khí và lập kế hoạch dự phòng cho Cuba. Từ tháng 12 năm 1963 cho đến ngày 21 tháng 6 năm 1965, ông phục vụ với tư cách là trợ lý điều hành và phụ tá cao cấp cho Paul H. Nitze, Bộ trưởng Hải quân. Vì nhiệm vụ trong chuyến công tác tại các văn phòng của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và Bộ trưởng Hải quân, ông đã được trao Huân chương Cống hiến.
2.3. Tham gia Chiến tranh Việt Nam
Sau khi được chọn thăng cấp Chuẩn Đô đốc (Hoa Kỳ), Zumwalt đảm nhận quyền chỉ huy Hạm đội Tuần dương-Khu trục Bảy vào ngày 24 tháng 7 năm 1965 tại San Diego. Ông sau đó phục vụ với tư cách Giám đốc, Sư đoàn Phân tích Hệ thống, OPNAV (OP-96) từ tháng 8 năm 1966 đến tháng 8 năm 1968. Tháng 9 năm 1968, ông trở thành Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Việt Nam và Trưởng nhóm Cố vấn Hải quân, Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) và được thăng cấp phó đô đốc vào tháng 10 năm 1968. Zumwalt là cố vấn Hải quân cho Tướng Creighton Abrams, Tư lệnh MACV. Zumwalt luôn nói rất cao về Abrams, và nói rằng Abrams là sĩ quan chu đáo nhất mà ông từng biết.

2.3.1. Chỉ huy với tư cách Tư lệnh Lực lượng Hải quân Việt Nam
Quyền chỉ huy của Zumwalt không phải là một lực lượng hải quân hải quân nước xanh, như Hạm đội Bảy; đó là một đơn vị hải quân nước nâu: ông chỉ huy hạm đội Swift Boats tuần tra bờ biển, cảng và sông của Việt Nam. Trong số các chỉ huy tàu Swift có con trai ông, Elmo Russell Zumwalt III và sau này là thượng nghị sĩ, bộ trưởng ngoại giao tương lai John Kerry. Trong số các lực lượng khác của ông có Lực lượng Đặc nhiệm 115, Lực lượng Giám sát Bờ biển, Lực lượng Đặc nhiệm 116, Lực lượng Tuần tra Sông và Lực lượng Đặc nhiệm 117, Lực lượng Hải đội Sông Di động liên quân Lục quân-Hải quân. Vai trò của ông là một chỉ huy lực lượng hải quân nước nâu tập trung vào việc hỗ trợ các hoạt động trên sông và ven biển, thay vì các hoạt động hải quân quy mô lớn trên biển.
2.3.2. Tranh cãi chất độc màu da cam và ảnh hưởng cá nhân
Trong thời gian chỉ huy ở Việt Nam, Chất độc màu da cam đã được sử dụng trong nhiều chiến dịch. Các nhà sản xuất đã trấn an quân đội rằng chất này không gây hại cho con người, và Zumwalt, cùng với các chỉ huy khác, đã tin vào thông tin đó và thực hiện các chiến dịch rải chất độc màu da cam ở đồng bằng sông Cửu Long để diệt cây cối và đẩy "Việt Cộng lùi 1000 thước khỏi bờ sông". Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe mà chất độc này gây ra theo thời gian.
Con trai cả của Zumwalt, Elmo Zumwalt III, từng là một trung úy trên một trong những tàu tuần tra của ông trong Chiến tranh Việt Nam. Tháng 1 năm 1983, ông được chẩn đoán mắc bệnh u lympho, và vào năm 1985, người ta phát hiện ông cũng mắc bệnh Hodgkin. Ngoài ra, cháu trai của ông, Elmo Russell Zumwalt IV, sinh năm 1977, bị khuyết tật học tập. Đô đốc Zumwalt và gia đình ông tin rằng cả con trai và cháu trai đều là nạn nhân của Chất độc màu da cam.
Trong một bài báo được xuất bản trên The New York Times vào năm 1986, Elmo Zumwalt III đã nói:
- "Tôi là một luật sư và tôi không nghĩ mình có thể chứng minh trước tòa, bằng trọng lượng của các bằng chứng khoa học hiện có, rằng Chất độc màu da cam là nguyên nhân của tất cả các vấn đề y tế - rối loạn thần kinh, ung thư và các vấn đề về da - được báo cáo bởi các cựu chiến binh Việt Nam, hoặc các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng của con cái họ. Nhưng tôi tin rằng đó là nguyên nhân."
Đô đốc Zumwalt và con trai ông đã hợp tác với nhà văn John Pekkanen để viết cuốn sách My Father, My Son, được xuất bản vào tháng 9 năm 1986, trong đó họ thảo luận về bi kịch gia đình về cuộc chiến chống ung thư của con trai ông. Năm 1988, cuốn sách được chuyển thể thành phim truyền hình cùng tên, với Karl Malden đóng vai đô đốc và Keith Carradine đóng vai con trai ông. Elmo Zumwalt III qua đời do ung thư vào ngày 14 tháng 8 năm 1988, ở tuổi 42, ba tháng sau khi bộ phim truyền hình được công chiếu. Nỗi đau cá nhân này đã thúc đẩy ông tích cực vận động cho các cựu chiến binh bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam, nêu bật tác động lâu dài và bi thảm của một quyết định quân sự tưởng chừng vô hại đối với xã hội và quyền con người.
