1. Tổng quan
Ahmed Eissa Elmohamady Abdel Fattah (أحمد المحمديArabic; sinh ngày 9 tháng 9 năm 1987) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ai Cập có chiều cao 1.83 m, từng thi đấu ở vị trí hậu vệ phải và là đội trưởng Đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập. Anh hiện đang làm việc trong bộ phận thương mại của câu lạc bộ Aston Villa.
Elmohamady bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại các câu lạc bộ Ai Cập trước khi chuyển đến Sunderland thuộc Premier League vào năm 2010, ban đầu dưới dạng cho mượn từ ENPPI. Anh đã có hơn 240 lần ra sân ở giải vô địch quốc gia cho Sunderland và Hull City trước khi gia nhập Aston Villa vào mùa hè năm 2017. Trong sự nghiệp của mình, anh đã ba lần giành quyền thăng hạng lên Premier League từ Championship; hai lần với Hull City và một lần với Aston Villa.
Anh được huấn luyện viên Hassan Shehata triệu tập vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập lần đầu tiên vào năm 2007 và đã có tổng cộng 92 lần khoác áo đội tuyển quốc gia. Anh là một phần của các đội tuyển Ai Cập đã giành chức vô địch Cúp bóng đá châu Phi vào các năm 2008 và 2010.
2. Giai đoạn đầu đời và sự nghiệp trẻ
Ahmed Elmohamady sinh ngày 9 tháng 9 năm 1987 tại Basyoun, El Gharbia, Ai Cập. Anh bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trẻ tại Ghazl El Mahalla vào năm 2003. Chỉ hai năm sau, vào năm 2004, ở tuổi 17, anh đã bắt đầu thi đấu cho đội một của câu lạc bộ này. Sau đó, vào năm 2006, anh chuyển đến ENPPI Club. Dù khởi đầu sự nghiệp với vai trò tiền đạo tại Ghazl El Mahalla, nhưng sau khi gia nhập ENPPI, anh đã chuyển sang chơi ở vị trí hậu vệ phải.
3. Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp của Ahmed Elmohamady trải dài qua nhiều câu lạc bộ, chủ yếu là ở Ai Cập và Anh.
3.1. ENPPI
Ahmed Elmohamady gia nhập ENPPI vào năm 2006. Mặc dù ban đầu chơi ở vị trí tiền đạo tại câu lạc bộ trước đó là Ghazl El Mahalla, anh đã chuyển sang vai trò hậu vệ phải sau khi đến ENPPI. Trong một thời gian dài, Elmohamady đã thu hút sự chú ý của một số câu lạc bộ châu Âu. Tuy nhiên, ENPPI tỏ ra miễn cưỡng trong việc cho phép anh chuyển đến bất kỳ đội bóng nào trong số đó.
Vào mùa hè năm 2007, ENPPI đã từ chối một lời đề nghị từ Hertha BSC vì câu lạc bộ Đức này không đáp ứng được các yêu cầu tài chính của đội bóng Ai Cập. Cầu thủ cũng từ chối một lời đề nghị khác từ Rapid București của România vào năm 2007.
Vào ngày 25 tháng 11 năm 2008, Elmohamady đã hoàn tất năm ngày thử việc với câu lạc bộ Premier League là Blackburn Rovers theo yêu cầu của huấn luyện viên Paul Ince. Huấn luyện viên mới của Rovers, Sam Allardyce, đã cử một quan chức cấp cao đến Ai Cập để bắt đầu đàm phán với câu lạc bộ Ai Cập vào tháng 1 năm 2009. Tuy nhiên, thương vụ đã không thành công vì Allardyce tin rằng Elmohamady sẽ khó có thể tạo ra tác động ngay lập tức.
3.2. Sunderland

Elmohamady đã gây ấn tượng với huấn luyện viên Sunderland Steve Bruce trong thời gian thử việc với đội bóng Premier League vào tháng 8 năm 2009. Tuy nhiên, vào ngày 31 tháng 1 năm 2010, Sunderland đã không thể ký hợp đồng với anh. Câu lạc bộ Bỉ Club Brugge cũng quan tâm đến cầu thủ này và, theo ENPPI, đã đưa ra lời đề nghị.
