1. Tổng quan
Arnold Taylor (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1945 - mất ngày 22 tháng 11 năm 1981) là một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp người Nam Phi. Ông nổi tiếng khi giữ các đai vô địch hạng gà WBA và Lineal vào năm 1973. Sự nghiệp của ông được định hình trong bối cảnh phức tạp của chế độ apartheid ở Nam Phi.
Taylor đã có một sự nghiệp lừng lẫy với thành tích tổng cộng 40 trận thắng (17 trận thắng bằng knockout), 8 trận thua, 1 trận hòa và 1 trận không tính kết quả. Trận đấu đáng nhớ nhất của ông là trận giành đai vô địch thế giới với Romeo Anaya và trận bảo vệ đai duy nhất với võ sĩ người Hàn Quốc Hong Soo-hwan, nơi ông đã để mất danh hiệu của mình. Ông qua đời vào năm 1981 do một tai nạn giao thông.
2. Cuộc đời và bối cảnh
Arnold Taylor sinh ngày 15 tháng 7 năm 1945, là con trai của Muriel và Joe Taylor. Ông là người da trắng Nam Phi và sống trong thời kỳ chế độ apartheid.
Trước khi theo đuổi sự nghiệp quyền Anh chuyên nghiệp, Taylor đã là một thợ làm bánh kẹo lành nghề. Ông thường làm việc tại một tiệm bánh địa phương ở Johannesburg vào ban ngày, sau đó dành buổi tối để tập luyện quyền Anh.
3. Sự nghiệp quyền Anh chuyên nghiệp
Sự nghiệp quyền Anh chuyên nghiệp của Arnold Taylor kéo dài từ năm 1967 đến 1976, với nhiều trận đấu đáng chú ý, từ việc giành các danh hiệu trong nước cho đến đỉnh cao là chức vô địch thế giới.
3.1. Trận đấu đầu tiên và các danh hiệu trong nước
Arnold Taylor ra mắt sàn đấu chuyên nghiệp vào ngày 20 tháng 5 năm 1967, trong trận đấu với Ray Buttle tại Transvaal, kết thúc với tỷ số hòa sau sáu hiệp. Ba trận đấu đầu tiên trong sự nghiệp của ông đều là với Buttle. Taylor đã giành được danh hiệu hạng gà Transvaal trong trận đấu thứ hai của mình, diễn ra vào ngày 30 tháng 6 cùng năm tại Johannesburg, với chiến thắng knockout ở hiệp thứ chín. Vào ngày 11 tháng 12, ông tiếp tục đánh bại Buttle bằng điểm số sau tám hiệp trong một trận đấu không tranh đai cũng tại Johannesburg.
Vào ngày 19 tháng 2 năm 1968, chỉ trong trận đấu thứ tư của mình, Taylor đã giành được danh hiệu hạng gà Nam Phi, đánh bại Andries Steyn bằng quyết định trọng tài sau mười hai hiệp. Sau hai chiến thắng không tranh đai, ông đã mất danh hiệu này và cũng là thất bại đầu tiên trong sự nghiệp khi bị Dennis Adams hạ knockout ở hiệp đầu tiên vào ngày 1 tháng 7 cùng năm.
Sau thất bại đó, Taylor đã có một chuỗi tám trận thắng liên tiếp, bao gồm ba trận với Herby Clark (một trận thắng knockout, một trận thắng bằng truất quyền thi đấu ở hiệp sáu và một trận thắng bằng điểm số), và các chiến thắng khác trước Edward Mbongwa (vào ngày 7 tháng 9 năm 1968, trận đấu quốc tế đầu tiên của ông tại Swaziland) và Anthony Morodi ở Lesotho. Chiến thắng thứ ba của ông trước Clark, một trận thắng bằng điểm số sau mười hai hiệp vào ngày 12 tháng 5 năm 1969, đã mang về cho ông danh hiệu hạng nhẹ Nam Phi, mặc dù ông nặng hơn khoảng 6.8 kg so với hạng cân tự nhiên của mình.
