1. Cuộc sống ban đầu và đời tư
Aleksandra Sergeyevna Soldatova sinh ngày 1 tháng 6 năm 1998 tại Sterlitamak, Bashkortostan, Nga. Cô bắt đầu tập luyện thể dục nhịp điệu từ năm 5 tuổi. Huấn luyện viên đầu tiên của cô là Olga Nazatova. Trước khi gia nhập đội tuyển quốc gia Nga, cô đã được huấn luyện bởi Anna Shumilova tại Dmitrov, Tỉnh Moskva. Câu lạc bộ mà cô thi đấu là Gazprom, và trung tâm huấn luyện chính của cô là Novogorsk.
Về đời tư, vào ngày 21 tháng 1 năm 2023, Soldatova đã thông báo qua tài khoản Instagram của mình rằng cô đang mang thai. Cô đã hạ sinh một bé trai tên Nikolai Dmitrievich vào ngày 21 tháng 3 năm 2023.
1.1. Thời thơ ấu và quá trình đào tạo ban đầu
Aleksandra Soldatova bắt đầu sự nghiệp thể dục nhịp điệu của mình từ rất sớm, khi mới 5 tuổi. Cô được phát hiện và huấn luyện bởi Olga Nazatova, người đã đặt nền móng cho tài năng của cô. Quá trình đào tạo ban đầu của Soldatova diễn ra tại Dmitrov, Tỉnh Moskva, dưới sự hướng dẫn của Anna Shumilova-Dyachenko, người sau này trở thành huấn luyện viên chính của cô. Môi trường huấn luyện khắc nghiệt nhưng chuyên nghiệp đã giúp cô phát triển nhanh chóng và sớm bộc lộ tiềm năng trở thành một vận động viên hàng đầu.
2. Sự nghiệp
Sự nghiệp của Aleksandra Soldatova trải dài từ cấp độ thiếu niên cho đến đỉnh cao của thể dục nhịp điệu cấp cao, gặt hái nhiều thành công và để lại dấu ấn đáng kể trong làng thể thao.
2.1. Sự nghiệp cấp thiếu niên
Aleksandra Soldatova đã gây ấn tượng mạnh mẽ ngay từ khi ra mắt đấu trường quốc tế ở cấp độ thiếu niên. Năm 2011, cô tham dự Cúp Junior Irina Deleanu, giành huy chương vàng ở nội dung cá nhân toàn năng và các nội dung chung kết thiết bị vòng và ruy băng, đồng thời giành huy chương bạc ở nội dung bóng. Sau đó, tại Cúp Câu lạc bộ Thế giới - Aeon Cup 2011 ở Tokyo, Nhật Bản, cô đã giành huy chương vàng cá nhân toàn năng thiếu niên cùng với Đội Gazprom (gồm các vận động viên cấp cao Evgenia Kanaeva và Daria Kondakova).
Tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga dành cho thiếu niên, cô giành huy chương đồng cá nhân toàn năng vào năm 2012 và huy chương bạc vào năm 2013. Mặc dù chi tiết về các nội dung thi đấu cá nhân tại Giải vô địch Quốc gia Thiếu niên Nga 2012 không được nêu cụ thể ở nội dung toàn năng, nhưng cô cũng đã đạt được huy chương bạc ở nội dung vòng và ruy băng, cùng với huy chương đồng ở nội dung chùy, cho thấy khả năng đa dạng của mình.
Năm 2012, Soldatova bắt đầu mùa giải tại Grand Prix Moskva 2012. Cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng tại Giải đấu Quốc tế Schmiden và tất cả các nội dung chung kết thiết bị, trước khi giành huy chương vàng đồng đội cùng Dina Averina và Arina Averina tại MTM Ljubljana 2012. Sau khi giành huy chương vàng ruy băng tại World Cup Thiếu niên Pesaro 2012, cô tiếp tục giành danh hiệu cá nhân toàn năng tại World Cup Thiếu niên Sofia 2012 và các nội dung chung kết thiết bị. Tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Thiếu niên châu Âu 2012, Soldatova đã giành huy chương vàng ở nội dung ruy băng, đồng thời giúp đội tuyển thiếu niên Nga (cùng Yana Kudryavtseva, Julia Sinitsina và Diana Borisova) giành huy chương vàng đồng đội thiếu niên.
Trong Đại hội Thể thao Sinh viên Mùa hè lần thứ 6 của Spartakiada Nga năm 2013, Soldatova đã giành huy chương vàng cá nhân toàn năng, vượt qua cặp chị em sinh đôi Averina, cùng với huy chương vàng ruy băng và huy chương bạc chùy và vòng.
2.2. Sự nghiệp cấp cao
Sự nghiệp thi đấu cấp cao của Aleksandra Soldatova bắt đầu vào năm 2014 và kéo dài đến khi cô giải nghệ vào năm 2020, đánh dấu nhiều thành tích cá nhân và đồng đội nổi bật.
