1. Cuộc đời
Cuộc đời của Nguyễn Phúc Thuần gắn liền với giai đoạn đầy biến động của chính quyền chúa Nguyễn, từ khi ông được đưa lên ngôi chúa một cách bất ngờ cho đến khi triều đại của ông kết thúc trong bi kịch.
1.1. Thân thế và Thời thơ ấu
Nguyễn Phúc Thuần, tên húy là Hân (阮福昕Chinese), sinh ngày 18 tháng 11 năm Giáp Tuất (tức 31 tháng 12 năm 1754). Ông là con trai thứ 16 của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, vị chúa thứ 8 của chúa Nguyễn. Mẹ ông là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con gái của Quận công Nguyễn Phúc Điền, cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Chu. Theo vai vế, bà Ngọc Cầu là em họ của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát.
Quyền thần Trương Phước Loan, cậu ruột của Vũ vương, muốn thâu tóm quyền lực triều chính. Lợi dụng tính hiếu sắc của Vũ vương, Loan đã tạo điều kiện cho Công nữ Ngọc Cầu thường xuyên ra vào phủ chúa và gần gũi Vũ vương ở điện Trường Lạc. Kết quả của mối quan hệ này là bà Ngọc Cầu đã sinh ra hai công tử: Nguyễn Phúc Diệu (sinh năm 1753, mất sớm) và Nguyễn Phúc Thuần (sinh năm 1754). Vũ vương càng ngày càng say mê tửu sắc, bỏ bê việc nước, phó mặc mọi việc cho Trương Phước Loan, bất chấp lời can gián của triều thần.
Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện, Trương Phước Loan đã dùng nhiều cách dẫn dụ Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát vào con đường tửu sắc, bỏ bê việc nước, nhằm âm mưu chiếm đoạt quyền lực sau này. Thế phả họ Nguyễn cũng thừa nhận: "Trong những năm về sau, mãi sống trong cảnh thanh bình, xa hoa, ngài [Võ vương] đâm ra say mê tửu sắc, không thiết tha việc nước, xa rời nhiệm vụ của bậc đế vương. Thêm vào đó, để dễ dàng trong việc tiếm quyền, Đạt quận công Trương Phước Loan [cậu ruột của Võ vương] đã khuyến dụ ngài đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh điêu tàn cho triều đại sau này".
Mặc dù được Trương Phước Loan che giấu, Vũ vương không thoát khỏi mặc cảm loạn luân, nên Nguyễn Phúc Thuần chỉ được nuôi nấng lén lút ở hậu cung và không được lập làm người kế vị như mong muốn của mẹ ông. Khi Đông cung Thế tử Nguyễn Phúc Hạo qua đời, con trai ông là Hoàng tôn Dương còn nhỏ tuổi, mà hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Ngọc Cầu không bỏ lỡ cơ hội, ra sức dỗ dành Vũ vương cho con mình kế vị. Các quan trong triều biết được âm mưu của Ngọc Cầu, nên đã ra sức can ngăn Vũ vương không nên lập chúa bé. Do đó, Vũ vương không dám nghe theo lời của Ngọc Cầu và định lập con của Trương Thái phi là Nguyễn Phúc Luân (tức Nguyễn Phúc Côn, cha của Nguyễn Ánh) làm thái tử, đồng thời chỉ định hai viên quan nổi tiếng thanh liêm là Thái phó Y đức hầu Trương Văn Hạnh và Thị giảng Lê Cao Kỳ chuyên lo giáo huấn cho hoàng tử Côn. Thấy tình hình như vậy, Ngọc Cầu lo lắng và bàn với Trương Phước Loan tìm cách đối phó.
1.2. Lên ngôi và Vai trò của Trương Phước Loan
Ngày 20 tháng 5 năm Cảnh Hưng 26 (tức 7 tháng 7 năm 1765), Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát qua đời. Di chiếu của ông nhường ngôi cho công tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân (Côn), khi đó 33 tuổi. Tuy nhiên, Trương Phước Loan biết Nguyễn Phúc Luân là người thông minh, quyết đoán, khó bề lấn quyền được, nên đã âm mưu cùng Ngọc Cầu và Thái giám Chử Đức hầu, Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thông. Họ giấu không phát tang và lập tức cho gọi 100 võ sĩ nấp sẵn trong vương phủ. Sau đó, Loan cho gọi Thái phó Y Đức hầu Trương Văn Hạnh vào bàn việc. Trương Phước Loan ra tiếp và ném cây đèn xuống giường làm hiệu, ngay lúc đó các vệ sĩ xông ra giết chết Y Đức, bắt giam Nguyễn Phúc Luân. Nguyễn Phúc Luân sau đó chết trong ngục vào ngày 24 tháng 10 năm 1765.
Trương Phước Loan và phe cánh đã tôn Nguyễn Phúc Thuần, khi đó mới 12 tuổi, lên ngôi chúa, xưng hiệu là Định vương. Ông còn có đạo hiệu là Khánh Phụ đạo nhân. Trương Phước Loan được phong lên làm Quốc phó, nắm giữ toàn bộ quyền hành trong triều đình. Từ đây, Loan thi hành nhiều chính sách sai lầm, khiến người trong nước đều oán giận.
1.3. Triều đại và Sự suy yếu của Chúa Nguyễn
Sau khi lên ngôi, Định vương Nguyễn Phúc Thuần giao phó mọi việc cho Trương Phước Loan làm Quốc phó, kiêm quản Bộ Hộ, Cơ Trung tượng và Tàu vụ. Loan còn được thu thuế sản vật từ các nguồn vàng ở Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân làm ngụ lộc. Trương Phước Loan biết Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ tuổi, lại bị bất ngờ đưa lên ngôi, trở nên bỡ ngỡ trên ngai vàng, càng được thế vơ vét. Hằng năm, số vàng bạc thu được vô số nhưng Loan chỉ nộp thuế cho nhà nước một hoặc hai phần mười. Của cải trong nhà Trương Phước Loan chất cao như núi, các con hắn đều lấy công chúa, làm quan đến Chưởng dinh, Cai cơ. Sử sách còn ghi lại rằng vào những ngày nắng, Loan cho phơi của cải châu báu ra sân làm sáng rực cả một góc trời. Loan còn đưa bè đảng là bọn Thái Sinh chia nhau giữ những bến trọng yếu, người ta gọi hắn là Trương Tần Cối, ví như Tần Cối làm Thừa tướng dưới thời Nam Tống bên Trung Quốc, cậy thế lấn át quyền vua, hãm hại trung thần Nhạc Phi và xúi giục bỏ đất xưng thần với rợ Kim, nên bị người đời sau căm ghét.