2.4. Nhiệm kỳ là Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ
Tổng thống Richard Nixon đã đề cử Zumwalt làm Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ vào tháng 4 năm 1970. Sau khi được miễn nhiệm chức Tư lệnh Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Việt Nam vào ngày 15 tháng 5 năm 1970, ông đã được trao Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân lần thứ hai vì thành tích đặc biệt xuất sắc.
2.4.1. Các chính sách cải cách hải quân ("Z-grams")
Zumwalt nhậm chức Tham mưu trưởng Hải quân và được thăng cấp đô đốc chính thức vào ngày 1 tháng 7 năm 1970, và nhanh chóng bắt đầu một loạt các động thái nhằm giảm phân biệt chủng tộc và phân biệt giới tính trong Hải quân. Những điều này được phổ biến rộng rãi trong toàn Hải quân dưới dạng các thông báo được gọi là "Z-grams". Các lệnh này bao gồm việc cho phép để râu (tóc mai, ria mép và tóc dài hơn cũng được chấp nhận) và đưa máy bán bia vào doanh trại. Ông cũng thành lập 'Mod Squad' - Hải đội Khu trục 26 và sau này là 31 - để tạo cơ hội chỉ huy sớm cho các sĩ quan trẻ đầy hứa hẹn. Các vị trí được giao ở cấp thấp hơn bình thường. Những chính sách này là nỗ lực quan trọng nhằm nâng cao sự bình đẳng xã hội và quyền con người trong quân đội, cải thiện tinh thần và thu hút nhân tài.
2.4.2. Chiến lược hạm đội "High-Low"
Zumwalt đã định hình lại nỗ lực của Hải quân nhằm thay thế một số lượng lớn các tàu cũ từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai, một kế hoạch được gọi là "High-Low". Được thực hiện bất chấp sự phản đối của Đô đốc Hyman Rickover và những người khác, "High-Low" tìm cách cân bằng việc mua các tàu cao cấp, chạy bằng năng lượng hạt nhân với các tàu cấp thấp, rẻ hơn - như Tàu kiểm soát biển - có thể được mua với số lượng lớn hơn. Rickover, "Cha đẻ của Hải quân Hạt nhân", thích mua một vài tàu lớn hơn hoặc một số lượng cần thiết các tàu chủ lực cùng với nhiều tàu có chức năng thông thường hơn là mua nhiều tàu thông thường. Zumwalt đề xuất bốn loại tàu chiến để phù hợp với kế hoạch; cuối cùng, chỉ có tàu thủy phi cơ lớp Pegasus và khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường lớp Oliver Hazard Perry trở thành hiện thực, và chỉ có sáu trong số hơn 100 chiếc tàu thủy phi cơ lớp Pegasus được đóng. Lớp Oliver Hazard Perry trở thành lớp tàu chiến đông đảo nhất của Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai cho đến khi xuất hiện các tàu lớp Arleigh Burke.
Elmo Zumwalt Jr. nghỉ hưu khỏi Hải quân vào ngày 1 tháng 7 năm 1974, ở tuổi 53. Zumwalt là Tham mưu trưởng Hải quân cuối cùng sống tại Number One Observatory Circle trước khi nó trở thành nơi ở chính thức của Phó Tổng thống Hoa Kỳ. Đối với Zumwalt, không hài lòng với lựa chọn này, đây là lý do đủ để thách thức Thượng nghị sĩ Harry F. Byrd Jr. của Virginia trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 1976 tại Virginia.
3. Hoạt động sau khi nghỉ hưu
3.1. Hoạt động chính trị
Năm 1976, Zumwalt tranh cử không thành công với tư cách là ứng cử viên của Đảng Dân chủ cho Thượng viện Hoa Kỳ từ Virginia, và bị đánh bại bởi thượng nghị sĩ độc lập đương nhiệm Harry F. Byrd Jr. với tỷ lệ 57% so với 38%.
3.2. Dịch vụ công và vận động chính sách
Sau đó, ông giữ chức chủ tịch của American Medical Building Corporation ở Milwaukee, Wisconsin. Trong thời gian con trai ông bị bệnh vào đầu những năm 1980, Đô đốc Zumwalt đã rất tích cực vận động Quốc hội thành lập một cơ quan đăng ký hiến tủy quốc gia. Những người hiến tủy như vậy phục vụ những bệnh nhân không có người hiến tủy phù hợp trong gia đình họ. Mặc dù con trai ông cuối cùng đã có thể nhận được một ca cấy ghép từ chị gái mình, nhiều bệnh nhân không có người thân ruột thịt có khả năng và sẵn lòng giúp đỡ theo cách này. Do đó, những nỗ lực của ông là một yếu tố chính trong việc thành lập Chương trình Hiến tủy Quốc gia (NMDP) vào tháng 7 năm 1986. Đô đốc Zumwalt là chủ tịch đầu tiên của hội đồng quản trị NMDP. Ông cũng bảo vệ Jeremy Boorda về nghi ngờ về huy chương tham chiến Việt Nam của ông này.