2.2.1. Mùa giải 2014
Trong mùa giải 2014, dù là thành viên đội dự bị của Nga, Soldatova đã có màn ra mắt ấn tượng ở cấp độ cao tại Giải đấu Quốc tế cấp cao trong khuôn khổ Grand Prix Moskva 2014. Cô giành huy chương đồng cá nhân toàn năng, đứng sau hai chị em sinh đôi Averina (Dina và Arina). Soldatova được chỉ định tham dự sự kiện World Cup đầu tiên của mình tại World Cup Debrecen 2014, thay thế Yulia Sinitsina. Tại đây, cô đã giành vị trí thứ nhất ở nội dung cá nhân toàn năng với tổng số điểm 70.750, vượt qua vận động viên giành huy chương bạc Giải vô địch thế giới 2013 Ganna Rizatdinova để giành vàng. Trong các nội dung chung kết thiết bị, cô giành vàng chùy (18.067 điểm) và ruy băng (17.633 điểm), bạc bóng (17.583 điểm) và đồng vòng (17.283 điểm).
Từ ngày 4 đến 6 tháng 4, Soldatova thi đấu tại Baltic Hoop 2014 và giành huy chương vàng cá nhân toàn năng, đồng đội Arina Averina giành bạc và Katsiaryna Halkina của Belarus giành đồng. Cô giành 3 huy chương vàng ở các nội dung chung kết thiết bị: (vòng, chùy, ruy băng) và đứng thứ 4 ở nội dung bóng. Từ ngày 23 đến 27 tháng 4, Soldatova tham gia Giải vô địch Quốc gia Nga 2014 và giành huy chương đồng cá nhân toàn năng, xếp sau Yana Kudryavtseva (vàng) và Margarita Mamun (bạc). Soldatova đã giành huy chương vàng vòng, bạc bóng và ruy băng, và đứng thứ sáu ở nội dung chùy.
Từ ngày 9 đến 11 tháng 5, Soldatova thi đấu tại World Cup Corbeil-Essonnes 2014, kết thúc ở vị trí thứ 4 cá nhân toàn năng sau Ganna Rizatdinova, cô chỉ đủ điều kiện vào 1 nội dung chung kết và giành huy chương bạc ở nội dung bóng. Soldatova sau đó thi đấu tại World Cup Tashkent 2014 và giành đồng cá nhân toàn năng sau hai đồng đội Margarita Mamun và Yana Kudryavtseva (giành vàng và bạc), cô không tiến vào chung kết thiết bị do quy định 2 vận động viên mỗi quốc gia, với Mamun và Kudryavtseva xếp trên cô trong vòng loại.
Từ ngày 4 đến 6 tháng 7, Soldatova thi đấu tại Izmir Tournament Cup và giành vàng cá nhân toàn năng vượt qua đồng đội Maria Titova, cô đủ điều kiện vào tất cả 4 nội dung chung kết thiết bị và giành vàng ruy băng, 3 bạc (vòng, bóng và chùy). Từ ngày 16 đến 17 tháng 8, Soldatova được mời tham dự giải đấu quốc tế tại Vitoria, Brasil, nơi cô giành tất cả các huy chương vàng với điểm số cao ở cá nhân toàn năng (71.500 điểm) và tất cả các nội dung chung kết thiết bị (Vòng: 18.150, Bóng: 17.650, Chùy: 18.200, Ruy băng: 18.000). Từ ngày 22 đến 28 tháng 9, Soldatova (cùng các đồng đội Yana Kudryavtseva và Margarita Mamun) đại diện Nga tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2014, cô chỉ thi đấu ở 2 thiết bị, đóng góp điểm số 17.675 (bóng) và 18.050 (vòng) giúp Nga giành huy chương vàng đồng đội với tổng số 147.914 điểm.
2.2.2. Mùa giải 2015

Soldatova bắt đầu mùa giải 2015 tại Grand Prix Moskva 2015, nơi cô kết thúc ở vị trí thứ 4 cá nhân toàn năng. Cô đủ điều kiện vào 2 nội dung chung kết thiết bị, giành huy chương vàng ở nội dung bóng vượt qua Melitina Staniouta và đứng thứ 7 ở nội dung chùy. Từ ngày 27 đến 29 tháng 3, Soldatova thi đấu tại World Cup Lisboa 2015 và giành huy chương vàng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 73.600, vượt qua hai đồng hương Margarita Mamun (bạc) và Yana Kudryavtseva (đồng). Cô đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị: giành vàng chùy, bạc bóng và đứng thứ 6 ở vòng.
Tại sự kiện tiếp theo của mình, World Cup Bucharest 2015, Soldatova kết thúc ở vị trí thứ 6 cá nhân toàn năng sau những sai lầm và làm rơi thiết bị trong bài thi vòng. Cô đủ điều kiện vào 2 nội dung chung kết thiết bị, giành vàng ruy băng (đồng hạng với Kudryavtseva) và bạc chùy. Từ ngày 10 đến 12 tháng 4, Soldatova giành huy chương đồng cá nhân toàn năng tại World Cup Pesaro 2015, cô đủ điều kiện vào 2 nội dung chung kết thiết bị, giành vàng bóng và đồng ruy băng.
Soldatova được chọn làm thành viên đội tuyển Nga tham dự Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2015, nơi họ giành huy chương vàng đồng đội (cùng các đồng đội Kudryavtseva và Margarita Mamun). Soldatova đủ điều kiện vào 2 nội dung thiết bị nhưng chỉ xếp thứ 7 ở chung kết vòng và thứ 8 ở chung kết chùy.