Theo Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục, Nguyễn Phúc Thuần "tính còn trẻ con, thích đùa bỡn hát múa, có bệnh không thể gần đàn bà, bắt phường hát trẻ tuổi cùng với cung thiếp dâm loạn làm trò vui". Ông không thiết tha việc triều chính, để mặc Trương Phước Loan thao túng.
Dù chuyên quyền, Trương Phước Loan vẫn sợ tiếng dư luận, bèn triệu hai vị quan đại thần có danh vọng là Nguyễn Cư Trinh và Nguyễn Quang Tiến về triều, xin chúa cất dùng. Tháng 5 năm 1767, Nguyễn Cư Trinh qua đời. Từ đó, họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành: bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, khiến nhân dân cực khổ.
Mùa thu năm 1767, triều đình mở khoa thi Hương, sai Hoàng thúc Thường quận công Tôn Thất Dục làm giám thí. Khoa ấy Lê Chính Việp, Bạch Doãn Triều đỗ đầu, được người đương thời cho là xứng đáng. Năm 1768, chúa sai các châu huyện lập phường chơi xuân, mỗi phường 15 người, nộp thuế 1 quan tiền. Cùng năm đó, Trương Phước Loan ghét Tôn Thất Dục, bèn vu khống ông ta chế tạo binh khí riêng. Dù không có bằng chứng, Loan vẫn lấy một khẩu súng riêng của ông ta làm bằng chứng, rồi bỏ Dục vào ngục. Mấy năm sau, ông ta phát bệnh ung thư ở lưng rồi chết.
Tháng 6 năm 1773, một nhóm các tôn thất đại thần, vì bất mãn với Trương Phước Loan chuyên quyền, nên muốn trừ khử hắn. Họ bí mật sai Hàn lâm Ngô Đình Thứ và Tri phủ Trần Giai dùng trộm ấn của Loan, làm giả bức thư Loan hiệp mưu với Nguyễn Nhạc đang làm phản ở Tây Sơn. Có Tham mưu Tá bắt được bức thư ấy, đem tố cáo với Chưởng cơ Tôn Thất Văn (con trai thứ ba của Võ vương, anh ruột của chúa). Tôn Thất Văn nói với chúa, nhưng Trương Phước Loan ra sức tranh biện, và chúa tin lời của Loan. Sau đó, Loan trả thù những người hãm hại mình, bắt giam Tham mưu Tá rồi giết chết. Tiếp theo, Loan lại vu ngược cho Tôn Thất Văn thông mưu với Nguyễn Nhạc. Tôn Thất Văn bèn bỏ trốn, nhưng Loan sai người đuổi bắt được, dìm chết ở Phá Tam Giang.
Nền kinh tế Đàng Trong cũng gặp khủng hoảng, một phần do chính sách đúc tiền kẽm thay cho tiền đồng. Đói kém bắt đầu từ năm 1768, vì sai lầm trong chính sách tiền tệ: tiền giả xuất hiện rất nhiều, lạm phát tăng lên, người dân đem tiền giả mua gạo tích trữ, còn người giàu không dám bán gạo ra. Tệ trạng ấy kéo dài từ Phú Xuân đến Ba Thắc, kể cả trong những năm được mùa. Tài chính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ Thuận Hóa là Ngô Thế Lân phải viết thư kêu lên triều đình: "Trộm nghe, khi tiên chúa mở mang, đất còn hẹp, dân còn thưa, phía nam chưa có đất Gia Định màu mỡ; phương Bắc còn có việc phòng giữ ở Hoành Sơn, liền năm chinh chiến, mà dân không đói kém, nhà nước thừa tiêu. Ngày nay thiên hạ bình tĩnh đã lâu, đất rộng dân đông, những đất trồng lúa đã khai khẩn hết, những nguồn lợi núi chằm đã khai thác hết. Hơn nữa, ruộng ở Phiên Trấn và Long Hồ lại không bị hạn lụt bao giờ. Thế mà từ năm Mậu tý [1768] tới nay, giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém, là cớ làm sao? Không phải là thiếu thóc mà chính vì đồng tiền kẽm gây nên vậy. Nhân tình ai cũng ưa cái bền chắc, ghét cái chóng hư. Nay lấy đồng tiền kẽm chóng hư mà thay đồng tiền đồng bền chắc, cho nên dân đua nhau chứa thóc mà không chịu chứa tiền. Tuy nhiên, cái tệ tiền kẽm đã lâu rồi, nay muốn đổi đi, thế rất là khó, mà nạn đói của dân thế lại rất gấp. Thần trộm nghĩ phương kế ngày nay, không gì bằng phỏng theo phép nhà Hán, mỗi phủ đặt một kho thường bình, đặt quan phụ trách, định giá thường bình, rồi hễ thóc rẻ thì theo giá mà đong vào, thóc đắt thì theo giá mà bán ra. Như thế thì giá thóc không đến nỗi rẻ quá để hại cho nhà nông, mà cũng không đến nỗi đắt quá để lợi cho bọn phú thương, rồi sau sẽ dần dần sửa đổi cái tệ tiền kẽm, thế là vật giá sẽ được bình ổn." Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.