ENPPI đã chấp nhận cả lời đề nghị cho mượn từ West Bromwich Albion và Sunderland đối với Elmohamady. Mặc dù lời đề nghị của West Brom lớn hơn, Elmohamady đã chọn đến Sunderland sau khi thử việc.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 2010, Elmohamady gia nhập Sunderland sau khi vượt qua kiểm tra y tế cho một hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải từ ENPPI với mức phí 500.00 K GBP, kèm theo tùy chọn mua đứt vĩnh viễn với giá 2.00 M GBP vào mùa hè năm sau. Elmohamady đã có trận ra mắt cho Sunderland trong trận hòa 2-2 với Birmingham City vào ngày 14 tháng 8 năm 2010. Anh đã giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận trong các màn trình diễn của mình trước Arsenal và Manchester City. Do khởi đầu ấn tượng tại Sunderland, huấn luyện viên Steve Bruce đã bày tỏ mong muốn ký hợp đồng vĩnh viễn với Elmohamady trong kỳ chuyển nhượng tháng Giêng.

Vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, Sunderland thông báo rằng họ đã thực hiện tùy chọn chuyển nhượng với giá 2.00 M GBP đã được bao gồm trong thỏa thuận cho mượn, biến hợp đồng của Elmohamady thành hợp đồng vĩnh viễn. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2011, hợp đồng vĩnh viễn đã chính thức được Sunderland xác nhận, với Elmohamady ký hợp đồng giữ anh ở Sân vận động Ánh sáng cho đến năm 2014. Huấn luyện viên Steve Bruce nói thêm: "Ahmed đã thể hiện tốt trong mùa giải đầu tiên của mình với câu lạc bộ và đã cho thấy nhiều tiềm năng. Chúng tôi mong muốn giúp anh ấy phát triển hơn nữa với tư cách là một cầu thủ và tôi nghĩ anh ấy còn có thể làm được nhiều hơn thế."
Elmohamady đã đá chính trong trận đấu đầu tiên của Sunderland ở giải vô địch quốc gia mùa giải 2011-12 trên sân khách của Liverpool, và kiến tạo bàn thắng ra mắt của Sebastian Larsson khi Black Cats hòa 1-1. Anh ghi bàn thắng đầu tiên bằng đầu cho Sunderland trong trận hòa 2-2 với West Bromwich Albion vào ngày 1 tháng 10 năm 2011. Elmohamady không còn được trọng dụng sau sự ra đi của Bruce vào tháng 12 năm 2011 và không có trận đá chính nào dưới thời người thay thế ông, Martin O'Neill. Cuối mùa giải 2011-12, Elmohamady đã có 21 lần ra sân trên mọi đấu trường.
3.3. Hull City

Vào ngày 30 tháng 8 năm 2012, Elmohamady chuyển đến Hull City của Championship theo một hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải, ưu tiên việc tái hợp với cựu huấn luyện viên của Sunderland là Steve Bruce. Vào ngày 1 tháng 9, anh có trận ra mắt cho câu lạc bộ tại KC Stadium trước Bolton Wanderers. Ngày 18 tháng 9 năm 2012, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ, là bàn thắng mở tỷ số trong chiến thắng 3-2 của đội mình trước Leeds United tại Elland Road. Anh cũng cung cấp hai pha kiến tạo trong trận đấu derby tại Elland Road. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2013, Sunderland quyết định sử dụng điều khoản gọi lại. Ngày 31 tháng 1 năm 2013, anh trở lại Hull dưới dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải 2012-13. Tại lễ trao giải thường niên vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, tại KC Stadium, Elmohamady đã được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm.
Sau khi được cho mượn từ Sunderland trong mùa giải 2012-13, vào ngày 28 tháng 6 năm 2013, Elmohamady đã ký hợp đồng ba năm để trở thành thành viên chính thức của đội hình Hull City. Anh có trận ra mắt vào ngày đầu tiên của mùa giải 2013-14 trong trận thua 0-2 trên sân khách của Chelsea. Ngày 21 tháng 9 năm 2013, Elmohamady ghi bàn thắng đầu tiên của mình trong mùa giải Premier League 2013-14 trong trận đấu với Newcastle United. Ngày 17 tháng 5 năm 2014, anh đã thi đấu trong Chung kết Cúp FA, nơi Hull để thua 2-3 trước Arsenal.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2015, trong một trận đấu trên sân khách với West Bromwich Albion, Elmohamady đã chạm bóng ngay trước khi thủ môn của mình, Allan McGregor, bắt bóng. Cú chạm của anh được tính là một pha chuyền về, dẫn đến một quả đá phạt cho đội chủ nhà trong khu vực phạt đền, từ đó Saido Berahino ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2016, Elmohamady đã ký hợp đồng gia hạn 3 năm với Hull City.