Từ ngày 15 đến 26 tháng 5, Soldatova thi đấu tại Grand Prix Holon 2015, cô giành bạc ở chung kết bóng và ruy băng. Tại World Cup Tashkent 2015, Soldatova giành bạc cá nhân toàn năng sau Margarita Mamun, cô đủ điều kiện vào tất cả 4 nội dung chung kết thiết bị, giành bạc (vòng, bóng, ruy băng) và xếp thứ 6 ở chùy.
Cuộc thi tiếp theo của Soldatova là tại Grand Prix Berlin 2015, nơi cô giành đồng cá nhân toàn năng sau Melitina Staniouta, cô đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị và giành bạc (vòng, chùy, ruy băng). Vào tháng 8, Soldatova thi đấu tại World Cup Budapest 2015 và kết thúc ở vị trí thứ 4 cá nhân toàn năng sau vận động viên người Belarus Melitina Staniouta, Soldatova chỉ đủ điều kiện vào 1 nội dung chung kết thiết bị, xếp thứ 7 ở ruy băng. Tại cuộc thi tiếp theo, Soldatova kết thúc ở vị trí thứ 6 cá nhân toàn năng tại World Cup Sofia 2015 và đủ điều kiện vào 1 nội dung chung kết thiết bị, giành bạc chùy sau đồng đội Kudryavtseva.
Tại World Cup Kazan 2015, Soldatova giành huy chương đồng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 74.300. Soldatova đủ điều kiện vào chung kết chùy, nhưng được giao các nội dung chung kết thiết bị còn lại do là vận động viên Nga thứ 3 có điểm số đủ điều kiện, sau khi Kudryavtseva rút lui vì chấn thương mắt cá chân trong bài thi chùy của mình. Soldatova thi đấu trong các sự kiện khi đang bị cúm, tuy nhiên, cô chỉ mắc một vài lỗi và giành huy chương bạc ở vòng (18.500), bóng (18.450), chùy (18.300) và ruy băng (18.400) ngay sau đồng đội Margarita Mamun, người đã giành tất cả các nội dung chung kết thiết bị.
Từ ngày 9 đến 13 tháng 9, tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2015 ở Stuttgart, Soldatova (cùng các đồng đội Kudryavtseva và Mamun) đại diện Nga và giành huy chương vàng đồng đội. Cô thi đấu ở 3 thiết bị trong vòng loại và đủ điều kiện vào 2 nội dung chung kết, giành huy chương bạc ở vòng và chùy. Cô được xếp hạng thứ 3 cho nội dung cá nhân toàn năng; tuy nhiên, cô không tiến vào chung kết cá nhân toàn năng vì quy tắc hai vận động viên mỗi quốc gia và với Kudryavsteva và Mamun có điểm số vòng loại cao hơn cô. Từ ngày 2 đến 4 tháng 10, Soldatova cùng các đồng đội Margarita Mamun và vận động viên thiếu niên Alina Ermolova đại diện Đội Gazprom tại Aeon Cup 2015 hàng năm ở Tokyo, Nhật Bản, Soldatova giành đồng ở chung kết cá nhân toàn năng sau Ganna Rizatdinova và Đội Nga giành huy chương vàng ở bảng xếp hạng tổng thể.
2.2.3. Mùa giải 2016
Năm 2016, Soldatova bắt đầu mùa giải tại Grand Prix Moskva 2016, nơi cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 74.066, cô đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị, giành vàng vòng, bóng và bạc ruy băng. Từ ngày 26 đến 28 tháng 2, Soldatova thi đấu tại World Cup đầu tiên của mùa giải tại World Cup Espoo 2016, nơi cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng. Trong các nội dung chung kết thiết bị; cô giành vàng chùy, bạc vòng, đồng ruy băng, xếp thứ 4 ở bóng.
Từ ngày 17 đến 20 tháng 3, Soldatova sau đó thi đấu tại World Cup Lisboa 2016, nơi cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 75.650 (một kỷ lục cá nhân mới). Trong các nội dung chung kết thiết bị, cô giành vàng vòng, bóng, bạc ruy băng (đồng hạng với đồng đội Arina Averina) và đồng chùy. Tại sự kiện Grand Prix Thiais 2016 lần thứ 30 ở Paris, Soldatova giành huy chương bạc cá nhân toàn năng sau đồng đội Margarita Mamun, cô đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị: giành vàng bóng, ruy băng và bạc vòng.
Soldatova giành huy chương vàng cá nhân toàn năng tại Giải vô địch Quốc gia Nga 2016 được tổ chức ở Sochi. Cô cũng giành huy chương đồng đồng đội, bạc chùy, đồng ruy băng, xếp thứ 4 ở vòng và thứ 10 ở bóng. Từ ngày 13 đến 15 tháng 5, Soldatova thi đấu tại World Cup Tashkent 2016, nơi cô giành huy chương bạc cá nhân toàn năng sau Yana Kudryavtseva, cô đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị, giành bạc vòng, chùy và ruy băng. Cô giành thêm một huy chương bạc ở cá nhân toàn năng tại World Cup Minsk 2016 với tổng số điểm 74.200, trong các nội dung chung kết thiết bị: cô giành 3 huy chương bạc (bóng, ruy băng, chùy) và xếp thứ 7 ở vòng.