Đầu năm 1769, chúa sai sở tại đều làm bản tính thu thuế khóa đinh điền và những thuế nguồn, cửa quan, bến đò, họp thành sổ tâu lên, làm lệ thường hằng năm. Năm đó sao chổi mọc, chuôi tự phía đông bắc chỉ sang phía tây nam. Hàn lâm Nguyễn Quang Tiền nói với người ta rằng chỉ trong 6 năm ở Quảng Nam sẽ nổi binh đao. Bấy giờ Trương Phước Loan chuyên quyền, còn bọn người được chúa tin tưởng là Chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm, Chưởng cơ Tôn Thất Viên (hai người cậu) chỉ say mê rượu ngon và gái đẹp, không để ý đến việc nước. Loan càng được thế lộng quyền, ăn hối lộ, mua quan bán tước, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi, báo hiệu mầm mống suy tàn của Nhà Nguyễn. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục có nói về tình trạng này của Nam Hà: "từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa - dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau... Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng..."
Ở Quảng Ngãi khi đó có quân Đá Vách thường hay nổi dậy. Năm 1770, chúa sai Ký lục Quảng Nam Trần Phước Thành đến tuần 5 thành Thăng Bình, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên để liệu việc đối phó, đánh dẹp quân Đá Vách.
2. Các sự kiện chính và Xung đột
Triều đại của Nguyễn Phúc Thuần là một chuỗi các sự kiện và xung đột lớn, từ chiến tranh với các nước láng giềng đến các cuộc khởi nghĩa và tranh giành quyền lực nội bộ, đẩy chính quyền chúa Nguyễn đến bờ vực sụp đổ.
2.1. Chiến tranh với Xiêm La
Mùa thu năm 1766, các thám tử của Hà Tiên về báo tin vua Xiêm La có ý muốn xâm phạm đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ, Tổng đốc Hà Tiên, lo sợ, sai người về Phú Xuân cầu viện. Mùa đông năm đó, các tướng Nguyễn cử 3 chiếc thuyền đi biển, 20 chiếc thuyền sai và 1.000 tinh binh đóng giữ Hà Tiên để phòng ngừa giặc Xiêm. Nhưng vào lúc đó thì quân Miến Điện cũng tấn công Xiêm La. Ngày 7 tháng 4 năm 1767, kinh A Du Đà (Ayuthaya, nay là tỉnh Ayutthaya, Thái Lan) thất thủ, quân Miến Điện cướp bóc, chém giết rồi sáp nhập toàn bộ nước Xiêm vào địa đồ của mình, bắt vua Xiêm là Ekkathat (sử Nhà Nguyễn gọi là vua Phung) cùng hoàng tử Chiêu Đốc Đa giải về Miến. Con thứ của vua Phung và Chiêu Xỉ Xoang chạy sang Chân Lạp, Chiêu Thúy chạy sang Hà Tiên. Thấy nước Xiêm đã mất, chúa bèn triệu hồi các đạo quân cứu viện về. Nhưng Mạc Thiên Tứ sợ quân Miến thừa thế đánh sau, nên đem binh thuyền đến giữ Chân Bôn là nơi giáp với Xiêm; lại sai quân đi tuần xét các hải đảo Cổ Rồng (Koh Rong, Campuchia), Cổ Cốt (nay thuộc tỉnh Trat, Thái Lan, sát hải phận Campuchia) và Dần Khảm.
Không lâu sau, nhà Thanh đem quân tấn công nước Miến Điện. Vua Miến buộc phải triệu hồi đội quân viễn chinh phía tây trở về chống giữ kinh thành. Nhân nước Xiêm trống trải, chúa đất Mường Tát là Trịnh Quốc Anh (Taksin, người gốc Hoa) khởi binh, tự xưng là Vua, dời thủ phủ từ A Du Đà về Thôn Vũ Lý (Thonburi, nay là Bangkok). Ông lại sai người đòi Chân Lạp phải tiến cống. Vua Chân Lạp là Nặc Tôn (Ang Ton) cho rằng Trịnh Quốc Anh không phải là người Xiêm, không chịu tiến cống.
Mùa xuân năm 1769, vua Xiêm sai tướng đưa vua cũ của Chân Lạp đang lưu vong ở Xiêm là Nặc Nộn (Ang Non) về nước, gặp quân Nặc Tôn ở Bôn Ma, không phân được thắng thua. Mùa đông năm 1770, Trịnh Quốc Anh thấy hoàng tử triều trước là Chiêu Thúy ở Hà Tiên, sợ để lâu sinh vạ, bèn phái 20.000 quân thủy bộ đánh Hà Tiên. Quân Xiêm đông giữ núi Tô Châu (nay nằm ở vùng núi phía tây của vũng nước Đông Hồ, phường Tô Châu, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang), dùng đại bác bắn vào thành, thế rất nguy cấp. Mạc Thiên Tứ cho người chạy thư về Gia Định cầu cứu. Điều khiển Gia Định Nguyễn Cửu Khôi cho rằng năm trước Hà Tiên đã từng báo cáo thông tin sai lệch, nên không cho binh đến cứu. Vào một đêm, người Xiêm cho phóng hỏa đốt kho thuốc súng, rồi từ phía sau thành phá cửa tiến vào, phóng hỏa đốt doanh trại. Mạc Thiên Tứ đem quân ra chống cự, nhưng không chống nổi. Quân Xiêm thừa thế tiến đến dinh Long Hồ thì gặp Tống Phước Hiệp đem quân chi viện cho Hà Tiên. Hai bên dàn trận ở sông Châu Đốc, quân Xiêm chạy lộn vào ngách sông cụt, bị quân triều đình đánh, thiệt hại 300 nhân mạng, nhưng đất Hà Tiên vẫn còn bị người Xiêm chiếm giữ. Vua Xiêm bèn lưu Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, rồi tự đem quân thẳng sang Chân Lạp, Nặc Tôn bỏ chạy. Vua Xiêm vào thành Nam Vang (Phnom Penh), lập Nặc Nộn trở lại làm vua Chân Lạp. Tháng 2 năm 1771, chúa Nguyễn trách tội Nguyễn Cửu Khôi không đến chi viện để Hà Tiên bị mất, giáng ông ta làm Cai đội, và triệu Nguyễn Thừa Mân về triều.