Tiếp theo là trận tái đấu với Adams. Taylor đã giảm cân để thi đấu với Adams cho danh hiệu hạng lông Nam Phi. Ông đã phục thù thất bại đầu tiên của mình và giành danh hiệu khu vực thứ ba bằng cách hạ knockout Adams ở hiệp tám, chính xác mười hai ngày sau khi giành danh hiệu hạng nhẹ. Ông quyết định bỏ trống danh hiệu hạng lông để tập trung bảo vệ danh hiệu hạng nhẹ, nhưng ông đã mất danh hiệu đó trong lần bảo vệ đầu tiên khi tái đấu với Steyn vào ngày 4 tháng 7 năm 1969, cũng bằng knockout ở hiệp tám.
Sau hai chiến thắng và một thất bại, ông đã đấu với anh trai của Ray Buttle, Mike Buttle, trong một trận tái đấu tranh danh hiệu hạng gà Nam Phi vào ngày 6 tháng 12. Trước đó, ông đã đánh bại Mike Buttle bằng knockout ở hiệp năm ba tuần trước đó. Trận tái đấu kéo dài thêm một hiệp, khi Taylor giành lại danh hiệu bằng một trận knockout ở hiệp sáu.
Taylor bắt đầu thập niên 1970 với việc nâng cấp chất lượng đối thủ, khi ông đấu với cựu vô địch thế giới hạng gà Johnny Famechon của Úc vào ngày 11 tháng 4 năm 1970 tại Johannesburg. Trong trận đấu đầu tiên của mình với một cựu hoặc tương lai vô địch thế giới, Taylor đã thua bằng điểm số sau mười hiệp. Trong trận đấu tiếp theo, ông lại đối mặt với Ray Buttle, lần này giành chiến thắng một lần nữa bằng knockout ở hiệp chín, vào ngày 15 tháng 8, để giành lại danh hiệu hạng lông Nam Phi. Điều này bắt đầu một chuỗi mười chín chiến thắng liên tiếp, bao gồm năm trận đấu ở Úc (nơi ông sống trong nửa đầu năm 1971) và một trận ở Zimbabwe. Sau khi đạt mười sáu trận thắng liên tiếp, ông đã có cơ hội tranh đai vô địch thế giới đầu tiên trong sự nghiệp.
3.2. Giai đoạn vô địch thế giới
Vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, Taylor đã đối mặt với nhà vô địch thế giới hạng gà Lineal và WBA, Romeo Anaya của México, trong một trận đấu do Stanley Christodoulou làm trọng tài. Trận đấu này được nhiều người coi là một trong những trận đấu kinh điển của quyền Anh, với một nhà báo thể thao Nam Phi gọi đó là "trận đấu đẫm máu nhất trong lịch sử quyền Anh Nam Phi". Taylor đã bị cắt ở mặt và bị đánh ngã một lần ở hiệp năm và ba lần ở hiệp tám (WBA từ đó đã áp dụng quy tắc một võ sĩ tự động bị coi là thua knockout nếu bị đánh ngã ba lần trong cùng một hiệp).
Tuy nhiên, Taylor cũng đã làm đối thủ chảy máu, và ở hiệp mười bốn, ông đã tung một cú đấm tay phải vào hàm của Anaya, khiến anh ta ngã xuống sàn. Cảm thấy đây là khoảnh khắc để trở thành nhà vô địch thế giới, Taylor đã hét lên với các huấn luyện viên của mình: "Hắn đã đi rồi!" từ một góc trung lập. Anaya mất hai phút để đứng dậy, và Taylor đã giành được vương miện hạng gà thế giới.