Từ ngày 3 đến 5 tháng 6, Soldatova sau đó giành bạc ở cá nhân toàn năng tại World Cup Guadalajara 2016 với điểm số PB mới là 75.700, trong các nội dung chung kết thiết bị: cô giành vàng bóng, bạc vòng, chùy và đồng ruy băng. Từ ngày 8 đến 10 tháng 7, Soldatova giành đồng ở cá nhân toàn năng tại World Cup Kazan 2016 với tổng số điểm 75.500, cô đủ điều kiện vào 1 nội dung chung kết thiết bị, giành bạc chùy. Từ ngày 22 đến 24 tháng 7, kết thúc World Cup của mùa giải tại World Cup Baku 2016, Soldatova giành thêm một huy chương đồng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 75.850 - cập nhật kỷ lục cá nhân của cô, cô đủ điều kiện vào 1 nội dung chung kết thiết bị; giành bạc ở bóng sau Margarita Mamun.
Soldatova đã đến Rio de Janeiro với tư cách là vận động viên cá nhân dự bị/thay thế của đội thể dục nhịp điệu Nga tại Thế vận hội Mùa hè 2016. Từ ngày 9 đến 11 tháng 9, Soldatova cùng các đồng đội Margarita Mamun và vận động viên thiếu niên Maria Sergeeva đại diện đội Gazprom tại Aeon Cup 2016 hàng năm ở Tokyo, nơi họ giành huy chương vàng đồng đội và Soldatova giành đồng ở cá nhân toàn năng sau Ganna Rizatdinova.
2.2.4. Mùa giải 2017

Năm 2017, Soldatova bắt đầu mùa giải sau Thế vận hội tại Grand Prix Moskva 2017 nơi cô giành huy chương bạc cá nhân toàn năng sau đồng đội Dina Averina, cô đủ điều kiện vào 2 nội dung chung kết thiết bị, giành vàng bóng và bạc vòng. Từ ngày 10 đến 12 tháng 3, Soldatova thi đấu với tư cách là nhà vô địch đương kim tại Giải vô địch Quốc gia Nga 2017 nơi cô giành huy chương bạc cá nhân toàn năng sau Dina. Cô cũng giành huy chương đồng đồng đội, vàng vòng, bạc chùy và ruy băng, và đứng thứ 5 ở bóng.
Từ ngày 31 tháng 3 đến 2 tháng 4, Soldatova thi đấu tại Grand Prix Marbella 2017 nơi cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng và giành vàng ở tất cả các nội dung chung kết thiết bị (vòng (19.350), bóng (19.250), chùy (19.500), và ruy băng (19.200)). Từ ngày 7 đến 9 tháng 4, Soldatova thi đấu tại World Cup đầu tiên của mùa giải tại World Cup Pesaro 2017 nơi cô giành vàng ở cá nhân toàn năng vượt qua đồng đội Dina Averina, cô đủ điều kiện vào tất cả các nội dung chung kết thiết bị, giành vàng vòng, bạc bóng, ruy băng và xếp thứ 5 ở chùy.
Tại sự kiện tiếp theo của cô tại World Cup Baku 2017, Soldatova giành bạc ở cá nhân toàn năng sau Arina Averina, cô đủ điều kiện vào tất cả các nội dung chung kết thiết bị, giành vàng bóng, bạc vòng, chùy và xếp thứ 5 ở ruy băng. Từ ngày 19 đến 21 tháng 5, tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2017 ở Budapest, Hungary, Soldatova là thành viên của Đội Nga giành vàng (cùng với các vận động viên cá nhân cấp cao Dina Averina, Arina Averina và đội hình trẻ) với tổng số điểm 182.175, cao hơn 11 điểm so với đội xếp thứ hai là Belarus. Soldatova đủ điều kiện vào 3 nội dung chung kết thiết bị, giành 2 huy chương bạc ở vòng, bóng và kết thúc ở vị trí thứ 4 ở ruy băng sau Neviana Vladinova.
Hồi phục sau chấn thương mắt cá chân; Soldatova trở lại thi đấu từ ngày 4 đến 6 tháng 8 tại World Cup Minsk 2017, cô giành vàng ở cá nhân toàn năng, cô đủ điều kiện vào tất cả 4 nội dung chung kết thiết bị. Tuy nhiên, các bài thi đầy lỗi và các động tác không chính xác đã khiến cô chỉ giành bạc ở vòng sau Neviana Vladinova, sau đó xếp thứ 5 ở bóng, thứ 6 ở chùy, thứ 4 ở ruy băng trong 3 nội dung còn lại. Vào ngày 9 tháng 8, trong quá trình tuyển chọn đội tuyển Nga tham dự Đại hội Thể thao Sinh viên Mùa hè 2017, Soldatova không được chọn đại diện cho Nga. Hai đại diện là Iuliia Bravikova và Ekaterina Selezneva. Irina Viner cũng đã tuyên bố rằng Soldatova sẽ không tham gia Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2017 vì cô chưa hoàn toàn hồi phục sau chấn thương, cô vẫn đang trong quá trình hồi phục cả về thể chất lẫn tinh thần.
Từ ngày 5 đến 6 tháng 11, Soldatova thi đấu tại Dalia Kutkaite Cup 2017 và giành huy chương vàng cá nhân toàn năng với tổng số điểm 74.850, cao hơn 0.5 điểm so với người giành bạc Katsiaryna Halkina. Cô cũng giành vàng ở Gracia Fair Cup.