3.3. Hoạt động văn học
Sau khi nghỉ hưu, Zumwalt đã viết cuốn On Watch: a Memoir, được xuất bản bởi Quadrangle Books vào năm 1976. Cuốn sách này tổng hợp lại sự nghiệp Hải quân của ông và bao gồm các bản in lại tất cả các Z-grams mà ông đã ban hành khi còn là Tham mưu trưởng Hải quân. Đô đốc Zumwalt và con trai ông đã hợp tác với nhà văn John Pekkanen để viết cuốn sách My Father, My Son, được xuất bản bởi MacMillan vào tháng 9 năm 1986.
4. Cuộc sống cá nhân
Trong khi phục vụ tại Thượng Hải vào năm 1945, Zumwalt đã gặp và kết hôn với Mouza Coutelais-du-Roche, người có gia đình Pháp-Nga đang sống ở đó. Bà trở về Hoa Kỳ cùng ông. Họ có bốn người con: Elmo Russell Zumwalt III; James Gregory Zumwalt; Ann F. Zumwalt Coppola; và Mouzetta C. Zumwalt-Weathers. Trong những năm cuối đời, Zumwalt cư trú tại Hạt Arlington, Virginia.
5. Qua đời

Zumwalt qua đời vào ngày 2 tháng 1 năm 2000, ở tuổi 79, tại Trung tâm Y tế Đại học Duke ở Durham, North Carolina, vì ung thư trung biểu mô, một căn bệnh được cho là do ông đã hít phải amiăng trong suốt thời gian phục vụ Hải quân. Lễ tang của ông được tổ chức tại Nhà nguyện Học viện Hải quân. Trong bài điếu văn của mình, Tổng thống Bill Clinton đã gọi Zumwalt là "lương tâm của Hải quân Hoa Kỳ".
6. Di sản và đánh giá
6.1. Kỷ niệm và vinh danh
Chương trình tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường DD(X) của Hải quân Hoa Kỳ đã được đặt tên là lớp Zumwalt để vinh danh ông, và con tàu dẫn đầu của lớp này, USS Zumwalt (DDG-1000), mang tên ông theo truyền thống Hải quân. Hai chiếc xuồng composite được trang bị trên con tàu này được đặt tên là "Elmo" và "Russell", theo tên ông và con trai ông. Năm 2013, Trung tâm Xuất sắc Ung thư trung biểu mô tại Trung tâm Y tế VA Tây Los Angeles được đổi tên thành Trung tâm Điều trị & Nghiên cứu Elmo Zumwalt. Nó chuyên nghiên cứu ung thư trung biểu mô, đặc biệt cho các cựu chiến binh có thể đã tiếp xúc với amiăng trong thời gian phục vụ.
Năm 1994, Quỹ Tưởng niệm Hải quân Hoa Kỳ đã trao tặng Zumwalt Giải thưởng Thủy thủ Cô đơn (Lone Sailor Award) vì sự nghiệp hải quân xuất sắc của ông. Năm 1972, Zumwalt trở thành thành viên danh dự của Hiệp hội Khoa học Hải quân Hoàng gia Thụy Điển. Hình ảnh của Zumwalt cũng được treo tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh (Thành phố Hồ Chí Minh) ở Thành phố Hồ Chí Minh, gần các bức ảnh của John Kerry, Robert McNamara, Warren Christopher, và các chức sắc Mỹ khác, để tưởng niệm chuyến thăm của ông sau khi bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
7. Danh sách các Z-gram
"Z-gram" là tên bán chính thức cho các chỉ thị chính sách được ban hành bởi Elmo Zumwalt khi ông còn là Tham mưu trưởng Hải quân (CNO). Nhiều chỉ thị trong số này là nỗ lực nhằm cải cách các chính sách lỗi thời có khả năng góp phần gây khó khăn trong việc tuyển dụng và giữ chân nhân sự hải quân đủ điều kiện trong giai đoạn Hoa Kỳ rút khỏi Chiến tranh Việt Nam.
- Z-gram 1 (1 tháng 7 năm 1970): Phát biểu của Zumwalt khi nhậm chức CNO.
- Z-gram 2 (14 tháng 7 năm 1970): Triệu tập một nhóm nghiên cứu về việc giữ chân sĩ quan cấp dưới.
- Z-gram 3 (22 tháng 7 năm 1970): Thủ tục và Chính sách Mật mã.
- Z-gram 4 (30 tháng 7 năm 1970): Cho phép sĩ quan được nghỉ 30 ngày đối với những người có lệnh thay đổi địa điểm công tác vĩnh viễn (PCS).
