1. Thời thơ ấu và lên ngôi
Hoàng đế Duy Tân có một tuổi thơ gắn liền với bối cảnh chính trị đầy biến động của đất nước dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, và việc ông lên ngôi khi còn rất nhỏ là một sự sắp đặt của người Pháp với những tính toán riêng.
1.1. Sinh ra và gia đình
Duy Tân, tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh ngày 19 tháng 9 năm 1900 tại Huế, mặc dù có tài liệu khác ghi ngày sinh của ông là 14 tháng 8 năm 1899. Ông là người con trai thứ 8 của Hoàng đế Thành Thái và bà Tài nhân Nguyễn Thị Định. Ông nội của ông là Hoàng đế Dục Đức và bà nội là Phan Thị Châu.

Khi Khâm sứ Trung kỳ Fernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành Thái vào hoàng cung để chọn vua, Nguyễn Phúc Vĩnh San là người duy nhất không có mặt. Triều đình cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang trốn dưới gầm giường, mặt mày lem luốc. Khi được hỏi, Vĩnh San nói: "Ta đang tìm con dế vừa mới xổng". Vì sợ bị quở phạt, người lính đi tìm Vĩnh San không đưa ông đi tắm rửa mà đưa thẳng ra trình diện quan Pháp. Người Pháp nhìn thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn nên đồng ý ngay, với hy vọng rằng một vị vua trẻ tuổi sẽ dễ dàng bị ảnh hưởng và kiểm soát, từ đó sẽ trở thành người ủng hộ Pháp. Mặc dù Duy Tân lúc đó chỉ mới 7 tuổi, triều đình xin tăng thêm một tuổi thành 8 tuổi để thuận tiện cho việc đăng cơ. Họ cũng đặt niên hiệu cho ông là Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp không thành của vua Thành Thái.
1.2. Lên ngôi Hoàng đế

Vào ngày 29 tháng 7 năm 1907, Hoàng đế Thành Thái bị thực dân Pháp phế truất và quản thúc tại Vũng Tàu vì ông đã tự ý bổ nhiệm nhiều quan lại mà không có sự cho phép của Pháp, cùng với những hành động bất thường (mà một số người cho rằng là giả vờ để che giấu sự chống đối Pháp). Vào ngày 3 tháng 9 năm 1907, Trương Như Cương, vị quan phụ chính, đã công bố rằng Thành Thái bị tâm thần và không thể điều hành triều chính.
Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Nguyễn Phúc Vĩnh San được đưa lên ngai vàng với niên hiệu Duy Tân, có nghĩa là "người bạn của cải cách" hoặc "đổi mới". Mặc dù lúc đó ông chỉ mới 7 hoặc 8 tuổi, người Pháp hy vọng rằng một vị vua trẻ tuổi sẽ dễ dàng bị ảnh hưởng và kiểm soát, và sẽ được nuôi dưỡng để trở thành người ủng hộ Pháp. Tuy nhiên, chỉ một ngày sau lễ đăng cơ, Duy Tân đã thay đổi. Một nhà báo Pháp từng nhận xét: "Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám".


2. Triều đại và kháng cự thực dân Pháp
Trong thời gian trị vì, Hoàng đế Duy Tân đã có sự thức tỉnh mạnh mẽ về quyền lực thực sự của chính quyền thực dân Pháp và thể hiện rõ thái độ chống đối của mình thông qua các hoạt động kháng cự.
2.1. Giai đoạn đầu triều đại và sự thức tỉnh dần dần
Ngay từ khi lên ngôi, mặc dù được đối xử như một Hoàng đế, Duy Tân dần nhận ra rằng quyền lực thực sự nằm trong tay các nhà chức trách thực dân. Khi trở thành thiếu niên, ông bắt đầu chịu ảnh hưởng của các vị quan lại yêu nước như Trần Cao Vân, người rất bất mãn với chính quyền thực dân.