2.2.5. Mùa giải 2018
Năm 2018, Soldatova bắt đầu mùa giải tại Grand Prix Moskva 2018, nơi cô xếp thứ 4 cá nhân toàn năng. Cô đủ điều kiện vào hai nội dung chung kết thiết bị, nơi cô giành bạc với chùy và ruy băng.
Từ ngày 30 tháng 3 đến 1 tháng 4, Soldatova bắt đầu các sự kiện World Cup tại World Cup Sofia 2018, nơi cô giành huy chương vàng cá nhân toàn năng. Cô đủ điều kiện vào tất cả các nội dung chung kết thiết bị, giành vàng với vòng và bóng, đồng với chùy và kết thúc thứ 4 với ruy băng. Từ ngày 20 đến 22 tháng 4, tại World Cup Tashkent 2018, Soldatova giành vàng cá nhân toàn năng, lập kỷ lục cá nhân mới với tổng số điểm 77.050. Cô giành tất cả các huy chương vàng ở các nội dung chung kết thiết bị với điểm số cao ở vòng (19.900), bóng (19.600), chùy (18.000) và ruy băng (18.300). Từ ngày 4 đến 6 tháng 5, Soldatova thi đấu tại World Challenge Cup Guadalajara 2018 nơi cô giành bạc ở cá nhân toàn năng (72.750) sau Linoy Ashram. Cô đủ điều kiện vào tất cả các nội dung chung kết thiết bị, tuy nhiên những sai lầm với vòng và bóng đã khiến cô lần lượt xếp thứ 6 và thứ 7 ở các nội dung chung kết đó. Cô giành bạc chùy và vàng ruy băng.
Từ ngày 16 đến 17 tháng 5, Soldatova thi đấu tại Grand Prix Holon 2018 và giành bạc cá nhân toàn năng với tổng số điểm 75.750 sau đồng đội Arina Averina. Cô đủ điều kiện vào chung kết vòng và chùy. Tuy nhiên, cô đã rút lui khỏi lịch thi đấu do chấn thương, và sau đó được tiết lộ cô bị gãy xương ở chân trái.
Tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2018 ở Sofia, Soldatova đã giành huy chương đồng cá nhân toàn năng, huy chương vàng đồng đội, huy chương vàng ruy băng và huy chương bạc bóng.
2.2.6. Mùa giải 2019
Soldatova tiếp tục phong độ mạnh mẽ trong mùa giải 2019, giành bốn huy chương vàng tại World Cup Tashkent 2019 vào tháng 4, và năm huy chương vàng tại World Challenge Cup Guadalajara 2019 vào đầu tháng 5, quét sạch tất cả các huy chương ở các nội dung thi đấu. Vào ngày 19 tháng 5 năm 2019, cô giành hai huy chương bạc - ở nội dung bóng và ruy băng - tại Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2019 ở Baku. Tại sự kiện này, cô cũng góp phần giành huy chương vàng đồng đội cho Nga.
Vào tháng 9 tại World Challenge Cup Portimão 2019, Soldatova giành huy chương vàng cá nhân toàn năng và huy chương đồng bóng. Cô cũng giành vàng cá nhân toàn năng tại World Cup Sofia 2019, cùng với đồng vòng và chùy, và vàng ruy băng. Tại Grand Prix Marbella 2019, cô giành bạc cá nhân toàn năng và đồng ruy băng. Mùa giải Grand Prix cũng chứng kiến cô giành đồng cá nhân toàn năng và vàng chùy tại Grand Prix Moskva 2019.
2.2.7. Mùa giải 2020 và giải nghệ
Vào ngày 5 tháng 2 năm 2020, truyền thông Nga đưa tin Soldatova đã được đưa đến Viện Sklifosovskiy ở Moskva do chấn thương ở cánh tay trái từ một vụ tự gây thương tích, ban đầu bị nghi ngờ là một nỗ lực tự tử. Tuy nhiên, tại bệnh viện, cô được chẩn đoán mắc bulimia. Soldatova sau đó đã lên tiếng qua tài khoản Instagram của huấn luyện viên của mình, giải thích rằng cô đã vô tình tự cắt mình bằng dao khi đang làm bữa sáng và phải đến bệnh viện. Cô bày tỏ sự sốc trước những tin tức về nỗ lực tự tử.
Vào tháng 2 năm 2020, Soldatova tiết lộ rằng cô sẽ tạm nghỉ để điều trị chứng ăn uống vô độ, một căn bệnh mà cô đã phải vật lộn trong suốt hai năm qua. Cô bày tỏ mong muốn được trở lại tập luyện một khi sức khỏe ổn định. Soldatova không tham gia thi đấu trong mùa giải 2020, vốn bị rút ngắn do đại dịch coronavirus. Vào ngày 24 tháng 12 năm 2020, cô chính thức thông báo giã từ sự nghiệp thể dục nhịp điệu.
Sự kiện này đã làm nổi bật những áp lực lớn mà các vận động viên phải đối mặt và tầm quan trọng của sức khỏe tinh thần trong thể thao. Việc Soldatova công khai về cuộc chiến với chứng bulimia đã góp phần nâng cao nhận thức về các vấn đề ăn uống và sức khỏe tâm lý trong cộng đồng thể thao, khuyến khích một môi trường hỗ trợ và cởi mở hơn cho các vận động viên.