Mùa hạ năm đó, tướng Nguyễn Cửu Đàm tiến quân theo đường Tiền Giang, cùng Cai bạ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên tiến theo đường Kiên Giang; Lưu thủ Tống Phước Hiệp theo đường Hậu Giang tiến đóng giữ Châu Đốc để tiếp ứng cho hai cánh quân trên. Quân Nguyễn dùng người Chân Lạp là Nhẫm Lạch Tối chỉ đường, tiến đến Nam Vang đánh phá được quân Xiêm. Vua Xiêm chạy sang Hà Tiên, còn Nặc Nộn chạy qua Cần Bột (nay là tỉnh Kampot, Campuchia). Quân Nguyễn thu phục Nam Vang và La Bích (tức Lovek, quốc đô Campuchia từ 1431 đến 1618), đưa Nặc Tôn về nắm lại ngai vàng. Nguyễn Cửu Đàm thu quân về dinh, đắp lũy Tân Hoa kéo dài 15 dặm bao quanh đồn dinh, chắn ngang đường bộ đề phòng bất trắc. Vua Xiêm bèn về nước, để Trần Liên giữ Hà Tiên, tự mình đem quân đi bắt con trai con gái Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về, rồi giết Chiêu Thúy. Mùa xuân năm 1773, Mạc Thiên Tứ sang sứ sang Xiêm dâng đồ lễ cầu hòa. Trịnh Quốc Anh mừng, trả lại các tù binh khi trước, và triệu Trần Liên về nước. Tình hình phía Nam mới được tạm yên một thời gian.
2.2. Khởi nghĩa Tây Sơn
Năm 1765, Trương Phước Loan thực hiện việc phế lập, và giết thầy của Nguyễn Phúc Côn (cha Nguyễn Ánh) là Trương Văn Hạnh. Môn khách của Trương Văn Hạnh là Giáo Hiến phải bỏ Phú Xuân, trốn về Tây Sơn, nhận ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ làm học trò, nói khích chí lớn cho ba anh em. Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chiêu nạp nghĩa quân, phất cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn, lấy danh nghĩa lật đổ quyền thần Trương Phước Loan và phù lập Hoàng tôn Dương (con của thế tử cũ là Nguyễn Phúc Hiệu). Sau đó Nguyễn Nhạc dùng kế chiếm thành Quy Nhơn, Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ trốn. Khi đó có hai lái buôn người nhà Thanh là Tập Đình và Lý Tài nổi dậy hưởng ứng nghĩa quân. Tin tức truyền đến Phú Xuân. Tháng 10 năm 1773, chúa sai Nguyễn Cửu Thống và Nguyễn Cửu Sách dẫn quân đánh dẹp. Khi đó ở trong triều, Trương Phước Loan ăn hối lộ nên thay hết người này đến người khác ra trận, rồi mọi người đều căm oán, nên dễ dàng bị đánh bại. Linh mục Jumilla kể chi tiết về trận đánh năm ấy như sau: "Bọn phản loạn có ba đạo quân, hai bên là cánh quân người Tàu và người Thượng, giữa là người Việt. Buổi chiều ngày thứ ba, quân Tàu ở cánh phải giết được viên quan dũng mãnh nhất binh triều là Ông Đội Be". Ông cũng viết thêm: "Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..."
Cuối năm 1773, Nhà Nguyễn dùng Tôn Thất Hương làm Tiết chế, đem quân từ Thuận Hóa và Tam Kỳ tiến đến núi Bích Kê (nay thuộc huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định), nhưng bị Tập Đình và Lý Tài đánh bại, Tôn Thất Hương chết trận. Quân Tây Sơn được thế tiến chiếm Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, rồi lại tính lấn ra Quảng Nam. May có Cai đội Nguyễn Cửu Dật nhân đêm tối đem quân đánh úp, mới giữ được Quảng Nam.
Tháng 4 ÂL năm 1774, lưu thủ dinh Long Hồ Tống Phước Hiệp và Cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên được lệnh đem quân tiến đánh Tây Sơn. Trước thế lực lớn mạnh của quân Nguyễn, quân Tây Sơn phải bỏ 3 phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Tống Phước Hiệp đóng quân ở Hòn Khói (nay thuộc phía Đông của huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa), giáp chiến với Tây Sơn. Bấy giờ chiến tranh loạn lạc xảy ra, đất Thuận Hóa vốn trù phú mà thành ra xơ xác, ngoài đường nhiều người chết đói.
2.3. Cuộc Nam tiến của Chúa Trịnh
Bấy giờ, trấn thủ Nghệ An của triều đình Lê - Trịnh là Bùi Thế Đạt nhân Nam Hà có loạn, bèn báo cáo lên chúa Trịnh Sâm. Chúa Trịnh được sự tán thành của Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm, bèn quyết định xuất quân nam hạ. Hoàng Ngũ Phúc được cử làm tiên phong, còn Trịnh Sâm với đại quân theo sau hỗ trợ. Hoàng Ngũ Phúc cho làm tờ hịch nói mình vào đây là để đánh diệt Trương Phước Loan và giúp nhà Nguyễn diệt Tây Sơn.
Mùa thu năm đó, chúa Nguyễn cử Tống Hữu Trường làm Thống suất đạo Lưu Đồn, Tôn Thất Tiệp làm Trấn thủ dinh Bố Chính để chống quân Trịnh, Chưởng dinh Tôn Thất Cảnh (con thứ 7 của Võ vương) giữ kinh đô, còn chúa ngự giá thân chinh đánh Tây Sơn. Thuyền chúa đóng ở cửa Tư Dung (cửa biển thông giữa Đầm Cầu Hai với Biển Đông, nằm giữa hai xã Vinh Hiền và Lộc Bình, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế), và Trương Phước Loan được lệnh luyện quân ở núi Quy Sơn.