- Z-gram 5 (30 tháng 7 năm 1970): Triển khai chương trình thử nghiệm trên sáu con tàu để cho phép các Hạ sĩ quan hạng nhất giữ quần áo dân sự trên tàu để mặc khi đi phép, một đặc quyền trước đây chỉ dành cho sĩ quan và Hạ sĩ quan chỉ huy (Hoa Kỳ).
- Z-gram 6 (11 tháng 8 năm 1970): Triển khai chương trình thử nghiệm, được tài trợ hoàn toàn bởi các quân nhân đang làm nhiệm vụ, để hỗ trợ gia đình họ có phương tiện đi lại và chỗ ở để thăm họ tại một cảng phép ở nước ngoài trong các kỳ nghỉ.
- Z-gram 7 (11 tháng 8 năm 1970): Chỉ đạo các sĩ quan chỉ huy phân công người bảo trợ cho nhân sự mới đến. Những người bảo trợ thường cùng cấp bậc và có tình trạng hôn nhân và gia đình tương tự để hỗ trợ gia đình mới đến ổn định tại địa điểm mới.
- Z-gram 8 (11 tháng 8 năm 1970): Kéo dài giờ làm việc của nhân sự viết lệnh sĩ quan từ 16:30 đến 21:00 để những nhân sự đó có thể trả lời các câu hỏi qua điện thoại sau giờ làm việc của các sĩ quan đang chờ lệnh.
- Z-gram 9 (14 tháng 8 năm 1970): Cung cấp một phương tiện thăng cấp thay thế lên hạng nhất và CPO cho những cá nhân có động lực cao đã năm lần trượt các kỳ thi thăng cấp thông thường.
- Z-gram 10 (20 tháng 8 năm 1970): Yêu cầu các căn cứ không quân hải quân phải có một sĩ quan hoặc CPO gặp mỗi máy bay quá cảnh đến để điều phối việc phục vụ máy bay và hỗ trợ phi hành đoàn với việc ăn uống và chỗ ở tạm thời.
- Z-gram 11 (24 tháng 8 năm 1970): Cho phép quân nhân nhập ngũ tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trên biển nếu họ yêu cầu.
- Z-gram 12 (24 tháng 8 năm 1970): Cho phép tất cả quân nhân nhập ngũ, trừ tân binh trong huấn luyện cơ bản, được mặc quần áo dân sự tại các căn cứ bờ biển trong và sau bữa tối.
- Z-gram 13 (26 tháng 8 năm 1970): Chỉ đạo các sĩ quan chỉ huy cấp 30 ngày nghỉ cho ít nhất một nửa thủy thủ đoàn của họ trong 30 ngày đầu tiên sau khi trở về từ đợt triển khai ở nước ngoài.
- Z-gram 14 (27 tháng 8 năm 1970): Bãi bỏ 18 nhiệm vụ phụ trợ truyền thống được giao cho sĩ quan cấp dưới (bao gồm sĩ quan quỹ thuốc lá và sĩ quan thời tiết lạnh) và khuyến khích giao thêm 18 nhiệm vụ phụ trợ khác (bao gồm sĩ quan phim ảnh và sĩ quan thể thao) cho các hạ sĩ quan cao cấp đủ điều kiện.
- Z-gram 15 (28 tháng 8 năm 1970): Ra lệnh cho tất cả các sĩ quan thanh toán cung cấp cho tất cả nhân sự một bản sao kê thu nhập trước ngày 30 tháng 10 năm 1970, liệt kê chi tiết lương cơ bản và các khoản phụ cấp cho quần áo, chỗ ở, nhiệm vụ trên biển và hỏa lực thù địch với thuế, các khoản khấu trừ và phân bổ.
- Z-gram 16 (2 tháng 9 năm 1970): Thành lập một cơ sở dữ liệu máy tính để hỗ trợ nhân sự nhập ngũ muốn đổi nhiệm vụ với một thủy thủ có trình độ tương tự trên một con tàu hoặc cảng nhà khác.
- Z-gram 17 (2 tháng 9 năm 1970): Nâng giới hạn rút tiền tại các căn cứ hải quân từ 25 USD lên 50 USD.
- Z-gram 18 (4 tháng 9 năm 1970): Mở Trung tâm Tài chính Hải quân hoạt động 24/7 cho tất cả các sĩ quan thanh toán xử lý các yêu cầu khẩn cấp về lương và phúc lợi.
- Z-gram 19 (4 tháng 9 năm 1970): Thực hiện một sắc lệnh từ Tổng thống Nixon cho phép tăng tỷ lệ thăng cấp sớm cho sĩ quan.
- Z-gram 20 (8 tháng 9 năm 1970): Yêu cầu tất cả các căn cứ bờ biển phải cung cấp tiện nghi giặt giũ và tủ khóa cho nhân sự nhập ngũ được giao công việc bẩn thỉu trong quần áo lao động.
- Z-gram 21 (9 tháng 9 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy cung cấp thời gian nghỉ bù cho nhân sự đứng gác vào các ngày lễ.
- Z-gram 22 (9 tháng 9 năm 1970): Cho phép các căn cứ bờ biển tổ chức các đội cải thiện cơ sở vật chất cho phúc lợi, sinh hoạt và bãi đậu xe.