Sau hai chiến thắng không tranh đai (bao gồm một trận đấu với Paul Ferreri, đối thủ tương lai của Carlos Zárate), Taylor đã bảo vệ danh hiệu của mình duy nhất một lần, chống lại Hong Soo-hwan, vào ngày 3 tháng 7 năm 1974, cũng tại Durban. Trong một trận đấu cũng được nhiều người coi là một trận kinh điển khác của quyền Anh, Taylor một lần nữa bị đánh ngã bốn lần. Ông bị đánh ngã ba lần ngay đầu trận đấu, và ông đã tạo ra một cuộc phản công từ hiệp mười đến hiệp mười lăm, liên tục dồn đối thủ vào các góc và dây đài, nhưng ông đã bị đánh ngã lần thứ tư ở hiệp mười bốn, và cuối cùng mất danh hiệu bằng một quyết định trọng tài đồng thuận sau mười lăm hiệp.
3.3. Giải nghệ và sự nghiệp sau này
Phần còn lại của sự nghiệp quyền Anh của Arnold Taylor không còn nổi bật. Ông đã giành bốn chiến thắng liên tiếp, nhưng sau khi thua hai trận liên tiếp, ông quyết định giải nghệ. Hai trong số sáu trận đấu cuối cùng của ông đáng chú ý là trận tái đấu với Romeo Anaya, người mà ông đã đánh bại một lần nữa bằng knockout ở hiệp tám tại Johannesburg vào ngày 27 tháng 6 năm 1975, và trận đấu cuối cùng của ông, khi ông bị Vernon Sollas hạ knockout ở hiệp tám vào ngày 24 tháng 11 năm 1976. Hai trận đấu cuối cùng của ông diễn ra lần lượt ở Na Uy và Anh.
4. Cái chết
Arnold Taylor qua đời vào ngày 22 tháng 11 năm 1981. Khi đang lái chiếc Xe máy thuộc sở hữu của con gái lớn Charmaine, ông đã gặp phải một vụ tai nạn, bị đâm và qua đời tại hiện trường.
5. Hồ sơ quyền Anh chuyên nghiệp
Tổng kết hồ sơ quyền Anh chuyên nghiệp của Arnold Taylor:
Số trận | Kết quả | Thành tích | Đối thủ | Kiểu | Hiệp | Ngày | Địa điểm | Ghi chú |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
50 | ||||||||
40-8-1 (1) | Vernon Sollas | RTD | 8 (10) | 24 Thg 11 1976 | Anglo-American Sporting Club, Mayfair, Luân Đôn, Anh | |||
49 | ||||||||
40-7-1 (1) | Svein Erik Paulsen | PTS | 10 | 21 Thg 10 1976 | Messehallen, Oslo, Na Uy | |||
48 | ||||||||
40-6-1 (1) | Dave Needham | PTS | 10 | 8 Thg 5 1976 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
47 | ||||||||
39-6-1 (1) | Romeo Anaya | KO | 8 (10) | 27 Thg 6 1975 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
46 | ||||||||
38-6-1 (1) | Lothar Abend | RTD | 3 (10) | 5 Thg 5 1975 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
45 | ||||||||
37-6-1 (1) | John Mitchell | TKO | 4 (10) | 22 Thg 2 1975 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
44 | ||||||||
36-6-1 (1) | Hong Soo-hwan | UD | 15 | 3 Thg 7 1974 | West Ridge Tennis Stadium, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | Mất đai vô địch hạng gà WBA và The Ring | ||
43 | ||||||||
36-5-1 (1) | Lorenzo Trujillo | PTS | 10 | 31 Thg 5 1974 | Showgrounds Hall, Port Elizabeth, Eastern Cape, Nam Phi | |||
42 | ||||||||
36-4-1 (1) | Paul Ferreri | PTS | 10 | 18 Thg 3 1974 | Goodwood Showgrounds, Cape Town, Western Cape, Nam Phi | |||
41 | ||||||||
35-4-1 (1) | Guy Caudron | PTS | 10 | 16 Thg 2 1974 | Rand Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
40 | ||||||||
34-4-1 (1) | Romeo Anaya | KO | 14 (15) | 3 Thg 11 1973 | Rand Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giành đai vô địch hạng gà WBA và The Ring | ||