Thế quân Trịnh đánh như chẻ tre, chẳng mấy chốc đã đến châu Bắc Bố Chính, tri phủ Trần Giai hàng giặc. Nguyễn Phúc Thuần bèn triệu Tôn Thất Nghiễm đưa mình về Phú Xuân, đồng thời sai quận Du là Nguyễn Cửu Dật làm Tả quân đại đô đốc lĩnh quân thủy bộ ở lại chống cự quân Tây Sơn. Giữa lúc đó tình hình Thuận Hóa rối loạn. Trong kinh kỳ bị đói to, mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường có xác chết đói, người nhà có khi ăn thịt nhau. Lúc này quân Trịnh đã vượt sông Gianh (ranh giới Nam Hà và Bắc Hà trong gần 200 năm nội chiến), chúa sai sứ thần đến nói rằng tự họ Nguyễn sẽ dẹp được Tây Sơn, không cần đến quân Trịnh. Tuy nhiên bọn Kiêm Long ngầm ám chỉ cho Hoàng Ngũ Phúc hãy cứ nhân đó mà diệt họ Nguyễn. Ngũ Phúc bèn tiến vào dinh Bố Chính, quân Nguyễn lui về Lũy Thầy (nay thuộc huyện Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Quân Trịnh do Hoàng Đình Thể chỉ huy phá lũy Trấn Ninh, dinh Quảng Bình, cùng lúc đó đại quân của Trịnh Sâm cũng đã đến Nghệ An, để làm thanh viện cho Hoàng Ngũ Phúc.
Các tướng lĩnh và tông thất của họ Nguyễn trước tình thế như vậy, liền cùng nhau lập mưu bắt Trương Phước Loan đưa nộp quân doanh của Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc bắt được Phước Loan nhưng vẫn không lui quân, nói là còn phải diệt giặc Tây Sơn. Những cánh quân mà Chúa Nguyễn sai đến để chống quân Trịnh đều bị thất bại, quân Bắc sắp vào thành Phú Xuân. Ngày 18 tháng 12 năm 1774, Nguyễn Phúc Thuần bỏ Phú Xuân chạy ra Quảng Nam, cùng đi với ông còn có Vương tử Nguyễn Phúc Ánh, con trai Nguyễn Phúc Luân, chính là vua Gia Long về sau. Hoàng Ngũ Phúc thấy Nhà Nguyễn đã bỏ chạy, liền xua quân tiến vào Thuận Hóa.
Tháng giêng năm 1775, Chúa Nguyễn cho dựng hành tại ở Bến Giá thuộc Quảng Nam. Theo lời tâu của các tướng Nguyễn Cửu Dật, Tôn Thất Tĩnh, Tôn Thất Kính, Nguyễn Cửu Thận và Đỗ Thanh Nhơn, ông phong cho Hoàng tôn Dương làm thế tử, giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam. Không lâu sau, Nguyễn Nhạc và Lý Tài đem hai đạo binh đến đóng ở cửa biển Hiệp Hòa và sông Thu Bồn (cửa Hiệp Hòa nay chính là cửa Đại), tình thế nguy cấp, Đông cung Nguyễn Phúc Dương chạy về Câu Đê, còn Chúa Nguyễn thì chạy vào Gia Định. Ngày 13 tháng 3 năm 1775, khi chúa đang ngồi trên thuyền thì gặp gió to, 16 chiến thuyền quân Nguyễn đều bị đắm, chỉ riêng thuyền của chúa và vương tử Ánh được vô sự. Khi đến địa phận Bình Khang (Khánh Hòa), thì được Tống Phước Hiệp và Nguyễn Khoa Thuyên từ Hòn Khói đến nghênh giá. Ngày 25 tháng 3, thuyền chúa cập bến thành Gia Định, chúa lên bờ và dựng hành tại ở Bến Nghé, là tỉnh lỵ của Gia Định thời kỳ đó (nay thuộc địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Cùng khi đó Hoàng Ngũ Phúc đánh vào đồn Câu Đê, Nguyễn Phúc Dương phải bỏ đồn mà chạy, quân Trịnh bắt được mẹ và vợ của Phúc Thuần đem về.
Ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc thấy Thế tử vừa mới thua quân Trịnh, không còn quân chiến đấu nữa, mới sai Lý Tài rước Thế tử đến chỗ mình, tìm cách dụ dỗ thế tử lên ngôi Vương, nhưng Thế tử không nhận. Mùa hạ năm đó, Tống Phước Hiệp tiến quân thu lại được Phú Yên, sai Bạch Doãn Triều đến buộc Nguyễn Nhạc trao trả Đông cung. Nhạc sợ, vừa giả vờ nhận lời, vừa đem hết của báu cất dấu trên núi Tây Sơn, rồi dời Đông cung đến Hà Liêu, An Thái để tránh. Trước tình thế hai đầu đều có địch, Nguyễn Nhạc dùng cách giả hàng với họ Trịnh, sai đem vàng bạc đến quân Hoàng Ngũ Phúc xin hàng, cầu làm quân tiên phong đánh Chúa Nguyễn. Ngũ Phúc phong cho Nhạc làm Tây Sơn trưởng hiệu Tráng biết tướng quân. Tống Phước Hiệp vẫn cho rằng Tây Sơn sẽ trả lại thế tử, nên lơ là phòng bị. Chớp thời cơ đó, Nguyễn Huệ dẫn quân đánh Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, Hiệp phải rút quân về Hòn Khói (nay nằm ở phía Đông huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa). Cùng lúc này quân Trịnh tiến vào địa giới Quảng Ngãi, song mắc dịch bệnh chết rất nhiều, Hoàng Ngũ Phúc phải bỏ Quảng Nam, lui về giữ Thuận Hóa, sau đó qua đời. Như vậy đất Thuận Hóa rơi vào tay Chúa Trịnh, còn Quảng Nam thuộc về Tây Sơn.