- Z-gram 23 (12 tháng 9 năm 1970): Thành lập ban cố vấn CPO cho CNO.
- Z-gram 24 (14 tháng 9 năm 1970): Thiết lập các thủ tục để vợ các thủy thủ trình bày khiếu nại, quan điểm và đề xuất cho các sĩ quan chỉ huy các căn cứ bờ biển.
- Z-gram 25 (16 tháng 9 năm 1970): Cho phép các tàu trong cảng giảm luân phiên đứng gác từ một ngày trong bốn ngày xuống một ngày trong sáu ngày.
- Z-gram 26 (21 tháng 9 năm 1970): Chuyển trách nhiệm về nhân sự tuần tra bờ biển từ quân nhân trên tàu sang quân nhân đóng tại các căn cứ hải quân lớn.
- Z-gram 27 (21 tháng 9 năm 1970): Loại bỏ các hoạt động địa phương thông thường vào cuối tuần đối với các tàu khởi hành từ cảng nhà của họ.
- Z-gram 28 (21 tháng 9 năm 1970): Là một báo cáo tình hình về việc thực hiện các khuyến nghị của các nhóm nghiên cứu giữ chân nhân sự.
- Z-gram 29 (22 tháng 9 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy cho phép 5% thủy thủ đoàn của họ nghỉ phép trong các đợt triển khai ở nước ngoài.
- Z-gram 30 (23 tháng 9 năm 1970): Thành lập các câu lạc bộ sĩ quan "hard-rock" dành cho sĩ quan cấp dưới tại năm căn cứ hải quân và khuyến khích các câu lạc bộ sĩ quan căn cứ hải quân khác cho phép ít nhất một phòng mặc trang phục bình thường, khuyến khích các cô gái trẻ không có người đi kèm đến thăm các câu lạc bộ và bổ nhiệm các sĩ quan trẻ hơn để tư vấn cho quản lý câu lạc bộ về các biện pháp khác nhằm cải thiện tinh thần của sĩ quan cấp dưới.
- Z-gram 31 (23 tháng 9 năm 1970): Thành lập một cuộc thi điều khiển tàu dành cho sĩ quan cấp dưới mà những người chiến thắng sẽ có thể chọn nhiệm vụ tiếp theo của họ.
- Z-gram 32 (23 tháng 9 năm 1970): Cho phép thủy thủ tự sắp xếp lễ tái nhập ngũ với sự hỗ trợ từ chỉ huy của họ.
- Z-gram 33 (25 tháng 9 năm 1970): Thiết lập một thủ tục để cải thiện quan hệ khách hàng tại các trao đổi căn cứ hải quân.
- Z-gram 34 (25 tháng 9 năm 1970): Loại bỏ yêu cầu sĩ quan cấp dưới phải sở hữu đồng phục dạ tiệc chính thức.
- Z-gram 35 (25 tháng 9 năm 1970): Cho phép sử dụng đồ uống có cồn trong doanh trại và máy bán bia trong doanh trại của hạ sĩ quan cao cấp.
- Z-gram 36 (26 tháng 9 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy cải thiện đạo đức phục vụ khách hàng tại các bệnh xá căn cứ và các cơ sở thanh toán.
- Z-gram 37 (26 tháng 9 năm 1970): Giảm cấp bậc yêu cầu để chỉ huy các phi đội không quân từ thiếu tá xuống thiếu tá hải quân (cấp dưới).
- Z-gram 38 (28 tháng 9 năm 1970): Chỉ thị các sĩ quan chỉ huy loại bỏ việc lập lịch công việc vào Chủ nhật và các ngày lễ trừ khi tàu được triển khai ở nước ngoài.
- Z-gram 39 (5 tháng 10 năm 1970): Kéo dài giờ hoạt động của 25 siêu thị lớn tại căn cứ để giảm lượng người đông đúc vào sáng thứ Bảy và các ngày trả lương.
- Z-gram 40 (7 tháng 10 năm 1970): Cho thủy thủ tùy chọn được trả lương bằng tiền mặt hoặc bằng séc.
- Z-gram 41 (21 tháng 10 năm 1970): Thành lập một ghế Chủ tịch Xuất sắc Chỉ huy tại Học viện Hải chiến do một thiếu tá hoặc đại tá có thành tích xuất sắc trong chỉ huy đảm nhiệm.
- Z-gram 42 (13 tháng 10 năm 1970): Cho phép sĩ quan cấp dưới yêu cầu nhiệm vụ trên biển là lựa chọn đầu tiên cho nhiệm vụ ban đầu của họ.
- Z-gram 43 (13 tháng 10 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy giúp các sĩ quan thanh toán xử lý nhanh chóng các yêu cầu bồi hoàn chi phí đi lại lớn.
- Z-gram 44 (13 tháng 10 năm 1970): Khuyến khích giao nhiệm vụ cho hạ sĩ quan cao cấp trực gác sĩ quan trực cảng để giảm khối lượng công việc của sĩ quan cấp dưới.
