1. Sự nghiệp cầu thủ
Sự nghiệp của Aleksandar "Saša" Pavlović bắt đầu từ những năm tháng trung học, sau đó phát triển mạnh mẽ ở các giải đấu châu Âu trước khi anh được chọn vào NBA và trải qua một thập kỷ tại giải đấu hàng đầu thế giới này. Sau đó, anh trở lại châu Âu để thi đấu chuyên nghiệp thêm vài mùa giải.
1.1. Sự nghiệp đầu đời và châu Âu
Pavlović đã dành một phần thời gian trung học của mình ở Hoa Kỳ, theo học tại Trường Trung học Archbishop Spalding ở Maryland. Tại đây, anh đã thi đấu một mùa giải trong Liên đoàn Công giáo Baltimore và góp phần giúp đội giành chức vô địch.
1.1.1. KK Budućnost Podgorica (2000-2003)
Sự nghiệp chuyên nghiệp của Pavlović bắt đầu tại câu lạc bộ KK Budućnost Podgorica ở quê nhà.
Trong mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên (2000-01) cho Budućnost, Pavlović đã chơi 14 trận ở Giải YUBA và ghi trung bình 1.4 điểm mỗi trận. Đến mùa giải thứ hai (2001-02), anh thi đấu 3 trận ở Giải YUBA với trung bình 6.7 điểm. Ngoài ra, Pavlović cũng có 2 lần ra sân tại EuroLeague.
Trong mùa giải cuối cùng của mình ở Podgorica (2002-03), Pavlović đã chơi 20 trận ở Giải YUBA, đạt trung bình 10.1 điểm và 2.4 rebound mỗi trận. Tại EuroLeague, anh ghi trung bình 9.6 điểm với tỉ lệ ném rổ thành công 54%, bao gồm kỷ lục cá nhân 21 điểm trong một trận đấu với TAU Cerámica.
1.2. Sự nghiệp NBA
Aleksandar Pavlović đã trải qua 10 mùa giải đáng chú ý tại Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia (NBA), thi đấu cho nhiều đội khác nhau, đánh dấu những cột mốc quan trọng trong sự nghiệp của anh ở giải đấu này.
1.2.1. Utah Jazz (2003-2004)
Pavlović được Utah Jazz lựa chọn ở lượt chọn thứ 19 trong NBA Draft 2003. Trong 79 trận đấu anh tham gia (14 lần xuất phát), Pavlović ghi trung bình 4.8 điểm và 2.0 rebound. Anh đạt kỷ lục cá nhân 18 điểm trong mùa giải vào ngày 3 tháng 12 năm 2003, trong trận đấu với Houston Rockets và có 9 rebound trong hai trận đấu khác. Tỉ lệ ném 3 điểm của anh là 27.1% và tỉ lệ ném phạt tổng thể là 39.6%.
1.2.2. Cleveland Cavaliers (2004-2009)
Pavlović được Charlotte Bobcats chọn trong bản mở rộng vào ngày 22 tháng 6 năm 2004, và sau đó được chuyển đến Cleveland Cavaliers vào ngày hôm sau để đổi lấy một lượt chọn vòng một trong NBA Draft 2007.
Trong mùa giải 2004-05, anh chơi 65 trận (9 lần xuất phát), ghi trung bình 4.8 điểm và 1.1 rebound. Anh đạt kỷ lục cá nhân 17 điểm hai lần và có 9 trận ghi trên 10 điểm.
Trong mùa giải 2005-06, Pavlović ra sân 53 trận (19 lần xuất phát), ghi trung bình 4.5 điểm và 1.5 rebound. Anh ghi kỷ lục cá nhân 21 điểm vào ngày 21 tháng 2 năm 2006, trong trận đấu với Orlando Magic. Tại vòng Playoff, anh chỉ thi đấu 3 phút trong 3 trận và ghi được 1 rebound.
Mùa giải 2006-07 là một trong những mùa giải nổi bật nhất của Pavlović. Anh thi đấu 67 trận (28 lần xuất phát), đạt trung bình kỷ lục sự nghiệp 9.0 điểm, cùng với 2.4 rebound và 1.6 kiến tạo. Anh ghi trên 20 điểm trong 7 trận, bao gồm kỷ lục sự nghiệp mới 25 điểm vào ngày 13 tháng 3 năm 2007, trong trận đấu với Sacramento Kings. Khoảng hai tuần sau, Pavlović đạt kỷ lục cá nhân với 6 cú ném 3 điểm thành công (trong 7 lần thử) trong trận đấu với New York Knicks. Kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2007, Pavlović được xếp vào vị trí hậu vệ ghi điểm chính thức của Cavaliers và đã xuất phát trong 24 trận đấu còn lại của mùa giải thường. Với tư cách cầu thủ xuất phát, Pavlović ghi trung bình 12.7 điểm, 3.0 rebound và 2.3 kiến tạo.