2.4. Chia rẽ nội bộ và Nhường ngôi
Sau khi quân Trịnh rút đi, Tây Sơn tập trung lực lượng để tiêu diệt chính quyền Chúa Nguyễn ở Gia Định. Tuy nhiên trong lúc đó nội bộ Tây Sơn phát sinh biến cố lớn, Lý Tài vì bất mãn với Nguyễn Huệ nên đã đem toàn bộ trấn Phú Yên quy phục với Tống Phước Hiệp. Tống Phước Hiệp báo tin cho Định vương đang ở Gia Định. Vương cả mừng, đặt Lý Tài dưới quyền Tiết chế của Tống Phước Hiệp, và cử Trần Văn Thức đến làm quan trấn thủ Phú Yên. Quân Nguyễn lại hưng khởi, kiểm soát từ Phú Yên trở vào nam. Quân Tây Sơn tìm cách lấy Bình Thuận, song không thành công.
Phát hiện Chúa Nguyễn ở Gia Định không có quân, Nguyễn Nhạc cử em là Nguyễn Lữ đem quân vào cướp Gia Định. Định vương hoảng hốt chạy ra Trấn Biên (vùng tương ứng với đất các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, nhưng trị sở đặt ở Biên Hòa), đóng ở Đồng Lâm. Tây Sơn sau khi chiếm giữ Sài Gòn, lại đánh xuống dinh Long Hồ, bắt quan Ký lục Bùi Hữu Lễ rồi mổ thịt làm mắm mà ăn. Chúa Nguyễn liên tục bỏ chạy, có lần phải nấp vào gầm giường nhà một giáo sĩ, mới thoát nạn. Trong lúc đó ở Quy Nhơn, vào tháng 3 năm 1776, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương.
Chúa Nguyễn hạ chiếu triệu Tống Phước Hiệp ở Phú Yên, Đỗ Thanh Nhơn ở Mỹ Tho và Mạc Thiên Tứ ở Cần Thơ ba cánh quân về hộ giá. Đỗ Thanh Nhơn tập hợp được 3.000 người, gọi là quân Đông Sơn, Thanh Nhơn xưng là Đông Sơn Thượng tướng quân, kéo quân từ Tam Phụ (nay nằm trên địa phận hai huyện Cai Lậy và Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đánh về Gia Định. Nguyễn Lữ không xuất chiến, mà lấy thóc trong kho ra chất vào 200 chiến thuyền, rồi kéo quân về Quy Nhơn.
Sau khi Tống Phước Hiệp, trụ cột của Nhà Nguyễn, qua đời vào tháng 7 năm 1776, hai tướng nắm nhiều binh quyền nhất còn lại là Đỗ Thanh Nhơn và Lý Tài xảy ra tranh chấp. Nguyên do là trước kia khi Tài đầu hàng, Chúa Nguyễn muốn cất nhắc, mà Thanh Nhơn lại nói Tài là đồ heo chó, sử dụng cũng không ích gì. Khi Tống Phước Hiệp còn sống thì hai người này sợ không dám xung đột. Đến khi Hiệp chết rồi, Tài bèn chỉ huy quân Hòa Nghĩa từ núi Châu Thới (ngọn núi nhỏ, nay thuộc xã Bình An, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương) đánh úp quân Đông Sơn của Nhơn. Nhơn chống cự không nổi, phải đắp lũy từ sông Bến Nghé (một đoạn sông Sài Gòn chảy qua Thành phố Hồ Chí Minh trước khi hiệp với sông Đồng Nai ở Nhà Bè, rồi đổ ra Biển Đông) đến Bến Than (nay thuộc huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh) để cố thủ.
Ở Quy Nhơn, Đông cung Nguyễn Phúc Dương bị Nguyễn Nhạc giam lỏng ở chùa Thập Tháp, nay giong buồm trốn thoát về nam. Chúa Nguyễn sai Thế tử đến dụ Lý Tài trở về. Lý Tài trông thấy Thế tử thì rũ cờ quy phục, rồi rước Thế tử về Dầu Mít. Vua Cao Miên là Nặc Ông Vinh nhân thấy Chúa Nguyễn nguy khốn, không chịu triều cống. Chúa sai Trương Phước Thận, Nguyễn Cửu Tuân theo giúp Nguyễn Ánh thảo phạt, Nặc Ông Vinh phải xin hàng.
Ngày 11 tháng 12 năm 1776, Lý Tài rước Đông cung Thế tử về Gia Định. Ngày 14 tháng 12 năm 1776, Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần phải nhường ngôi cho Đông cung. Đông cung vì nỗi sự thế đương ngặt nghèo, bất đắc dĩ phải vâng mệnh, xưng là Tân Chính vương, tôn Định vương làm Thái thượng vương. Nguyễn Ánh khi đó 16 tuổi, rất được Thái Thượng vương tin tưởng, lại thấy Lý Tài là người kiêu căng, hung bạo, khó mà ở cùng được, nên khuyên Thái Thượng vương hãy về với Đỗ Thanh Nhơn ở Đông Sơn. Lý Tài được tin, đem quân đến bức Thái Thượng vương dời ra Dầu Mít. Tân Chính vương không thể ngăn được, bèn khiến Trương Phước Dĩnh theo hộ giá. Ngày hôm sau lại rước giá trở về Gia Định để cấm cố. Như vậy nội bộ Chúa Nguyễn lại chia ra thành hai phe: phe Tân Chính vương - Lý Tài, và phe Thái Thượng vương - Vương tử Ánh - Đỗ Thanh Nhơn. Điều này bị coi là rất tai hại cho quân Nguyễn trong bối cảnh quân Tây Sơn đã tới rất gần.