- Z-gram 45 (15 tháng 10 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy tăng cường các dịch vụ hỗ trợ cho gia đình các tù binh chiến tranh.
- Z-gram 46 (15 tháng 10 năm 1970): Giảm giấy tờ thủ tục hành chính thông thường cần thiết cho các cuộc kiểm tra và tài liệu của hệ thống bảo trì theo kế hoạch 3M.
- Z-gram 47 (20 tháng 10 năm 1970): Tăng trách nhiệm của trưởng phòng và sĩ quan điều hành của các tàu đang được ngừng hoạt động.
- Z-gram 48 (23 tháng 10 năm 1970): Thành lập một văn phòng mới của Cục Nhân sự Hải quân tập trung vào việc cung cấp thông tin cho các gia đình phụ thuộc của nhân sự tại ngũ.
- Z-gram 49 (23 tháng 10 năm 1970): Yêu cầu một nửa số thành viên ban trao giải phải dưới cấp bậc thiếu tá.
- Z-gram 50 (23 tháng 10 năm 1970): Khuyến khích các tàu trở về từ đợt triển khai ở nước ngoài sử dụng các tiện ích trên bờ để cho phép nghỉ phép cho nhiều nhân sự kỹ thuật hơn.
- Z-gram 51 (23 tháng 10 năm 1970): Thành lập một phù hiệu ngực thống nhất cho sĩ quan phụ trách các tàu hải quân nước nâu.
- Z-gram 52 (23 tháng 10 năm 1970): Phổ biến chính sách của CNO.
- Z-gram 53 (2 tháng 11 năm 1970): Phác thảo các thủ tục cho nhân sự cấp dưới đưa ra đề xuất cho CNO.
- Z-gram 54 (2 tháng 11 năm 1970): Cho phép xuất bản danh sách các nhiệm vụ có sẵn cho sĩ quan cấp dưới hàng năm, nhấn mạnh các địa điểm địa lý và các trình độ yêu cầu để lập kế hoạch sự nghiệp.
- Z-gram 55 (4 tháng 11 năm 1970): Thiết lập chương trình thí điểm để cải thiện quản lý nguồn nhân lực Hải quân.
- Z-gram 56 (9 tháng 11 năm 1970): Thiết lập một chương trình tương tự Z-16 cho sĩ quan muốn đổi nhiệm vụ với một sĩ quan có trình độ tương tự trên một con tàu hoặc cảng nhà khác.
- Z-gram 57 (10 tháng 11 năm 1970): Loại bỏ một loạt các quy định được thực thi chọn lọc và quy định các giải thích nới lỏng về các quy định khác liên quan đến tiêu chuẩn chải chuốt và việc mặc đồng phục, để phần lớn các thủy thủ sẽ không bị phạt bởi các chính sách được thiết kế để hạn chế một số ít lạm dụng lòng tin vào các quy tắc ít nghiêm ngặt hơn.
- Z-gram 58 (14 tháng 11 năm 1970): Yêu cầu các cửa hàng trên tàu phải chấp nhận séc để thanh toán.
- Z-gram 59 (14 tháng 11 năm 1970): Thiết lập một chương trình để sĩ quan dành một năm nghiên cứu và học tập độc lập để phát triển chuyên môn trong các lĩnh vực cùng có lợi cho sĩ quan và Hải quân.
- Z-gram 60 (18 tháng 11 năm 1970): Khuyến khích tất cả các cơ sở hải quân lớn lắp đặt thiết bị trả lời tự động trên một điện thoại để nhận các đề xuất.
- Z-gram 61 (19 tháng 11 năm 1970): Cho phép sĩ quan cấp ủy và hạ sĩ quan cao cấp trên tàu phục vụ với tư cách là sĩ quan trực thông tin và người giữ tài liệu mật đã đăng ký.
- Z-gram 62 (27 tháng 11 năm 1970): Thành lập một diễn đàn tại Học viện Hải chiến để thảo luận về các chính sách nhân sự hải quân được cải thiện và trình bày quan điểm của họ cho CNO và Bộ trưởng Hải quân.
- Z-gram 63 (30 tháng 11 năm 1970): Giảm 25% số lượng ấn phẩm phải duy trì bởi các tàu.
- Z-gram 64 (3 tháng 12 năm 1970): Khuyến khích các sĩ quan chỉ huy tăng cơ hội cho sĩ quan cấp dưới thực hành điều khiển tàu.
- Z-gram 65 (5 tháng 12 năm 1970): Liệt kê các ưu đãi cho sĩ quan tình nguyện làm nhiệm vụ tại Việt Nam.
- Z-gram 66 (17 tháng 12 năm 1970): Chỉ đạo mọi cơ sở hải quân bổ nhiệm một sĩ quan thuộc nhóm thiểu số hoặc hạ sĩ quan cao cấp làm trợ lý phụ trách các vấn đề thiểu số cho sĩ quan chỉ huy.
- Z-gram 67 (22 tháng 12 năm 1970): Hợp lý hóa các thủ tục kiểm tra bắt buộc để giảm thời gian cần thiết cho việc chuẩn bị và thực hiện.