Vào khoảng năm 1912, Georges Marie Joseph Mahé, Khâm sứ Trung kỳ, đã phát động một chiến dịch tìm vàng ráo riết tại Việt Nam. Mahé đã lấy tượng vàng đúc từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu trên tháp Phước Duyên của chùa Thiên Mụ, đào lăng vua Tự Đức và tiến hành đào xới lung tung trong Hoàng thành Huế để tìm vàng. Duy Tân đã phản đối quyết liệt những hành động thô bạo này, nhưng Mahé vẫn phớt lờ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Khi Tòa Khâm sứ Pháp gây áp lực, Duy Tân thậm chí đe dọa sẽ cắt đứt quan hệ với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng, Toàn quyền Albert Pierre Sarraut từ Hà Nội phải đích thân vào giải quyết, và Duy Tân mới cho mở lại Hoàng thành. Sự kiện này đã để lại một vết sẹo lớn trong tâm trí của vị Hoàng đế 13 tuổi.

Năm 13 tuổi, Duy Tân đọc lại các hiệp ước mà Việt Nam và Pháp đã ký kết. Ông nhận thấy việc thi hành các hiệp ước đó không đúng với những điều khoản đã ký kết, đặc biệt là Hòa ước Patenôtre năm 1884. Một hôm, giữa triều đình, ông bày tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài, người giỏi tiếng Pháp, sang Pháp để yêu cầu xem xét lại hiệp ước. Tuy nhiên, cả triều đình không ai dám nhận nhiệm vụ này vì sợ sự trả đũa của người Pháp.
Năm 15 tuổi, Duy Tân triệu tập sáu vị đại thần trong Hội đồng phụ chính và yêu cầu họ ký vào biên bản để đích thân ông sẽ trình lên Tòa Khâm sứ. Nhưng các đại thần vẫn từ chối ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó, không những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn nảy sinh ác cảm với cả triều đình, vì sự nhu nhược của họ.

2.2. Chế độ phụ chính
Trong suốt thời gian trị vì, Hoàng đế Duy Tân không trực tiếp nắm quyền mà nằm dưới chế độ phụ chính do chính quyền thực dân Pháp kiểm soát. Để kiểm soát Duy Tân, người Pháp đã thành lập một Hội đồng phụ chính gồm sáu đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Nguyễn Phúc Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục. Hội đồng này có nhiệm vụ cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Ngoài ra, một tiến sĩ sinh học tên là Ebérhard cũng được cử đến để dạy học cho vua Duy Tân, mà theo nhiều người thì đây chỉ là một hành động kiểm soát trá hình.
Dưới ảnh hưởng của chính quyền thực dân, các Thủ tướng Pháp cũng gián tiếp thực hiện vai trò phụ chính trong thời kỳ trị vì của Duy Tân. Các Thủ tướng Pháp trong giai đoạn này bao gồm:
- Georges Clemenceau (từ 4 tháng 9 năm 1907 đến 24 tháng 7 năm 1909)
- Aristide Briand (từ 24 tháng 7 năm 1909 đến 2 tháng 3 năm 1911)
- Ernest Monis (từ 2 tháng 3 năm 1911 đến 27 tháng 6 năm 1911)
- Joseph Caillaux (từ 27 tháng 6 năm 1911 đến 13 tháng 1 năm 1912)
- Raymond Poincaré (từ 13 tháng 1 năm 1912 đến 21 tháng 1 năm 1913)
- Aristide Briand (từ 21 tháng 1 năm 1913 đến 22 tháng 3 năm 1913)
- Louis Barthou (từ 22 tháng 3 năm 1913 đến 9 tháng 12 năm 1913)
- Gaston Doumergue (từ 9 tháng 12 năm 1913 đến 9 tháng 6 năm 1914)
- Alexandre Ribot (từ 9 tháng 6 năm 1914 đến 14 tháng 6 năm 1914)
- René Viviani (từ 14 tháng 6 năm 1914 đến 29 tháng 10 năm 1915)
- Aristide Briand (từ 29 tháng 10 năm 1915 đến 17 tháng 5 năm 1916)