3. Cuối đời và Cái chết
Những năm cuối đời của Nguyễn Phúc Thuần là chuỗi ngày chạy trốn và kháng cự tuyệt vọng trước sức mạnh áp đảo của quân Tây Sơn, kết thúc bằng cái chết bi thảm của ông và sự sụp đổ của chính quyền chúa Nguyễn.
Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân thủy bộ tiến đánh quân Nguyễn. Phúc Dương cử Lý Tài ra ứng chiến. Khi đó Trương Phước Thận đem quân từ Cần Bột (Kampot) lên cứu viện. Lý Tài từ xa thấy bóng cờ, ngờ là quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn đến đánh úp mình, liền rút quân về. Quân Tây Sơn đuổi theo. Quân Lý Tài chạy rối loạn đến Tam Phụ, là căn cứ của quân Đông Sơn, nên đều bị người của Đỗ Thanh Nhơn giết chết. Sau cái chết của Lý Tài, hai phe của Tân Chính vương và Thái Thượng vương giảng hòa và dựa lưng vào nhau cùng chống Tây Sơn. Trương Phước Thận đưa Tân Chính vương chạy về Tranh Giang, còn Thái Thượng vương đóng ở Tài Phụ (thuộc Ba Giồng). Chúa bảo với Tân Chính vương rằng: "Phía sau Tranh Giang thì vương tự đương lấy, phía trước Tài Phụ thì ta cáng đáng."
Bấy giờ Vương tử Nguyễn Ánh theo phò chúa, tình cảm rất hòa đồng, thân thiết. Có một lần khi quân giặc đuổi tới rất gấp, Định vương đưa ngựa giục Ánh trốn trước, Ánh không chịu, chúa khóc rằng: "Nay gặp bước gian truân thế này, tài ta không dẹp được loạn, việc Miếu Xã quan hệ ở cháu, cháu còn thời nước mới còn". Ánh bất đắc dĩ phải tuân theo. Nhưng khi đi một hồi, Ánh dừng ngựa lại mà chờ Vương. Quân Tây Sơn đi nơi khác, xe giá của chúa đi tới, Ánh đón rước bên đường. Vương cảm động nói rằng: "Cháu có lòng tốt, trời cũng biết cho".
Tháng 5 năm 1777, quân Tây Sơn chia làm 2 đường đánh cả Tranh Giang và Tài Phụ. Thái Thượng vương chạy ra Long Hưng (nay thuộc xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), may vì gặp trời mưa to nên quân Tây Sơn rượt theo không kịp. Sau đó chúa sang Cần Thơ hợp quân với Mạc Thiên Tứ. Chúa thấy binh lực của Thiên Tứ ít và yếu, bèn sai Đỗ Thanh Nhơn cùng Cai đội Nguyễn Quân lẻn đi Bình Thuận và Phú Yên gọi Châu Văn Tiếp, Trần Văn Thức đem quân vào cứu. Nhưng quân cứu viện chưa tới nơi thì đã bị chặn đánh, Trần Văn Thức chết trận, còn Châu Văn Tiếp phải bỏ chạy. Quân Tây Sơn thu phục hết đất miền Nam Trung Bộ, Chưởng cơ Tống Phước Hòa tự sát. Ngày 19 tháng 9 năm 1777, Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương cùng 18 thủ hạ bị quân Tây Sơn bắt và đều tuẫn nạn.
Thái Thượng vương nghe tin Tân Chính vương đã chết, thì cả sợ, bỏ chạy ra Long Xuyên, bấy giờ quân Tây Sơn đã đánh đến Trấn Giang. Mạc Thiên Tứ rước Nguyễn Phúc Thuần theo đường sông từ Cần Thơ về Kiên Giang, để phòng khi có bất trắc có thể lánh ra các hải đảo. Thiên Tứ lại sai con lấy gỗ chắn ở những chỗ cạn của dòng sông. Chúa hay lo buồn, nói cùng Thiên Tứ rằng: "Nay giặc mạnh như thế, việc nước như thế, biết có trông mong tái tạo cơ nghiệp được không". Thiên Tứ khóc tạ, rồi đề nghị qua cầu viện nhà Thanh, Nguyễn Phúc Thuần bằng lòng. Thiên Tứ sai Cai cơ tên là Kham phò chúa đi ra bờ biển chờ thuyền của Quách Ân đến, định sẽ sang Quảng Đông. Nhưng việc chưa thành thì có người đem việc đó tố giác với Tây Sơn. Nguyễn Huệ sai viên Chưởng cơ tên là Thành tới bắt thầy trò Nhà Nguyễn. Ngày 18 tháng 10 năm 1777, ông bị giải về Gia Định hành quyết, cùng với các tướng Trương Phước Thận, Tham mưu Nguyễn Danh Khoảng, và Nguyễn Phúc Đồng (anh cả của Nguyễn Ánh). Mạc Thiên Tứ hay tin, vội giong buồm chuồn ra các hải đảo.
Thủ cấp của Nguyễn Phúc Thuần bị đem táng ở đất huyện Bình Dương. Hầu hết vương thất họ Nguyễn bị giết hại, chỉ có Nguyễn Ánh trốn thoát được, sau được các tướng tôn lên ngôi Nguyễn vương, lãnh đạo quân họ Nguyễn chống chọi với Tây Sơn. Cái chết của hai vương Nhà Nguyễn cũng chấm dứt một giai đoạn suy vong trong lịch sử họ Nguyễn, trong "cái thế nghiêng ngửa của dòng họ".
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần qua đời khi mới 23 tuổi (hoặc 24 tuổi theo cách tính khác), ở ngôi chúa 11 năm, làm Thái Thượng vương chưa đến một năm.
4. Đánh giá
Triều đại của Nguyễn Phúc Thuần được lịch sử ghi nhận là một giai đoạn đen tối, góp phần trực tiếp vào sự suy tàn và sụp đổ của chính quyền chúa Nguyễn.