39 | ||||||||
33-4-1 (1) | Billy Waith | PTS | 10 | 16 Thg 6 1973 | Portuguese Hall, Turffontein, Gauteng, Nam Phi | |||
38 | ||||||||
32-4-1 (1) | Jimmy Bell | PTS | 10 | 28 Thg 4 1973 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
37 | ||||||||
31-4-1 (1) | Evan Armstrong | KO | 4 (10) | 28 Thg 10 1972 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
36 | ||||||||
30-4-1 (1) | Hansie van Rooyen | KO | 6 (10) | 13 Thg 5 1972 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
35 | ||||||||
29-4-1 (1) | Hansie van Rooyen | PTS | 12 | 27 Thg 3 1972 | Wembley Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giữ đai vô địch hạng lông Nam Phi | ||
34 | ||||||||
28-4-1 (1) | Ugo Poli | KO | 4 (10) | 29 Thg 1 1972 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
33 | ||||||||
27-4-1 (1) | Chris Nel | RTD | 7 (10) | 27 Thg 11 1971 | Glamis Stadium, Harare (Salisbury), Rhodesia | |||
32 | ||||||||
26-4-1 (1) | Luis Aisa | PTS | 10 | 30 Thg 10 1971 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
31 | ||||||||
25-4-1 (1) | Alberto Jangalay | PTS | 10 | 30 Thg 8 1971 | Festival Hall, Melbourne, Victoria, Úc | |||
30 | ||||||||
24-4-1 (1) | Memo Espinosa | PTS | 10 | 3 Thg 8 1971 | Festival Hall, Melbourne, Victoria, Úc | |||
29 | ||||||||
23-4-1 (1) | Turori George | PTS | 10 | 14 Thg 6 1971 | Festival Hall, Melbourne, Victoria, Úc | |||
28 | ||||||||
22-4-1 (1) | Willie Cordova | PTS | 10 | 17 Thg 5 1971 | Festival Hall, Melbourne, Victoria, Úc | |||
27 | ||||||||
21-4-1 (1) | Willie Cordova | PTS | 10 | 3 Thg 5 1971 | Festival Hall, Melbourne, Victoria, Úc | |||
26 | ||||||||
20-4-1 (1) | Chris Nel | TKO | 10 (10) | 29 Thg 12 1970 | Amphitheatre, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | |||
25 | ||||||||
19-4-1 (1) | Chris Nel | RTD | 7 (8) | 21 Thg 9 1970 | City Hall, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | |||
24 | ||||||||
18-4-1 (1) | Ray Buttle | TKO | 8 (12) | 15 Thg 8 1970 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giữ đai vô địch hạng lông Nam Phi | ||
23 | ||||||||
17-4-1 (1) | Johnny Famechon | PTS | 10 | 11 Thg 4 1970 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
22 | ||||||||
17-3-1 (1) | Mike Buttle | TKO | 6 (12) | 6 Thg 12 1969 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giành đai vô địch hạng gà Nam Phi | ||
21 | ||||||||
16-3-1 (1) | Mike Buttle | TKO | 5 (8) | 15 Thg 11 1969 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
20 | ||||||||
15-3-1 (1) | John O'Brien | PTS | 10 | 30 Thg 8 1969 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
19 | ||||||||
15-2-1 (1) | Andries Steyn | RTD | 8 (12) | 4 Thg 7 1969 | Allan Ford Stadium, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | Tranh đai vô địch hạng nhẹ Nam Phi | ||
18 | ||||||||
15-1-1 (1) | Dennis Adams | RTD | 8 (12) | 24 Thg 5 1969 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giữ đai vô địch hạng lông Nam Phi | ||
17 | ||||||||
14-1-1 (1) | Herby Clarke | PTS | 12 | 12 Thg 5 1969 | City Hall, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | Giành đai vô địch hạng nhẹ Nam Phi đang bỏ trống | ||
16 | ||||||||