3. Kỹ thuật thể dục nhịp điệu
Soldatova nổi tiếng với khả năng linh hoạt đáng kinh ngạc trong các động tác khó và những cú xoay trụ (pivot turn) điêu luyện. Cô đã thực hiện thành công cú xoay penchee năm vòng và cú xoay trụ vòng bốn vòng trong các cuộc thi. Sự kết hợp giữa sự dẻo dai tự nhiên và kỹ thuật xoay vòng chính xác đã làm nên phong cách đặc trưng của cô, giúp cô nổi bật trong giới thể dục nhịp điệu. Cô cũng được biết đến với sự duyên dáng và uyển chuyển trong các bài biểu diễn của mình.
4. Thông tin nhạc thi đấu
Dưới đây là danh sách các bản nhạc đã được Aleksandra Soldatova sử dụng trong các bài thi đấu của cô qua các mùa giải và các thiết bị khác nhau:
Năm | Thiết bị | Tên bản nhạc |
---|---|---|
2021 | Gala (Khai mạc Grand Prix Moskva) | "The Promise", của Secret Garden |
Gala (Bế mạc Grand Prix Moskva) | "I Like the Way You're Not Ill With Me" (Tiếng Nga: Мне нравится, что Вы больны не мной), của Alla Pugacheva, lời của Marina Tsvetaeva | |
2020 | Gala | "Mama", của Dalida |
2019 | Vòng | The Gypsies; Journey Across Europe / Fanatico Master music from Oxford / KOI của John Corigliano / Edvin Marton & Ari Zakaryan |
Bóng | "The Love of the Tired Swans" (Tiếng Nga: Любовь уставших лебедей), của Dimash Kudaibergen, sáng tác bởi Igor Krutoy | |
Chùy | "Always", của AySel feat. Arash | |
Ruy băng | "Scheherazade", của Nikolai Rimsky-Korsakov | |
Gala | "The Love of the Tired Swans" (Tiếng Nga: Любовь уставших лебедей), của Dimash Kudaibergen, sáng tác bởi Igor Krutoy | |
2018 | Vòng (đầu tiên) | "Granada" của Stanley Black |
Vòng (thứ hai) | "Malagueña", của Stanley Black | |
Bóng (đầu tiên) | "Carmen Suite", của Moscow Virtuosi Chamber Orchestra, sáng tác bởi Georges Bizet | |
Bóng (thứ hai) | "Don Quixote", của Ludwig Minkus | |
Chùy (đầu tiên) | "Eyes Like Yours", của Shakira | |
Chùy (thứ hai) | "The Second Waltz", của Dmitri Shostakovich | |
Ruy băng | "You Don't Give Up On Love" (Tiếng Nga: Не отрекаются любя), của Alla Pugacheva, sáng tác bởi Mark Minkov | |
Gala (đầu tiên) | "Blizzard", của Quatro | |
Gala (thứ hai) | "Por Fin", của Pablo Alborán | |
2017 | Vòng | "Prelude in C-sharp minor", của Pierre-Yves Plat, sáng tác bởi Sergei Rachmaninoff |
Bóng (đầu tiên) | "The Dying Swan", nhạc từ The Carnival of the Animals của Camille Saint-Saëns | |
Bóng (thứ hai) | "Aria", của Giorgia Fumanti, từ The Carnival of the Animals của Camille Saint-Saëns | |
Chùy (đầu tiên) | "Girl's Dance" từ The Path of Thunder, của Gara Garayev | |
Chùy (thứ hai) | "Russian Dance" từ Hồ Thiên Nga, Màn III, Op. 20, của Pyotr Ilyich Tchaikovsky | |
Ruy băng | "Spartacus" (The Triumph of Rome, Adagio of Spartacus and Phrygia, Spartacus' Death), của Aram Khachaturian | |
Gala | "Russian Dance" từ Hồ Thiên Nga, Màn III, Op. 20, của Pyotr Ilyich Tchaikovsky | |
2016 | Vòng | "Phantasia" từ Bóng ma trong nhà hát, của Sarah Chang, Julian Lloyd Webber |
Bóng | "Mama", của Dalida | |
Chùy | "Kadril Veselaya" (Tiếng Nga: Весёлая кадриль), của Kravtet Sisters và Anna Litvinenko | |
Ruy băng | "Piano Concerto số 1 giọng Si giáng thứ, Op. 23" của Maksim Mrvica, sáng tác bởi Pyotr Ilyich Tchaikovsky | |
Gala | "Fantasie-tableaux Op. 5 Barcarolle", của Sergei Rachmaninoff | |
2015 | Vòng (đầu tiên) | "Concerto in F", của George Gershwin |
Vòng (thứ hai) | "Danse de Phryne" từ Faust, của Charles Gounod | |
Bóng | "Hồ Thiên Nga" của David Garrett, sáng tác bởi Pyotr Ilyich Tchaikovsky | |
Chùy | "Straight To Memphis", của Club des Belugas | |
Ruy băng | "Polovtsian Dances" (Tiếng Nga: Половецкие пляски), của Alexandr Borodin | |
Gala | "Worth It", của Fifth Harmony feat. Kid Ink | |
2014 | Vòng | "Mazurka" từ Masquerade, của Aram Khachaturian |
Bóng | "La donna è mobile", của Luciano Pavarotti, sáng tác bởi Giuseppe Verdi | |
Chùy | "My Fair Lady", của Frederick Loewe | |
Ruy băng | "Dillo Ancora", của Carmelo Zappulla | |
Gala | "Goodbye" từ Hachi: A Dog's Tale, của Jan A. P. Kaczmarek | |
2013 | Vòng | "La Gorda", của Roberto Polisano |
Bóng | "Casta Diva", của Filippa Giordano | |
Chùy | "Que Bonita Eres", của Latino Tres | |
Ruy băng | "Dillo Ancora", của Carmelo Zappulla | |
2012 | Vòng | "Tango Cumparsita", của Bulevard Tango Club |
Bóng | "Schedrivochka" (Tiếng Nga: Щедривочка), của Pelageya | |
Chùy | - | |
Ruy băng | "La Maritza", của Sylvie Vartan | |
2011 | Vòng | "Cheburashka's Song" (Tiếng Nga: Песня Чебурашки), của Vladimir Shainsky (phối khí) |
Bóng | "Badinerie", của Johann Sebastian Bach (phối khí) | |
Chùy | "Sole Love", của Nachum Heiman | |
Ruy băng | "On the Boat" (Tiếng Nga: На катере), của Eugen Doga | |
5. Điểm nhấn thi đấu
Dưới đây là tóm tắt các thành tích và huy chương nổi bật mà Aleksandra Soldatova đã đạt được trong sự nghiệp thi đấu quốc tế và quốc gia của mình.