2.3. Cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1916
Cuộc khởi nghĩa chống Pháp năm 1916 là đỉnh điểm cho những nỗ lực kháng cự của Hoàng đế Duy Tân. Lúc này, Pháp đang dồn sức vào Chiến tranh thế giới thứ nhất ở châu Âu, không có nhiều binh lực để chi phối Việt Nam. Cùng lúc đó, binh lính người Việt bị chính quyền thực dân tuyển dụng cảm thấy hoang mang và sợ hãi khi bị kéo sang chiến trường châu Âu. Nắm bắt cơ hội này, Việt Nam Quang phục Hội, do Phan Bội Châu thành lập từ năm 1912, đã liên lạc với Duy Tân.
Biết Duy Tân là người yêu nước và bất mãn với Pháp, Hội đã vận động người tài xế riêng của ông xin thôi việc, thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của Hội. Vào tháng 4 năm 1916, khi Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh đã đưa cho ông một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, cả ba cùng đến câu cá ở Hậu hồ, tại đây Duy Tân đã đồng ý tham gia khởi nghĩa.
Kế hoạch khởi nghĩa được ấn định vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5. Quân khởi nghĩa dự định chiếm giữ các tuyến đường chính ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, đoạt vũ khí và giúp Duy Tân bí mật thoát khỏi Huế. Sau đó, họ sẽ bắn đại bác tại Đèo Hải Vân làm hiệu lệnh, tiếp tục tấn công và chiếm đóng Quy Nhơn, Đà Nẵng, và hy vọng nhận được sự hỗ trợ từ Đức để cùng chống lại Pháp. Một kế hoạch khác là tấn công và chiếm đóng Trấn Bình Đài gần Hoàng thành Huế, với ý định bắt cóc những người Pháp gốc Đức tại đó về phe mình.

Tuy nhiên, vào cuối tháng 4, Võ An, một thành viên của Việt Nam Quang phục Hội ở Quảng Ngãi, đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, công sứ Pháp ở Quảng Ngãi là de Taste đã mật điện báo tin cho Khâm sứ Trung kỳ Charles. Ngay lập tức, Charles ra lệnh thu súng của các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại, không cho bất kỳ người lính Việt nào ra ngoài. Những hoạt động bất thường ở Quảng Nam cũng chứng tỏ Việt Nam Quang phục Hội đang chuẩn bị khởi nghĩa. Chính quyền thực dân đã kịp thời thực hiện các biện pháp này, nhưng Duy Tân, Trần Cao Vân và Thái Phiên đều không hề hay biết.
Đêm ngày 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón Duy Tân. Nhà vua cải trang thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ đến làng Hà Trung, lên nhà một hội viên của Việt Nam Quang phục Hội để chờ giờ phát lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên quyết định đưa Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi. Lúc này, cuộc nổi dậy ở Tam Kỳ đã thành công tiêu diệt một trung đội lính Pháp nhưng sau đó cũng nhanh chóng bị dập tắt.
Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, Duy Tân cùng Trần Cao Vân, Thái Phiên bị bắt tại một ngôi chùa phía nam Hoàng thành Huế.
2.4. Bị phế truất và lưu đày
Sau khi bị bắt, Duy Tân bị phế truất khỏi ngai vàng. Khâm sứ Charles và Toàn quyền thuyết phục ông trở lại, nhưng ông kiên quyết từ chối trở thành con rối của Pháp, khẳng định: "Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp."
Hoàng Quảng Phu, Thị lang Bộ Binh kiêm Phó sứ Hộ thành binh mã Võ Liêm, và Ngự sử Viện Đô sát Tôn Thất Uyển đã thành lập Hội đồng xét xử theo yêu cầu của Pháp. Bản án quy hết tội cho 4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu và 14 người khác. Vai trò của Vua Duy Tân được giảm nhẹ khi phán rằng "hoàng thượng nhỏ tuổi" bị "xúi giục" và "trộm lấy chiếu văn" "tự phong quan tước" "đòi xa giá ra ngoài". Bốn người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị xử chém tại An Hòa.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 1916, Duy Tân bị lưu đày cùng vua cha Thành Thái đến đảo Réunion ở Ấn Độ Dương, và đến nơi vào ngày 20 tháng 11 cùng năm.
3. Cuộc sống lưu đày và tham gia phong trào độc lập
Cuộc đời lưu đày của Hoàng đế Duy Tân trên đảo Réunion là một hành trình tự học, tự lập và kiên định với lý tưởng độc lập dân tộc, đỉnh điểm là sự tham gia của ông vào Thế chiến II và những thảo luận về việc trở lại Việt Nam.
3.1. Cuộc sống trên đảo Réunion
Vào ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana tại Cap Saint-Jacques (nay là Vũng Tàu). Đến ngày 20 tháng 11, họ cập bến Pointe de Galets trên đảo Réunion lúc 7 giờ 30 sáng. Tại đây, cựu hoàng Duy Tân đã từ chối một biệt thự sang trọng mà người Pháp dành cho, thay vào đó, gia đình ông thuê một căn nhà nhỏ của một người dân ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn nhà đó, ăn mặc và sinh hoạt như bao người dân bình thường khác trên đảo. Để mưu sinh, Duy Tân ghi tên học về vô tuyến điện và sau đó mở tiệm Radio - Laboratoire chuyên bán và sửa chữa máy. Đồng thời, ông cũng thi tú tài tại trường Trung học Leconte de Lisle và học thêm các ngoại ngữ cũng như luật học. Duy Tân ít giao du với người Pháp, chỉ kết bạn với một nhóm nhỏ.