13-1-1 (1) | Herby Clarke | DQ | 6 (10) | 11 Thg 4 1969 | City Hall, Durban, KwaZulu-Natal, Nam Phi | Clarke bị truất quyền thi đấu vì cắn | ||
15 | ||||||||
12-1-1 (1) | Henri Nesi | PTS | 10 | 15 Thg 2 1969 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
14 | ||||||||
11-1-1 (1) | Colin Lake | DQ | 3 (10) | 2 Thg 11 1968 | Ellis Park Tennis Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
13 | ||||||||
10-1-1 (1) | Robert Trott | TKO | 3 (6) | 7 Thg 10 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
12 | ||||||||
9-1-1 (1) | Anthony Morodi | PTS | 6 | 5 Thg 10 1968 | Lesotho National Stadium, Maseru, Lesotho | |||
11 | ||||||||
8-1-1 (1) | Edwin Mbongwe | PTS | 6 | 7 Thg 9 1968 | Swaziland National Stadium, Mbabane, Swaziland | |||
10 | ||||||||
7-1-1 (1) | Robert Trott | PTS | 8 | 26 Thg 8 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
9 | ||||||||
6-1-1 (1) | Herby Clarke | TKO | 9 (10) | 12 Thg 8 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
8 | ||||||||
5-1-1 (1) | Dennis Adams | KO | 1 (12) | 18 Thg 6 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Tranh đai vô địch hạng gà Nam Phi | ||
7 | ||||||||
5-0-1 (1) | Gerry Joey McBride | PTS | 10 | 3 Thg 6 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
6 | ||||||||
4-0-1 (1) | Bobby Davies | PTS | 10 | 29 Thg 4 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
5 | ||||||||
3-0-1 (1) | Andries Steyn | PTS | 12 | 19 Thg 2 1968 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giành đai vô địch hạng lông Nam Phi | ||
4 | ||||||||
2-0-1 (1) | Ray Buttle | PTS | 8 | 11 Thg 12 1967 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |||
3 | Không quyết định | 1-0-1 (1) | Robert Trott | ND | 4 | 25 Thg 11 1967 | Ellis Park Rugby Stadium, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | |
2 | ||||||||
1-0-1 | Ray Buttle | TKO | 9 (10) | 30 Thg 6 1967 | City Hall, Johannesburg, Gauteng, Nam Phi | Giành đai vô địch hạng gà 'da trắng' Transvaal của Nam Phi đang bỏ trống | ||
1 | ||||||||
0-0-1 | Ray Buttle | PTS | 6 | 20 Thg 5 1967 | Piet Potgieter High School Grounds, Mokopane, North-West, Nam Phi | |||
6. Di sản và đánh giá
Arnold Taylor được nhớ đến là một trong những võ sĩ quyền Anh nổi bật của Nam Phi, đặc biệt với tinh thần chiến đấu kiên cường và khả năng phục hồi sau những cú đánh nặng. Trận đấu của ông với Romeo Anaya để giành chức vô địch hạng gà thế giới vào năm 1973 là một cột mốc lịch sử, được mệnh danh là "trận đấu đẫm máu nhất trong lịch sử quyền Anh Nam Phi", cho thấy sự bền bỉ và ý chí của Taylor khi ông đã bị đánh ngã nhiều lần nhưng vẫn vươn lên giành chiến thắng.
Trận bảo vệ đai duy nhất của ông với Hong Soo-hwan vào năm 1974 cũng là một trận đấu kinh điển, nơi Taylor một lần nữa thể hiện khả năng phục hồi đáng kinh ngạc sau khi bị đánh ngã nhiều lần, mặc dù cuối cùng ông đã để mất danh hiệu. Những trận đấu này không chỉ là những màn trình diễn quyền Anh đỉnh cao mà còn thể hiện tinh thần không khuất phục của ông. Mặc dù sự nghiệp sau khi mất đai không còn rực rỡ, nhưng những thành tựu của ông, đặc biệt là việc giành đai vô địch thế giới trong bối cảnh chế độ apartheid, đã củng cố vị thế của ông trong lịch sử quyền Anh Nam Phi.