Pavlović đã xuất phát trong tất cả 20 trận đấu Playoff của Cavaliers năm 2007. Anh đạt kỷ lục cá nhân tại Playoff với 17 điểm trong chiến thắng ở Game 2 trước New Jersey Nets tại Bán kết Miền Đông và 9 rebound trong chiến thắng sau hiệp phụ ở Game 5 trước Detroit Pistons tại Chung kết Miền Đông.
Vào mùa giải phụ 2007, Pavlović trở thành cầu thủ tự do bị hạn chế. Ngày 30 tháng 10 năm 2007, sau gần một tháng đình công, anh ký hợp đồng gia hạn 3 năm trị giá 13.70 M USD với Cavaliers.
Pavlović bị chấn thương bàn chân trái vào ngày 23 tháng 1 năm 2008, trong trận đấu với Washington Wizards và trở lại vào ngày 12 tháng 3 sau khi bỏ lỡ 23 trận. Anh thi đấu 9 phút và không ghi được điểm nào. Vào ngày 14 tháng 3, Pavlović ghi kỷ lục cá nhân mùa giải 24 điểm trong trận đấu với Washington Wizards. Anh ghi trên 10 điểm trong tổng cộng 15 trận. Trong mùa giải 2007-08, Pavlović thi đấu 51 trận (45 lần xuất phát) và ghi trung bình 7.4 điểm, kỷ lục sự nghiệp 2.5 rebound và 1.6 kiến tạo. Trong 8 trận Playoff, anh ghi trung bình 3.5 điểm và 1.3 rebound.
Trong mùa giải 2008-09, Cavaliers bị Orlando Magic đánh bại tại Chung kết Miền Đông 2009 với tỉ số 4-2. Vào ngày 25 tháng 6 năm 2009, Pavlović, Ben Wallace và lượt chọn thứ 46 được chuyển đến Phoenix Suns để đổi lấy người đồng đội sau này là Shaquille O'Neal. Ngày 14 tháng 9 năm 2009, anh bị Suns mua lại hợp đồng.
Khi còn chơi cho Cavaliers, Pavlović đã mua một chiếc xe BMW từ LeBron James. Có một truyền thuyết đô thị ở Serbia rằng Pavlović đã thắng chiếc xe sau khi đánh bại James trong một trận đấu 1 chọi 1, nhưng Pavlović đã bác bỏ điều này trong một cuộc phỏng vấn, khẳng định không có trận đấu như vậy. Trong một cuộc phỏng vấn khác vào ngày 2 tháng 1 năm 2020, anh tiết lộ rằng mình vẫn sở hữu chiếc xe đó.
1.2.3. Nhiều đội NBA (2009-2013)
Sau giai đoạn ở Cleveland Cavaliers, Pavlović đã có những khoảng thời gian ngắn thi đấu cho nhiều đội khác nhau trong NBA.
Ngày 17 tháng 9 năm 2009, Pavlović ký hợp đồng một năm trị giá 1.50 M USD với Minnesota Timberwolves. Trong 71 trận đấu, anh ghi trung bình 3.7 điểm mỗi trận.
Ngày 10 tháng 1 năm 2011, Pavlović ký hợp đồng 10 ngày với Dallas Mavericks. Anh đã có trận đấu xuất phát đầu tiên cho Mavericks vào ngày cuối cùng của hợp đồng, ghi 11 điểm trong chiến thắng 109-100 của Mavericks trước Los Angeles Lakers. Ngày 20 tháng 1 năm 2011, anh ký hợp đồng 10 ngày thứ hai với Mavericks, nhưng hợp đồng này hết hạn vào ngày 30 tháng 1 năm 2011 và Mavericks đã không ký hợp đồng với anh trong phần còn lại của mùa giải.
Ngày 4 tháng 2 năm 2011, Pavlović ký hợp đồng 10 ngày với New Orleans Hornets (nay là New Orleans Pelicans). Hợp đồng của anh hết hạn vào ngày 14 tháng 2 năm 2011 và Hornets đã không ký hợp đồng 10 ngày thứ hai với anh.