Trong thời gian này, ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và giành chiến thắng trong nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài báo và thơ, đăng trên các tờ báo Le Peuple (Dân chúng) và Le Progrès (Tiến bộ) dưới bút danh Georges Dry. Bài thơ Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) đã giành giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion vào năm 1924. Ngoài ra, Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.

Trong bài Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân đăng trên Revue France-Asie năm 1970, tác giả E.P Thébault, một người bạn thân của Duy Tân, ghi lại rằng: "chỉ một lần - một lần mà thôi - trong bức thư ngày 5 tháng 6 năm 1936 gửi cho Marius Moutet, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp". Trong nhiều bức thư khác gửi cho Chính phủ Pháp từ năm 1936 đến năm 1940 để xin phục vụ trong Quân đội Pháp, ông không hề đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả các đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa ghi trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này): "...parait difficile à acheter, extrêmement indépendant... intrigue pour quitter la Réunion et rétablissement trône d'Annam..." (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).

3.2. Phục vụ trong Thế chiến II

Khi Thế chiến II bùng nổ vào năm 1939, và đặc biệt sau khi Đức Quốc xã chiếm đóng Paris và thành lập Chính phủ Vichy vào năm 1940, Charles de Gaulle đã kêu gọi toàn dân Pháp chống lại Phát xít Đức từ Anh. Sự kiện này đã tác động rất lớn đến tư tưởng và tình cảm của cựu hoàng Duy Tân. Ông coi De Gaulle là thần tượng và hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Mặc dù "nước Pháp Tự do" và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một, Duy Tân vẫn hưởng ứng. Bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực lượng kháng chiến Tự do Pháp. Vụ việc bị bại lộ, ông bị chính quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) giam giữ sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của Tướng Legentilhomme và Đại tá Alain de Boissieu. Duy Tân nhờ Thống đốc La Réunion là A. Capagory (giai đoạn 1942 - 1947) can thiệp để ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của Tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau, ông được thăng lên Chuẩn úy rồi sang châu Âu.
Sau khi Tự do Pháp giải phóng La Réunion vào năm 1942, Duy Tân đã gia nhập Quân đội Pháp và phục vụ trên tàu khu trục lớn Léopard với vai trò nhân viên điện báo không dây, nhận cấp bậc thiếu úy. Ông liên tục được thăng cấp: Trung úy vào năm 1943, Đại úy vào năm 1944, Thiếu tá vào tháng 7 năm 1945 và Trung tá vào tháng 9 năm 1945. Vào ngày 5 tháng 5 năm 1945, Chuẩn úy Duy Tân được lệnh trở về Phòng Quân sự của Tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945, sau khi Đức đã đầu hàng vào ngày 8 tháng 5. Đến ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được chuyển qua phục vụ tại Bộ Tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở vùng Schwarzwald (Forêt Noire), Đức. Duy Tân tin rằng người Pháp sẽ đưa ông trở lại ngai vàng và hai bên sẽ cùng lập một loạt thỏa hiệp được hai chính phủ thông qua.
Ngày 29 tháng 8 năm 1945, trên đài phát thanh Radio-Tananarive, ông kêu gọi đất nước hợp tác với nước Pháp thông qua mối quan hệ hữu nghị với chủ trương một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và tạm thời ủy thác cho Pháp Bộ Ngoại giao và Quốc phòng. Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hóa những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dương của Pháp.
3.3. Thảo luận về việc trở lại Việt Nam
Khi Pháp đang đối mặt với thất bại trước Việt Minh, và chế độ của Hoàng đế Bảo Đại tỏ ra không có khả năng giành được sự ủng hộ của công chúng, Tướng Charles de Gaulle, lãnh đạo Pháp, đã liên hệ với Duy Tân. Vĩnh San vẫn rất được công chúng Việt Nam ngưỡng mộ vì lòng yêu nước của ông, và De Gaulle đã bàn về khả năng ông trở lại Việt Nam với tư cách hoàng đế.
Vào ngày 14 tháng 12 năm 1945, Tướng Charles de Gaulle đã tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh của mình, Tướng de Gaulle ghi:
: "...Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng [Vĩnh San] và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam".
Sử gia Philippe de Villers trong tác phẩm Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 nhận xét:
: "Bảo Đại đã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là ông Bousquet, cựu Chánh Văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard".
Một người bạn thân của Duy Tân là E.P Thébault kể lại trong bài Destin tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân:
: "Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở Khách sạn Louvres, trước Hý viện Pháp. Ngài nói: "Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó [Việt Nam] vào những ngày đầu tháng 3 (1946)". Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bản thỏa ước giữa hai chính phủ nữa".
Trong hồi ký Bên giòng lịch sử 1940-1965, linh mục Cao Văn Luận ghi lại rằng vào mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích:
: "Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên hiệp Pháp. Điều đó không trái với quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại."
Duy Tân cũng từng tâm sự:
: "Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia."
4. Qua đời
Cuộc đời của Hoàng đế Duy Tân kết thúc bi thảm trong một vụ tai nạn máy bay khi ông đang trên đường trở về Việt Nam để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
4.1. Hoàn cảnh qua đời