3.4. Aston Villa
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2017, Elmohamady ký hợp đồng với Aston Villa với một mức phí không được tiết lộ, điều này giúp anh tái hợp với cựu huấn luyện viên của Hull City là Steve Bruce một lần nữa. Elmohamady đã có trận ra mắt cho Villa vào ngày khai mạc mùa giải 2017-18, trận hòa 1-1 trên sân nhà trước câu lạc bộ cũ Hull City. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Aston Villa trong trận đấu đầu tiên của mùa giải tiếp theo, vào ngày 6 tháng 8 năm 2018, cũng trong trận đấu với Hull City.
Vào ngày 29 tháng 5 năm 2019, Elmohamady đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng 2-1 của Aston Villa trước Derby County trong Chung kết play-off EFL Championship 2019 - cung cấp pha kiến tạo cho bàn thắng mở tỷ số của Anwar El Ghazi.
Elmohamady ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League kể từ mùa giải 2014-15 vào ngày 24 tháng 6 năm 2020, một bàn thắng muộn trên sân khách của Newcastle United.
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2021, có thông báo rằng Elmohamady sẽ rời Aston Villa khi hợp đồng của anh kết thúc.
4. Sự nghiệp quốc tế
Elmohamady đã thi đấu nhiều lần cho đội tuyển U21 Ai Cập và tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 châu Phi 2007 được tổ chức tại Cộng hòa Congo. Anh là ngôi sao đang lên của đội tuyển Ai Cập và là một trong những ngôi sao của giải đấu, mặc dù thi đấu trái vị trí sở trường là tiền đạo.
Anh có trận ra mắt quốc tế cấp cao vào tháng 8 năm 2007 ở tuổi 19 trong trận giao hữu với Bờ Biển Ngà tại Paris. Anh được triệu tập vào đội hình cuối cùng của Đội tuyển bóng đá quốc gia Ai Cập tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2008. Giải đấu được tổ chức tại Ghana và Ai Cập đã giành chức vô địch với Elmohamady ra sân trong vai trò dự bị. Kể từ đó, anh đã củng cố vị trí của mình trong đội hình xuất phát với vai trò hậu vệ phải hoặc cầu thủ chạy cánh. Anh đã đá chính tất cả sáu trận đấu của Ai Cập trong vòng thứ hai của Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2010.
Tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2009, anh bị đuổi khỏi sân trong trận mở màn của Ai Cập gặp Brasil vì cố tình dùng tay cản bóng của Lúcio đi vào lưới ở phút cuối. Brasil sau đó đã ghi bàn từ chấm phạt đền và giành chiến thắng 4-3.
5. Sự nghiệp sau khi giải nghệ
Sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ, Elmohamady trở lại câu lạc bộ cũ Aston Villa với tư cách là một đại sứ câu lạc bộ. Vào tháng 9 năm 2023, anh được giao một vai trò toàn thời gian trong bộ phận thương mại của câu lạc bộ.
6. Đời tư
Ahmed Elmohamady đã kết hôn với một nhà thiết kế thời trang người Ai Cập và có một con trai tên là Malik. Ở Anh, người hâm mộ câu lạc bộ Sunderland đã đặt cho anh biệt danh "Elmo". Elmohamady là một người theo đạo Hồi giáo.