(Các cuộc thi đồng đội ở cấp cao chỉ được tổ chức tại Giải vô địch thế giới, Giải vô địch châu Âu và các Đại hội Thể thao Lục địa khác.)
Quốc tế: Cấp cao | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Sự kiện | Cá nhân toàn năng | Đồng đội | Vòng | Bóng | Chùy | Ruy băng |
2019 | World Cup Portimão 2019|1st | 3rd|WD|WD | |||||
Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2019 | 1st | 2nd | 2nd | ||||
World Cup Guadalajara 2019|1st | 1st|1st|1st | ||||||
World Cup Tashkent 2019|1st | 1st|1st|4th | ||||||
World Cup Sofia 2019|1st | 4th|3rd|1st | ||||||
Grand Prix Marbella 2019|2nd | 4th (Q)|4th (Q)|3rd | ||||||
Grand Prix Moskva 2019|3rd | 9th (Q)|1st|3rd (Q) | ||||||
2018 |align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2018|3rd|1st | 2nd | 1st | |||||
World Cup Kazan 2018|1st | 3rd|3rd|3rd | ||||||
World Cup Minsk 2018|2nd | 5th|2nd|1st | ||||||
Grand Prix Holon 2018|2nd | 3rd (Q)|WD|WD | ||||||
World Cup Guadalajara 2018|2nd | 7th|2nd|1st | ||||||
World Cup Tashkent 2018|1st | 1st|1st|1st | ||||||
World Cup Sofia 2018|1st | 1st|3rd|4th | ||||||
Grand Prix Moskva 2018|4th | 6th (Q)|2nd|2nd | ||||||
2017| align="left" |Dalia Kutkaite Cup 2017|1st | |||||||
Gracia Fair Cup 2017|1st | |||||||
World Cup Minsk 2017|1st | 5th|6th|4th | ||||||
Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2017 | 2nd|2nd | 4th | |||||
World Cup Baku 2017|2nd | 1st|2nd|5th | ||||||
World Cup Pesaro 2017|1st | 2nd|5th|2nd | ||||||
Grand Prix Marbella 2017|1st | 1st|1st|1st | ||||||
Grand Prix Moskva 2017|2nd | 1st|3rd (Q)|4th (Q) | ||||||
2016|align=left|Grand Prix Final: Eilat 2016|1st | 1st|1st|1st | ||||||
Aeon Cup 2016|3rd|1st | |||||||
World Cup Baku 2016|3rd | 2nd|3rd (Q)|3rd (Q) | ||||||
Italia-Russia Match 2016 | 1st | ||||||
World Cup Kazan 2016|3rd | 3rd (Q)|2nd|3rd (Q) | ||||||
World Cup Guadalajara 2016|2nd | 1st|2nd|3rd | ||||||
World Cup Minsk 2016|2nd | 2nd|2nd|2nd | ||||||
World Cup Tashkent 2016|2nd | 18th (Q)|2nd|2nd | ||||||
Grand Prix Thiais 2016|2nd | 1st|7th (Q)|1st | ||||||
World Cup Lisbon 2016|1st | 1st|3rd|2nd | ||||||
World Cup Espoo 2016|1st | 5th|1st|3rd | ||||||
Grand Prix Moskva 2016|1st | 1st|6th (Q)|2nd | ||||||
2015| align=left|Grand Prix Final 2015|WD | |||||||
Aeon Cup 2015|3rd|1st | |||||||
Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2015|3rd (Q)|1st|2nd | 5th (Q) | ||||||
World Cup Kazan 2015|3rd | 2nd|2nd|2nd | ||||||
World Cup Sofia 2015|6th | 6th (Q)|2nd|7th (Q) | ||||||
World Cup Budapest 2015|4th | 3rd (Q)|5th (Q)|7th | ||||||
Grand Prix Berlin 2015 |3rd | 16th (Q)|2nd|2nd | ||||||
World Cup Tashkent 2015|2nd | 2nd|6th|2nd | ||||||
Grand Prix Holon 2015 |3rd | 2nd|3rd (Q)|2nd | ||||||
Giải vô địch Thể dục nhịp điệu châu Âu 2015 | 7th | ||||||
World Cup Pesaro 2015|3rd | 1st|3rd (Q)|3rd | ||||||
World Cup Bucharest 2015|6th | 4th (Q)|2nd|1st | ||||||
World Cup Lisbon 2015|1st | 2nd|1st|4th (Q) | ||||||
Grand Prix Moskva 2015|4th | 1st|7th|4th (Q) | ||||||
2014|align=left| Italian Serie A 2014 | 1st | ||||||
Giải vô địch Thể dục nhịp điệu thế giới 2014 | 4th (Q)|4th (Q) | ||||||
IV International Brazil Meet 2014|1st | 1st|1st|1st | ||||||
Izmir Tournament Cup 2014|1st | 2nd|2nd|1st | ||||||
World Cup Tashkent 2014|3rd | 4th (Q)|3rd (Q)|3rd (Q) | ||||||
World Cup Corbeil-Essonnes 2014|4th | 2nd|12th (Q)|3rd (Q) | ||||||
Baltic Hoop 2014|1st | 4th|1st|1st | ||||||
World Cup Debrecen 2014|1st | 2nd|1st|1st | ||||||