Vào ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lên chiếc máy bay quân sự Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris, để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thực hiện sứ mệnh mới của mình tại Việt Nam. Lúc 13 giờ 50 phút, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Tuy nhiên, vào khoảng 18 giờ 30 phút theo GMT ngày 26 tháng 12 năm 1945, máy bay của ông đã rơi gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi (lúc bấy giờ thuộc Liên bang Xích đạo Pháp, Oubangui-Chari). Toàn bộ phi hành đoàn, bao gồm một thiếu tá hoa tiêu, hai trung úy phụ tá, hai quân nhân và bốn thường dân đều thiệt mạng. Duy Tân đã qua đời ở tuổi 45.
Trước khi ra đi, Duy Tân dường như đã có linh cảm về một tai nạn sẽ xảy ra với mình. Sau cái chết của ông, những tin đồn cho rằng Việt Minh đã ám sát Duy Tân được lan truyền rộng rãi. Ban đầu, hài cốt của ông được gửi sang Hoa Kỳ để an táng.
4.2. Vinh danh sau khi mất
Khi nhận được tin Duy Tân qua đời, chính phủ Pháp đã truy tặng ông nhiều danh hiệu cao quý để ghi nhận những đóng góp của ông trong chiến tranh. Ông được truy tặng Bắc Đẩu Bội tinh hạng Đại Thập Tự, Huân chương Kháng chiến hạng Sĩ quan, và được phong là Đồng chí của Huân chương Giải phóng. Những danh hiệu này là sự công nhận cho lòng yêu nước và những cống hiến của ông trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít.
5. Di sản và đánh giá
Hoàng đế Duy Tân để lại một di sản sâu sắc trong lịch sử Việt Nam, được đánh giá cao về lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh. Ông được tưởng niệm rộng rãi qua nhiều hoạt động và công trình công cộng.
5.1. Hồi hương và an táng lại
Vào năm 1987, con trai ông là Hoàng tử Bảo Vàng cùng với gia đình hoàng tộc Việt Nam đã đưa hài cốt của Duy Tân từ M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi, về Việt Nam. Trước khi về nước, vào ngày 28 tháng 3 năm 1987, một buổi lễ cầu siêu theo nghi thức Phật giáo đã được tổ chức tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes ở Paris, với sự tham dự của Thủ tướng Pháp Jacques Chirac, cựu Tổng Thư ký Madagascar Jacques Foccart, Nguyên soái Jean Simon, Chủ tịch Hội Tự do Pháp, và Đại sứ Việt Nam tại Pháp Trần Cán Khang.
Sau đó, vào ngày 4 tháng 4 năm 1987, hài cốt của ông được đưa về Huế và an táng lại tại An Lăng, bên cạnh lăng mộ của ông nội ông là Hoàng đế Dục Đức, theo nghi thức truyền thống.
5.2. Kỷ niệm và ảnh hưởng
Di sản của Duy Tân được ghi nhận và kỷ niệm sâu sắc tại Việt Nam và cả ở nước ngoài. Hầu hết các thành phố lớn tại Việt Nam đều có đường phố mang tên ông.
- Tại Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa, con đường Garcerie cũ thời Pháp thuộc đã được đổi tên thành đường Duy Tân. Đây là con đường thơ mộng với hai hàng cây lớn, chạy ngang qua Trường Đại học Kiến trúc và Đại học Luật khoa, được nhắc đến trong bản nhạc "Trả lại em yêu" của Phạm Duy. Tuy nhiên, vào năm 1985, đường Duy Tân này bị đổi tên thành đường Phạm Ngọc Thạch.