7. Danh hiệu
7.1. Câu lạc bộ
Hull City
- Á quân Giải vô địch bóng đá Anh: 2012-13
- Á quân Cúp FA: 2013-14
- Thăng hạng Championship play-offs: 2016
Aston Villa
- Thăng hạng EFL Championship play-offs: 2019
- Á quân Cúp EFL: 2019-20
7.2. Quốc tế
Ai Cập
- Cúp bóng đá châu Phi: 2008, 2010; Á quân: 2017
7.3. Cá nhân
- Đội hình tiêu biểu CAF: 2010
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Hull City: 2012-13
8. Thống kê sự nghiệp
8.1. Thống kê câu lạc bộ
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp Liên đoàn | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | ||
Ghazl El Mahalla | 2004-05 | 14 | 4 | ?? | ?? | - | - | - | 14 | 4 | |||
2005-06 | 3 | 0 | ?? | ?? | - | - | - | 3 | 0 | ||||
Tổng cộng | 17 | 4 | ?? | ?? | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 17 | 4 | |
ENPPI | 2006-07 | 12 | 2 | ?? | ?? | - | - | - | 12 | 2 | |||
2007-08 | 6 | 1 | ?? | ?? | - | - | - | 6 | 1 | ||||
2008-09 | 28 | 6 | ?? | ?? | - | - | - | 28 | 6 | ||||
2009-10 | 26 | 3 | ?? | ?? | - | - | - | 26 | 3 | ||||
Tổng cộng | 72 | 12 | ?? | ?? | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 72 | 12 | |
Sunderland | 2010-11 | 36 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | - | - | 38 | 0 | ||
2011-12 | 18 | 1 | 2 | 0 | 1 | 0 | - | - | 21 | 1 | |||
2012-13 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | - | 2 | 0 | |||
Tổng cộng | 56 | 1 | 3 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 61 | 1 | |
Hull City | 2012-13 | 41 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | - | 41 | 3 | ||
2013-14 | 38 | 2 | 6 | 0 | 1 | 0 | - | - | 45 | 2 | |||
2014-15 | 38 | 2 | 1 | 0 | 0 | 0 | 4 | 1 | - | 43 | 3 | ||
2015-16 | 41 | 3 | 3 | 0 | 4 | 0 | - | 3 | 0 | 51 | 3 | ||
2016-17 | 33 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | - | - | 37 | 0 | |||
Tổng cộng | 191 | 10 | 10 | 0 | 9 | 0 | 4 | 1 | 3 | 0 | 217 | 11 | |
Aston Villa | 2017-18 | 43 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | 2 | 0 | 45 | 0 | |
2018-19 | 38 | 2 | 0 | 0 | 1 | 0 | - | 3 | 0 | 42 | 2 | ||
2019-20 | 18 | 1 | 1 | 0 | 6 | 1 | - | - | 25 | 2 | |||
2020-21 | 14 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | - | - | 17 | 0 | |||
Tổng cộng | 113 | 3 | 1 | 0 | 10 | 1 | 0 | 0 | 5 | 0 | 129 | 4 | |
Tổng cộng sự nghiệp | 449 | 30 | 14 | 0 | 21 | 1 | 4 | 1 | 8 | 0 | 496 | 32 |
8.2. Thống kê quốc tế
Đội tuyển quốc gia | Năm | Số trận | Bàn thắng |
---|---|---|---|
Ai Cập | 2007 | 5 | 0 |
2008 | 14 | 0 | |
2009 | 12 | 0 | |
2010 | 12 | 1 | |
2011 | 3 | 0 | |
2012 | 13 | 1 | |
2013 | 6 | 0 | |
2014 | 5 | 0 | |
2015 | 1 | 0 | |
2016 | 1 | 0 | |
2017 | 8 | 0 | |
2018 | 7 | 1 | |
2019 | 5 | 3 | |
Tổng cộng | 92 | 6 |
8.3. Bàn thắng quốc tế
Bàn thắng của Ai Cập được liệt kê trước, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Elmohamady.
STT | Ngày | Địa điểm | Lần ra sân | Đối thủ | Tỷ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 20 tháng 1 năm 2010 | Sân vận động Ombaka Quốc gia, Benguela, Angola | 35 | Bénin | 1-0 | 2-0 | Cúp bóng đá châu Phi 2010 |
2 | 20 tháng 5 năm 2012 | Sân vận động Al-Merrikh, Omdurman, Sudan | 52 | Cameroon | 1-0 | 2-1 | Giao hữu |
3 | 12 tháng 10 năm 2018 | Sân vận động Al Salam, Cairo, Ai Cập | 85 | Eswatini | 1-0 | 4-1 | Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2019 |
4 | 13 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Borg El Arab, Alexandria, Ai Cập | 88 | Tanzania | 1-0 | 1-0 | Giao hữu |
5 | 26 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Quốc tế Cairo, Cairo, Ai Cập | 90 | Cộng hòa Dân chủ Congo | 1-0 | 2-0 | Cúp bóng đá châu Phi 2019 |
6 | 30 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Quốc tế Cairo, Cairo, Ai Cập | 91 | Uganda | 2-0 | 2-0 | Cúp bóng đá châu Phi 2019 |