Ngày 3 tháng 3 năm 2011, Pavlović ký hợp đồng với Boston Celtics cho phần còn lại của mùa giải 2010-11. Trong lần ra sân đầu tiên với Boston vào ngày 6 tháng 3 năm 2011, trong trận đấu với Milwaukee Bucks, anh đã chơi 12 phút, ném thành công 1/2 cú 3 điểm và 1/3 cú ném rổ tổng thể, ghi được 3 điểm và 2 lần cướp bóng. Hợp đồng của anh hết hạn sau vòng Playoff 2011, và anh trở về Montenegro để tập luyện trong mùa hè. Ngày 12 tháng 12 năm 2011, sau khi đình công NBA 2011 kết thúc, Pavlović tái ký hợp đồng với Celtics. Mùa giải NBA 2011-12 khai mạc vào Ngày Giáng Sinh năm 2011 và Pavlović đã xuất phát thay cho Paul Pierce bị chấn thương. Anh chơi 15 phút mà không thực hiện bất kỳ cú ném nào hay ghi điểm nào. Trong trận đấu áp chót của Celtics trong mùa giải, chiến thắng 78-66 trước Miami Heat, Pavlović ghi 16 điểm từ băng ghế dự bị. Trong 45 trận đấu (7 lần xuất phát), anh ghi trung bình 2.7 điểm trong 11.7 phút mỗi trận.
Ngày 20 tháng 7 năm 2012, Pavlović được chuyển nhượng đến Portland Trail Blazers trong một thỏa thuận 3 đội.
Trận đấu NBA cuối cùng của Pavlović diễn ra vào ngày 17 tháng 4 năm 2013, trong trận thua 88-99 trước Golden State Warriors, nơi anh ghi 6 điểm và 1 rebound. Ngày 6 tháng 7 năm 2013, Pavlović bị Trail Blazers miễn nhiệm.
1.3. Trở lại giải đấu châu Âu
Sau khi kết thúc sự nghiệp tại NBA, Aleksandar Pavlović trở lại thi đấu ở các giải đấu chuyên nghiệp châu Âu, nơi anh tiếp tục thể hiện tài năng và giành được những thành công đáng kể.
1.3.1. Partizan Belgrade (2014-2015)
Vào ngày 10 tháng 2 năm 2014, Pavlović trở lại châu Âu và chính thức ký hợp đồng với đội bóng mạnh của Serbia, Partizan Belgrade, cho phần còn lại của mùa giải 2013-14. Partizan đã kết thúc mùa giải bằng việc giành chức vô địch quốc nội thứ 13 liên tiếp, đánh bại đối thủ truyền kiếp Red Star Belgrade với tỉ số 3-1 trong loạt trận chung kết. Trong loạt trận chung kết, anh ghi trung bình 11.7 điểm và 2.7 rebound mỗi trận. Dù Pavlović là cầu thủ giàu kinh nghiệm nhất trong đội hình, đây lại là chức vô địch đầu tiên trong sự nghiệp chuyên nghiệp của anh. Một ngày sau trận đấu, anh nói rằng việc giành chức vô địch cùng Partizan là thành tích lớn nhất trong sự nghiệp của mình.
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2014, Pavlović trở lại Partizan và ký hợp đồng cho phần còn lại của mùa giải. Trong trận ra mắt Giải ABA mùa giải mới, anh đã dẫn dắt đội bóng giành chiến thắng 89-80 trước Mega Leks với 26 điểm, 4 rebound và 4 kiến tạo. Trong 19 trận đấu tại Giải Adriatic, anh ghi trung bình 11.9 điểm và 3.7 rebound mỗi trận.
1.3.2. Panathinaikos (2015-2016)
Ngày 9 tháng 7 năm 2015, Pavlović ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ Panathinaikos của Hy Lạp. Vào ngày 21 tháng 4 năm 2016, anh được câu lạc bộ giải phóng hợp đồng. Đây cũng là giai đoạn cuối cùng trong sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của Pavlović.
2. Sự nghiệp quốc tế
Pavlović là thành viên của đội tuyển quốc gia U-20 Serbia và Montenegro và đã thi đấu tại Giải vô địch U20 châu Âu FIBA 2002 ở Lithuania. Anh cũng là thành viên của đội tuyển quốc gia Serbia và Montenegro tại Thế vận hội Mùa hè 2004 ở Athens, thi đấu 4 trận, ghi trung bình 3.5 điểm và 1.8 rebound. Hai năm sau, Montenegro, quê hương của anh, tuyên bố độc lập khỏi Liên bang Nhà nước Serbia và Montenegro. Sau đó, Pavlović bày tỏ mong muốn được thi đấu cho đội tuyển quốc gia Serbia. Tuy nhiên, anh đã không thi đấu cho đội tuyển Serbia hay Montenegro. Khi được hỏi về khả năng trở lại đội tuyển vào tháng 2 năm 2014, anh đã trả lời: "Tôi không nghĩ về đội tuyển quốc gia. Đối với tôi, nó đã trở thành vấn đề chính trị, chứ không phải vấn đề thể thao. Đây là lý do tại sao tôi quyết định không tham gia [đội tuyển quốc gia]."