- Z-gram 68 (23 tháng 12 năm 1970): Mở rộng đặc quyền mặc quần áo dân sự được đề cập trong Z-gram 5 cho tất cả các hạ sĩ quan trên tất cả các tàu.
- Z-gram 69 (28 tháng 12 năm 1970): Loại bỏ yêu cầu chỉ huy một con tàu có mớn nước sâu khỏi các yêu cầu để thăng cấp đô đốc.
- Z-gram 70 (21 tháng 1 năm 1971): Làm rõ các tiêu chuẩn chải chuốt và quy định đồng phục làm việc được đề cập trong Z-gram 57 để phản ánh kiểu tóc đương đại và cho phép mặc đồng phục làm việc khi đi lại giữa căn cứ và nhà ở ngoài căn cứ.
8. Lịch sử thăng cấp
- Học viên sĩ quan Học viện Hải quân Hoa Kỳ - Lớp 1943, tốt nghiệp vào ngày 19 tháng 6 năm 1942 do nhu cầu thời chiến.
Chuẩn úy | Thiếu úy (Hoa Kỳ) | Trung úy (Hoa Kỳ) | Thiếu tá Hải quân Hoa Kỳ (cấp dưới) | Thiếu tá (Hoa Kỳ) | Đại tá (Hải quân Hoa Kỳ) |
---|---|---|---|---|---|
O-1 | O-2 | O-3 | O-4 | O-5 | O-6 |
Ngày 19 tháng 6 năm 1942 | Ngày 1 tháng 5 năm 1943 | Ngày 1 tháng 7 năm 1944 | Ngày 1 tháng 4 năm 1950 | Ngày 1 tháng 2 năm 1955 | Ngày 1 tháng 7 năm 1961 |
Chuẩn Đô đốc (cấp dưới) | Chuẩn Đô đốc (cấp trên) | Phó Đô đốc (Hoa Kỳ) | Đô đốc (Hoa Kỳ) |
---|---|---|---|
O-7 | O-8 | O-9 | O-10 |
Chưa từng giữ | Ngày 1 tháng 7 năm 1965 | Ngày 1 tháng 10 năm 1968 | Ngày 1 tháng 7 năm 1970 |
9. Các chức vụ chính
- Tháng 8 năm 1942 - Tháng 11 năm 1943: Sĩ quan trực, USS Phelps (DD-360)
- Tháng 11 năm 1943 - Tháng 12 năm 1943: Học viên, Bộ Tư lệnh Huấn luyện Tác chiến Thái Bình Dương, San Francisco, California
- Tháng 1 năm 1944 - Tháng 10 năm 1945: Sĩ quan trực, USS Robinson (DD-562)
- Tháng 10 năm 1945 - Tháng 3 năm 1946: Sĩ quan điều hành, USS Saufley (DD-465)
- Tháng 3 năm 1946 - Tháng 1 năm 1948: Sĩ quan điều hành, USS Zellars (DD-777)
- Tháng 1 năm 1948 - Tháng 6 năm 1950: Trợ lý giáo sư khoa học hải quân, Đơn vị NROTC, Đại học Bắc Carolina tại Chapel Hill
- Tháng 6 năm 1950 - Tháng 3 năm 1951: Sĩ quan chỉ huy, USS Tills (DE-748)
- Tháng 3 năm 1951 - Tháng 6 năm 1952: Hoa tiêu, USS Wisconsin (BB-64)
- Tháng 6 năm 1952 - Tháng 6 năm 1953: Học viên, Học viện Hải chiến, Newport, Rhode Island
- Tháng 6 năm 1953 - Tháng 7 năm 1955: Cục Nhân sự Hải quân, Washington, D.C.
- Tháng 7 năm 1955 - Tháng 7 năm 1957: Sĩ quan chỉ huy, USS Arnold J. Isbell (DD-869)
- Tháng 7 năm 1957 - Tháng 12 năm 1957: Sĩ quan điều động cấp trung úy, Cục Nhân sự Hải quân
- Tháng 12 năm 1957 - Tháng 8 năm 1959: Trợ lý đặc biệt, Trợ lý điều hành, Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Hải quân về Nhân sự và Lực lượng Dự bị
- Tháng 8 năm 1959 - Tháng 6 năm 1961: Sĩ quan chỉ huy tương lai, Sĩ quan chỉ huy, USS Dewey (DLG-14)
- Tháng 8 năm 1961 - Tháng 6 năm 1962: Học viên, Học viện Chiến tranh Quốc gia, Washington, D.C.