- Vào ngày 5 tháng 12 năm 1992, tại thành phố Saint-Denis (đảo Réunion), một đại lộ và một cây cầu mang tên ông: Đại lộ và Cầu Vĩnh San đã được khánh thành.
- Ở Việt Nam, vào năm 2010, phố Duy Tân được đặt tên tại phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
- Năm 2013, tại thành phố Móng Cái, tên ông được đặt cho phố kéo dài từ phố Hàm Nghi đến đường Đoan Tĩnh.
- Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, tên ông được đặt cho con đường kéo dài từ đường Trần Hưng Đạo đến đường Phạm Văn Đồng ở phường Nam Lý.
- Tại Đà Nẵng, đường Duy Tân nối từ Ngã tư Quân đoàn đến đường Nguyễn Văn Linh, đi qua Quân khu 5, Sân bay Quốc tế Đà Nẵng. Ngoài ra, tại Đà Nẵng còn có Trường Đại học Duy Tân, một trường đại học tư thục được đặt theo tên ông.
Trong năm 2001, con trai ông, Hoàng tử Bảo Vàng, đã viết cuốn sách Duy Tân, Empereur d'Annam 1900-1945 kể về cuộc đời của cha mình. Duy Tân được nhìn nhận là một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng lớn, một vị vua yêu nước, luôn tìm cách giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp.
5.3. Giai thoại và triết lý
Những giai thoại về Hoàng đế Duy Tân không chỉ làm phong phú thêm cuộc đời ông mà còn giúp người đọc hiểu rõ hơn về tính cách và tư tưởng yêu nước, kiên cường của một vị vua trẻ tuổi.
Một lần, khi nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên, tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi:
: "Khi tay dơ thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?"
Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp:
: "Nước dơ thì phải lấy máu mà rửa, hiểu không?"
Câu nói này của ông thể hiện một ý chí mạnh mẽ, sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, một tư tưởng cách mạng hiếm thấy ở một vị vua trẻ.
Một lần khác, vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu cùng Thượng thư Nguyễn Hữu Bài. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đế trẻ bèn ra câu đối:
: "Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần."
Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đối lại:
: "Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó."
Nghe đồn Duy Tân đã phê bình Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng. Nhà vua còn bảo:
: "Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa!"
Giai thoại này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa tinh thần chiến đấu của Duy Tân với thái độ buông xuôi của một bộ phận quan lại triều Nguyễn trước vận mệnh đất nước. Triết lý của ông luôn hướng về sự chủ động, ý chí kiên cường và lòng dũng cảm vượt qua mọi gian khó.
6. Gia đình
Hoàng đế Duy Tân có nhiều mối quan hệ gia đình, cả trong và ngoài giá thú, trong thời gian trị vì và lưu đày.
6.1. Vợ
Tên | Sinh - Mất | Ghi chú |
---|---|---|