3. Sự nghiệp sau giải nghệ
Vào tháng 12 năm 2018, Pavlović được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của Partizan Belgrade dưới sự chủ trì của Ostoja Mijailović. Điều này đánh dấu sự chuyển đổi của anh từ vai trò cầu thủ sang vai trò điều hành trong bóng rổ.
4. Đời tư
Aleksandar Pavlović đã kết hôn với Dunja. Hai người có ba người con là Luka, Minja và Andrej.
5. Thống kê sự nghiệp
5.1. NBA mùa giải thường
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2003 | Utah Jazz | 79 | 14 | 14.5 | .396 | .271 | .774 | 2.0 | .8 | .5 | .2 | 4.8 |
2004 | Cleveland Cavaliers | 65 | 9 | 13.3 | .435 | .385 | .688 | 1.1 | .8 | .4 | .1 | 4.8 |
2005 | Cleveland Cavaliers | 53 | 19 | 15.3 | .410 | .365 | .653 | 1.5 | .5 | .4 | .1 | 4.5 |
2006 | Cleveland Cavaliers | 67 | 28 | 22.9 | .453 | .405 | .794 | 2.4 | 1.6 | .8 | .3 | 9.0 |
2007 | Cleveland Cavaliers | 51 | 45 | 23.3 | .362 | .298 | .688 | 2.5 | 1.6 | .6 | .1 | 7.4 |
2008 | Cleveland Cavaliers | 66 | 12 | 16.0 | .422 | .410 | .463 | 1.9 | 1.1 | .3 | .2 | 4.6 |
2009 | Minnesota Timberwolves | 71 | 0 | 12.4 | .363 | .297 | .385 | 1.6 | .8 | .3 | .1 | 3.7 |
2010 | Dallas Mavericks | 10 | 6 | 16.3 | .429 | .438 | .800 | 1.2 | .7 | .5 | .3 | 4.1 |
2010 | New Orleans Pelicans | 4 | 1 | 12.5 | .182 | .000 | .000 | 1.5 | 1.5 | .0 | 1.0 | 1.0 |
2010 | Boston Celtics | 17 | 0 | 8.8 | .462 | .500 | .400 | .8 | .2 | .3 | .0 | 1.8 |
2011 | Boston Celtics | 45 | 7 | 11.7 | .391 | .293 | .375 | 1.6 | .4 | .4 | .3 | 2.7 |
2012 | Portland Trail Blazers | 39 | 1 | 13.5 | .353 | .300 | .167 | 1.4 | .8 | .6 | .1 | 2.6 |
Sự nghiệp | 567 | 142 | 15.7 | .404 | .346 | .673 | 1.8 | .9 | .5 | .2 | 4.9 |
5.2. NBA Playoffs
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2006 | Cleveland Cavaliers | 3 | 0 | 1.3 | .000 | .000 | .000 | .3 | .0 | .0 | .0 | .0 |
2007 | Cleveland Cavaliers | 20 | 20 | 30.8 | .381 | .345 | .528 | 2.6 | 1.6 | 1.0 | .3 | 9.2 |
2008 | Cleveland Cavaliers | 8 | 0 | 13.9 | .385 | .444 | .667 | 1.3 | .1 | .3 | .0 | 3.5 |
2009 | Cleveland Cavaliers | 11 | 0 | 8.3 | .500 | .250 | .333 | 1.4 | .4 | .4 | .0 | 2.1 |
2012 | Boston Celtics | 10 | 0 | 4.0 | .333 | .200 | .000 | .5 | .1 | .1 | .1 | .7 |
Sự nghiệp | 52 | 20 | 16.6 | .386 | .333 | .533 | 1.6 | .7 | .5 | .1 | 4.6 |
5.3. EuroLeague
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG | PIR |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2001-02 | Budućnost | 2 | 0 | 3.1 | .000 | .000 | .000 | .0 | .0 | .0 | .0 | .0 | -2.0 |
2002-03 | Budućnost | 13 | 5 | 19.6 | .463 | .294 | .640 | 1.4 | 1.0 | .8 | .5 | 9.7 | 7.0 |
2013-14 | Partizan | 7 | 4 | 26.4 | .395 | .333 | .818 | 3.3 | 1.7 | 1.1 | .0 | 11.4 | 7.1 |
2015-16 | Panathinaikos | 25 | 17 | 17.2 | .397 | .250 | .632 | 2.6 | 1.1 | .6 | .3 | 5.6 | 4.2 |
Sự nghiệp | 47 | 26 | 18.7 | .415 | .279 | .662 | 2.2 | 1.1 | .7 | .3 | 7.4 | 5.1 |