- Tháng 6 năm 1962 - Tháng 12 năm 1963: Sĩ quan phụ trách, Văn phòng Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng (Các vấn đề An ninh Quốc tế)
- Tháng 12 năm 1963 - Tháng 6 năm 1965: Trợ lý điều hành, Văn phòng Bộ trưởng Hải quân
- Tháng 7 năm 1965 - Tháng 7 năm 1966: Tư lệnh, Hạm đội Tuần dương-Khu trục Bảy
- Tháng 8 năm 1966 - Tháng 8 năm 1968: Giám đốc, Sư đoàn Phân tích Hệ thống, Văn phòng CNO
- Tháng 9 năm 1968 - Tháng 5 năm 1970: Tư lệnh, Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Việt Nam và Trưởng nhóm Cố vấn Hải quân Việt Nam, Sài Gòn, Nam Việt Nam
- Tháng 7 năm 1970 - Tháng 6 năm 1974: Tham mưu trưởng Hải quân, Lầu Năm Góc, Arlington, Virginia
10. Giải thưởng và huân chương
10.1. Giải thưởng và huân chương quân sự Hoa Kỳ
- Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân với hai ngôi sao vàng
- Huân chương Cống hiến với một ngôi sao vàng
- Huân chương Sao Đồng với Thiết bị Valor
- Huân chương Khen thưởng Hải quân và Thủy quân Lục chiến với Thiết bị Valor
- Bằng khen Đơn vị Hải quân
- Huân chương Phục vụ Trung Quốc
- Huân chương Phục vụ Quốc phòng Hoa Kỳ với thiết bị "A" bằng đồng
- Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ
- Huân chương Chiến dịch Châu Á - Thái Bình Dương với một ngôi sao chiến dịch bạc và hai ngôi sao đồng
- Huân chương Chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ hai
- Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân với kẹp "ASIA"
- Huân chương Phục vụ Quốc phòng với một ngôi sao đồng
- Huân chương Phục vụ Triều Tiên với hai ngôi sao đồng
- Huân chương Phục vụ Việt Nam với một ngôi sao bạc và hai ngôi sao đồng
- Ruy băng Bắn súng Chuyên gia Hải quân
10.2. Giải thưởng dân sự Hoa Kỳ
- Huân chương Tự do Tổng thống
10.3. Giải thưởng nước ngoài
- Đại Thập tự Huân chương Công trạng Hải quân (Argentina)
- Chỉ huy Huân chương Léopold (Bỉ)
- Hạng Sĩ quan cao cấp Huân chương Công trạng Hải quân, Bolivia
- Sĩ quan cao cấp Huân chương Công trạng Hải quân (Brazil)
- Đại Thập tự Huân chương Thập tự phương Nam (Brazil)
- Huân chương Công trạng Chile (Chile)
- Sĩ quan cao cấp Huân chương Công trạng Hải quân Đô đốc Padilla (Colombia)
- Đại Thập tự với Ngôi sao Ngực Bạc Huân chương Công trạng Duarte, Sánchez và Mella (Cộng hòa Dominica)
- Chỉ huy Bắc Đẩu Bội tinh (Pháp)
- Đại Thập tự, Hạng hai Huân chương Công trạng Cộng hòa Liên bang Đức (Đức)
- Đại Thập tự Huân chương George I (Hy Lạp)
- Bintang Jalasena, Hạng nhất (Indonesia)
- Đại Thập tự Huân chương Công trạng Cộng hòa Ý (Ý)
- Đại Bảo huân chương Huân chương Mặt trời mọc (Nhật Bản)
- Huân chương Công trạng Quân sự, Hạng ba (Hàn Quốc)
- Huân chương Công trạng An ninh Quốc gia, Huân chương Tong-Il (Hàn Quốc)
- Sĩ quan cao cấp Huân chương Oranje-Nassau (với Kiếm) (Hà Lan)
- Đại Thập tự Huân chương Hoàng gia Thánh Olav của Na Uy (Na Uy)
- Chỉ huy Đại Thập tự Huân chương Hoàng gia Kiếm (Thụy Điển)
- Huân chương Công trạng Hải quân, Hạng nhất (Venezuela)
- Quốc kỳ Việt Nam, Hạng ba (Cộng hòa Việt Nam)
- Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân Cộng hòa Việt Nam, Hạng nhất (Cộng hòa Việt Nam)
- Chiến công Bội tinh Cộng hòa Việt Nam với Nhành dương liễu (Cộng hòa Việt Nam)
- Huân chương Chương Mỹ, Hạng nhất
- Huân chương Giải phóng Philippines với hai ngôi sao phục vụ (Philippines)
- Huân chương Phục vụ Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên
- Huân chương Chiến dịch Việt Nam (Cộng hòa Việt Nam)
- Huân chương Phục vụ Chiến tranh Triều Tiên (Hàn Quốc)
10.4. Giải thưởng đơn vị nước ngoài
- Bằng khen Đơn vị Tổng thống Philippines (Philippines)
- Bằng khen Đơn vị Tổng thống Hàn Quốc (Hàn Quốc)
- Chiến công Bội tinh Cộng hòa Việt Nam với Nhành dương liễu (Cộng hòa Việt Nam)
- Bằng khen Đơn vị Hành động Dân sự Việt Nam (Cộng hòa Việt Nam)
10.5. Giải thưởng của Hướng đạo sinh Hoa Kỳ
- Giải thưởng Eagle Scout xuất sắc
11. Xem thêm
- Chất độc màu da cam
- Chiến tranh Việt Nam
- Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