Diệu phi Mai Thị Vàng (妙妃枚氏鐄Chinese) | 1899 - 1980 | Kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916; khi đi lưu đày bà mang thai 3 tháng nhưng bị sẩy thai. Sau 2 năm, bà Mai Thị Vàng xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu khắc nghiệt ở đó. Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn ly dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Vàng đi lấy chồng khác, lúc này bà 27 tuổi. Tuy nhiên, bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời và thường ngâm những câu thơ thể hiện tấm lòng son sắt của mình: |
Bà Marie Anne Viale | 1890 - ? | Vợ ngoài giá thú tại La Réunion |
Bà Fernande Antier | 1913 - ? | Kết hôn năm 1928, vợ ngoài giá thú tại La Réunion |
Bà Ernestine Yvette Maillot | 1924 - ? | Vợ ngoài giá thú tại La Réunion |
6.2. Con cái
Trong thời gian ở La Réunion, Duy Tân có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn. Những người con của ông với các bà vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ và được rửa tội theo lễ nghi Công giáo. Một tài liệu cho biết các con ông đều không nói được tiếng Việt và có ít quan hệ với cựu hoàng Thành Thái. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm 1946, tòa án thành phố Saint-Denis đồng ý cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ của mình, trong khi 5 người con khác là Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đã đổi thành Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San v.v...
Giới tính | Tên khai sinh (tên tiếng Việt) | Tên Pháp / Tên đã đổi | Sinh - Mất | Mẹ | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|
Nam | Armand Viale | 1919 - ? | Marie Anne Viale | Giữ họ mẹ | |
Nam | Nguyễn Phúc Bảo Ngọc | Guy Georges Vĩnh San | 1933 - ? | Fernande Antier | Có bốn người con: Patrick Vĩnh San, Chantal Vĩnh San, Annick Vĩnh San và Pascale Vĩnh San. Ông thường xuyên tham gia các hoạt động và nghi lễ của nhà Nguyễn cùng với vợ là bà Monique. |
Nam | Nguyễn Phúc Bảo Vàng | Yves Claude Vĩnh San | 1934 - ? | Fernande Antier | Sinh tại Saint-Denis, đảo Réunion. Kết hôn với Jessy Tarby và có mười người con (7 trai, 3 gái): Yves Vĩnh San, Patrick Vĩnh San, Johnny Vĩnh San, Jerry Vĩnh San, Thierry Vĩnh San, Stéphanie Vĩnh San, Cyril Vĩnh San, Didier Vĩnh San, Marie-Claude Vĩnh San, Marilyn Vĩnh San và Doris Vĩnh San. Năm 1987, ông đã dẫn đầu việc đưa di hài vua cha về Việt Nam để an táng tại lăng Dục Đức. Cùng với Hoàng tử Bảo Thắng, ông là lãnh đạo của Đại Nam Long tinh Viện, một tổ chức hoàng gia không liên quan đến chính trị, tập trung vào các hoạt động nhân đạo, giáo dục và văn hóa cho người Việt Nam. |
Nam | Nguyễn Phúc Bảo Quý | Joseph Roger Vĩnh San | 1938 - ? | Fernande Antier | Hiện đang sống cùng vợ là bà Lebreton Marguerite tại Nha Trang, Khánh Hòa. |
Nam | André | 1940 - (mất sớm) | Fernande Antier | ||
Nữ | Thérèse Vinh-San | Thérèse | 1928 - (mất sớm) | Fernande Antier | |
Nữ | Rita Suzy Georgette Vinh-San | Rita Suzy Georgette Vinh-San | 1929 - ? | Fernande Antier | Sau năm 1946, bà sử dụng họ Vĩnh San. |
Nữ | Solange | Solange | 1930 - (mất sớm) | Fernande Antier | |
Nữ | Ginette | Ginette | 1940 - (mất sớm) | Fernande Antier | |
Nữ | Andrée Maillot Vinh-San | Andrée Maillot Vinh-San | 1945 - 2011 | Ernestine Yvette Maillot |