4.1. Đánh giá lịch sử
Triều đại của Nguyễn Phúc Thuần được xem là một giai đoạn góp phần vào sự suy tàn và sụp đổ của chúa Nguyễn. Ông là vị chúa thứ 9, trị vì trong bối cảnh chính quyền Đàng Trong đã mục nát từ bên trong do sự chuyên quyền của Trương Phước Loan. Sự yếu kém trong lãnh đạo của bản thân Nguyễn Phúc Thuần, cùng với nạn tham nhũng và các chính sách sai lầm dưới thời Trương Phước Loan, đã đẩy đất nước vào cảnh khủng hoảng kinh tế, xã hội và quân sự nghiêm trọng.
Sự bùng nổ của Khởi nghĩa Tây Sơn và cuộc nam tiến của Chúa Trịnh đã phơi bày sự yếu kém của chính quyền chúa Nguyễn. Mặc dù có những nỗ lực tái thiết và kháng cự, nhưng sự chia rẽ nội bộ và thiếu quyết đoán đã khiến chúa Nguyễn không thể đứng vững. Cái chết của Nguyễn Phúc Thuần cùng với Nguyễn Phúc Dương vào năm 1777 đã chấm dứt một giai đoạn cai trị của các chúa Nguyễn, mở ra một thời kỳ hỗn loạn kéo dài cho đến khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước và lập ra Nhà Nguyễn.
4.2. Phê phán và Tranh cãi
Các quan điểm lịch sử phê phán mạnh mẽ về sự lãnh đạo thiếu hiệu quả của Nguyễn Phúc Thuần. Ông được mô tả là một vị chúa trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, ham chơi, và hoàn toàn bị thao túng bởi quyền thần Trương Phước Loan. Sự thờ ơ của ông đối với việc triều chính đã tạo điều kiện cho Trương Phước Loan lộng hành, gây ra những hậu quả tai hại cho đất nước và người dân.
Tình trạng tham nhũng và lạm dụng quyền lực nghiêm trọng dưới thời Trương Phước Loan là nguyên nhân chính dẫn đến sự bất mãn của nhân dân. Thuế má nặng nề, nạn tiền giả, và tình trạng đói kém kéo dài đã đẩy người dân vào cảnh khốn cùng, tạo tiền đề cho các cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Bài thơ của Hồ Đắc Duy trong Đại Việt sử thi, quyển 16, đã khắc họa rõ nét tình cảnh này:
:Nguyễn Phúc Thuần nối ngôi nghiệp chúa
:Trương Phước Loan lấn cả quyền hành
:Trong triều có Nguyễn Cư Trinh
:Cũng không ngăn được tình hình rối ren
:Trương Phước Loan lấy quyền Quốc phó
:Xem triều đình chẳng có một ai
:Chuyên quyền lại giết người ngay
:Tóm thâu công việc trong ngoài vào tay.
...
:Việc trấn thủ lắm khi quá yếu
:Muốn tuần tra lại thiếu chiến thuyền
:Cuối năm bảy mốt vua Xiêm
:Cất quân đánh chiếm Hà Tiên mấy ngày
...
:Tiền thu vô Phước Loan chiếm đoạt
:Thuế mười phần chỉ được một hai
:Chuyên quyền Loan lại tác oai
:Nhân dân đói khổ không ai không thù
:Đồng bỏ hoang, ruộng khô cỏ cháy
:Có nhiều làng chẳng thấy luỹ tre
:Nhân dân đói khổ não nề
:Nhiễu nhương trộm cướp lắm bề tang thương
Hậu quả tai hại của triều đại Nguyễn Phúc Thuần là sự suy yếu toàn diện của chính quyền chúa Nguyễn, dẫn đến mất đất, mất dân, và cuối cùng là sự sụp đổ dưới sức ép của Tây Sơn và Trịnh. Sự bất ổn chung của đất nước trong giai đoạn này đã gây ra nhiều đau khổ cho người dân và để lại vết sẹo sâu sắc trong lịch sử Đàng Trong.
4.3. Tước hiệu và Lăng mộ
Sau khi Nguyễn Phúc Thuần qua đời, vào năm 1778, Nguyễn Ánh (khi đó là摂政阮王 - Nhiếp chính Nguyễn vương) đã truy tôn ông với tước hiệu Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định vương (聰明寬厚英敏惠和孝定王Chinese).
Đến năm 1802, Nguyễn vương tiêu diệt Tây Sơn, thống nhất Việt Nam. Năm 1806, ông lên ngôi Hoàng đế, tức vua Gia Long, mở ra Hoàng triều Nguyễn. Vua Gia Long đã truy phong cho Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định hoàng đế (聰明寬厚英敏惠和孝定皇帝Chinese), và miếu hiệu là Duệ Tông (睿宗Chinese).
Năm Gia Long thứ 8 (1809), lăng mộ của ông được cải táng ở núi La Khê (nay nằm tại thôn La Khê Trẹm, xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), và lăng được gọi là Trường Thiệu Lăng (長紹陵Chinese).
5. Quan hệ gia đình
Nguyễn Phúc Thuần không có con trai nối dõi, chỉ có một người con gái.
| Danh phận | Tước hiệu/Tên | Thông tin |
|---|---|---|
| Chính phi | Nguyễn Thị Châu (阮氏珠Chinese) | Là con gái của Quận công Nguyễn Cửu Sách. Bà là người Tống Sơn, Thanh Hóa. Bà Chính phi mất trong thời loạn lạc ở Gia Định, không rõ mộ táng ở đâu. Sau khi Nguyễn Phúc Thuần qua đời, bà tái giá với Uy vũ Vệ úy Tống Văn Thịnh. |
| Hoàng nữ | Nguyễn Phúc Ngọc Thục (阮氏玉淑Chinese) | Sinh năm 1776, là con gái của Chính phi Nguyễn Thị Châu. Bà mất năm 1818, có thụy hiệu là Huệ Trinh (Huệ Trinh). Bà lấy Uy vũ Vệ úy Tống Văn Thịnh (con của Tống Văn Khôi). |