Grand Prix Gazprom International Tournament 2014|3rd | |||||||
Quốc tế: Thiếu niên | |||||||
Năm | Sự kiện | Cá nhân toàn năng | Đồng đội | Vòng | Bóng | Chùy | Ruy băng |
2013|align=left| Italian Serie A 2013|1st | |||||||
2012|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Thiếu niên châu Âu 2012 | 1st | 1st | |||||
World Cup Thiếu niên Penza 2012 | 1st | 1st | |||||
World Cup Thiếu niên Tashkent 2012 | 1st | 1st | |||||
World Cup Thiếu niên Sofia 2012|1st | 1st|1st|1st | ||||||
World Cup Thiếu niên Pesaro 2012 | 1st | 1st | |||||
MTM Ljubljana 2012 | 1st | ||||||
Schmiden International 2012|1st | 1st|1st|1st | ||||||
2011|align=left|Aeon Cup 2011|1st|1st | |||||||
Irina Deleanu Cup 2011|1st | 2nd|1st|1st | ||||||
Quốc gia | |||||||
Năm | Sự kiện | Cá nhân toàn năng | Đồng đội | Vòng | Bóng | Chùy | Ruy băng |
2019|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga 2019|9th|1st | |||||||
2018|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga 2018|2nd|1st | |||||||
2017|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga 2017|2nd|3rd|1st|5th|2nd|2nd | |||||||
2016|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga 2016|1st|3rd|4th|10th|2nd|3rd | |||||||
2014|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Quốc gia Nga 2014|3rd | 2nd|6th|2nd | ||||||
2013|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Thiếu niên Quốc gia Nga 2013|2nd | |||||||
2012|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Thiếu niên Quốc gia Nga 2012|3rd | |||||||
2011|align=left|Giải vô địch Thể dục nhịp điệu Thiếu niên Quốc gia Nga 2011|8th | |||||||
Q = Vòng loại (Không được vào Chung kết Thiết bị do quy tắc 2 vận động viên mỗi quốc gia, chỉ 8 vận động viên có điểm cao nhất); WD = Rút lui; NT = Không có cuộc thi đồng đội | |||||||
6. Đánh giá và ảnh hưởng
Aleksandra Soldatova được đánh giá là một trong những vận động viên thể dục nhịp điệu tài năng nhất của Nga trong thế hệ của cô. Với kỹ thuật điêu luyện, đặc biệt là sự linh hoạt và các cú xoay trụ chính xác, cô đã mang đến những màn trình diễn đầy cảm xúc và giành được nhiều thành tích cao tại các giải đấu quốc tế lớn. Cô là biểu tượng của vẻ đẹp và sự duyên dáng trong bộ môn thể dục nhịp điệu, với khả năng kết nối sâu sắc với âm nhạc và thể hiện nó qua từng động tác.
Tuy nhiên, sự nghiệp của Soldatova còn nổi bật bởi một khía cạnh quan trọng hơn: cuộc chiến công khai của cô với rối loạn ăn uống (bulimia) và quyết định tạm dừng thi đấu để điều trị. Vụ việc cô phải nhập viện vào năm 2020 đã tạo ra một làn sóng thảo luận về sức khỏe tinh thần trong giới thể thao. Việc Soldatova thẳng thắn chia sẻ về căn bệnh của mình đã giúp phá vỡ sự kỳ thị xung quanh các vấn đề sức khỏe tâm lý, đặc biệt trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt của thể thao đỉnh cao.
Kinh nghiệm của Soldatova là một bài học quý giá cho cộng đồng thể thao về tầm quan trọng của việc quan tâm đến sức khỏe toàn diện của vận động viên, không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần. Nó nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về hệ thống hỗ trợ tâm lý chuyên nghiệp, sự lắng nghe và sự thấu hiểu từ các huấn luyện viên, đồng đội và liên đoàn thể thao. Câu chuyện của cô đã truyền cảm hứng và khuyến khích nhiều vận động viên khác dám lên tiếng về những khó khăn mà họ đang đối mặt, đồng thời thúc đẩy một môi trường thể thao nhân văn và bền vững hơn, nơi sức khỏe tinh thần được coi trọng ngang hàng với thành tích thi đấu.