1. Thời thơ ấu và sự nghiệp cầu thủ trẻ
Botía sinh ra tại Alquerías, thuộc Vùng Murcia, Tây Ban Nha. Khi mới 8 tuổi, anh bắt đầu chơi bóng cho câu lạc bộ CD Beniel, sau đó nhanh chóng chuyển đến đội bóng láng giềng Real Murcia và gắn bó tại đó trong ba năm. Năm 2003, anh gia nhập lò đào tạo trẻ La Masia của FC Barcelona, nơi anh trải qua ba mùa giải trước khi được đôn lên đội B vào năm 2006.
2. Sự nghiệp câu lạc bộ
Alberto Botía đã có một hành trình sự nghiệp đa dạng, bắt đầu từ lò đào tạo danh tiếng của Barcelona và trải qua nhiều câu lạc bộ ở Tây Ban Nha, Hy Lạp và Ả Rập Xê Út.
2.1. FC Barcelona
Từ năm 2006 đến 2009, Botía là trụ cột ở hàng phòng ngự của Barcelona B, ra sân tổng cộng 59 trận và ghi 3 bàn thắng. Cuối tháng 5 năm 2009, Botía cùng với một cầu thủ trẻ khác là Marc Muniesa lần đầu tiên được triệu tập vào đội một cho trận đấu tại UEFA Champions League gặp Manchester United. Anh có trận ra mắt chính thức vào ngày 30 tháng 5 năm 2009, vào sân từ băng ghế dự bị thay cho Gerard Piqué trong hiệp hai của trận đấu cuối cùng của mùa giải 2008-09, một trận hòa 1-1 trên sân khách trước Deportivo de La Coruña.
2.2. Sporting de Gijón
Vào ngày 14 tháng 7 năm 2009, Botía được cho mượn đến câu lạc bộ cùng giải đấu La Liga là Sporting de Gijón trong một mùa giải. Anh nhanh chóng trở thành cầu thủ đá chính thường xuyên trong năm đầu tiên ở giải đấu hàng đầu, và quyết định tiếp tục gắn bó với câu lạc bộ vùng Asturias bằng một hợp đồng bốn năm vào ngày 18 tháng 6 năm 2010. FC Barcelona vẫn giữ điều khoản mua lại trong ba năm đầu của hợp đồng.
Botía ghi bàn thắng đầu tiên tại giải đấu hàng đầu vào ngày 12 tháng 9 năm 2010, mở tỷ số trong chiến thắng 2-0 trên sân nhà trước RCD Mallorca. Vào ngày 14 tháng 11 cùng năm, anh bị truất quyền thi đấu ở phút cuối trận thua 1-0 trước Real Madrid tại Sân vận động El Molinón vì phạm lỗi với Cristiano Ronaldo. Tổng cộng, anh đã có 88 lần ra sân và ghi 2 bàn thắng tại La Liga cho Sporting de Gijón trong ba mùa giải.
2.3. Sevilla và Elche
Sau khi Sporting de Gijón xuống hạng vào cuối mùa giải 2011-12, Botía đã ký hợp đồng với Sevilla vào ngày 8 tháng 8 năm 2012, với mức phí chuyển nhượng được cho là vào khoảng 3.00 M EUR. Anh ra mắt chính thức cho đội bóng mới 18 ngày sau đó, chơi hiệp hai trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Granada. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2013, Botía đã đưa đội khách vượt lên dẫn trước trên sân của câu lạc bộ cũ FC Barcelona, nhưng sau đó Sevilla đã thua ngược 1-2.
Trong mùa giải 2013-14, sau 25 lần ra sân chính thức cho đội bóng Andalucía, anh được cho mượn đến Elche cùng với các đồng đội Manu del Moral và Miroslav Stevanović. Thời gian của Botía tại Sân vận động Manuel Martínez Valero kết thúc sớm vào ngày 3 tháng 5 năm 2014, khi anh bị truất quyền thi đấu vì sút bóng vào một cầu thủ của Málaga trong trận thua 0-1 trên sân nhà, và sau đó đã đối đầu với trọng tài, khiến anh bị cấm thi đấu hai trận.
2.4. Olympiacos
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2014, Botía chuyển đến câu lạc bộ Hy Lạp Olympiacos với hợp đồng bốn năm, trị giá 2.00 M EUR. Anh đã đóng góp 26 lần ra sân trên mọi đấu trường trong mùa giải đầu tiên 2014-15, giúp câu lạc bộ giành được cú đúp danh hiệu quốc nội.
Botía cũng thường xuyên được ra sân trong mùa giải 2015-16, dưới thời huấn luyện viên mới Marco Silva. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2015, anh ghi cả hai bàn thắng cho đội mình trong chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Atromitos, trở thành hậu vệ đầu tiên của câu lạc bộ đạt được thành tích này kể từ Avraam Papadopoulos hai năm trước đó.
Vào ngày 6 tháng 11 năm 2016, Botía đã ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 3-0 trên sân nhà trước Panathinaikos trong trận Derby của những kẻ thù vĩnh cửu. Hợp đồng của anh với câu lạc bộ được chấm dứt theo thỏa thuận chung vào ngày 4 tháng 5 năm 2018.
2.5. Ả Rập Xê Út
Botía trở thành bản hợp đồng đầu tiên của huấn luyện viên mới Jorge Jesus cho câu lạc bộ Al Hilal của Ả Rập Xê Út vào ngày 26 tháng 6 năm 2018, khi cầu thủ 29 tuổi đồng ý một hợp đồng hai năm với tùy chọn gia hạn thêm một mùa. Trong trận ra mắt của anh vào ngày 18 tháng 8 năm 2018, câu lạc bộ đã giành Siêu cúp Ả Rập Xê Út với chiến thắng 2-1 trước Al Ittihad tại Loftus Road, Luân Đôn.
Sau khi đội bóng ở Riyadh kết thúc ở vị trí á quân sau Al Nassr, Botía rời Al Hilal để gia nhập Al Wehda, một câu lạc bộ khác cũng thuộc Saudi Pro League. Anh ghi bàn thắng gỡ hòa trong trận ra mắt của mình, một trận thua 1-2 trên sân nhà trước Abha Club vào ngày 30 tháng 8 năm 2019.
2.6. Trở lại Hy Lạp
Vào tháng 7 năm 2023, ở tuổi 34, Botía trở lại giải đấu hàng đầu Hy Lạp với câu lạc bộ A.E. Kifisia.
3. Sự nghiệp quốc tế

Vào ngày 7 tháng 2 năm 2007, Botía được triệu tập vào đội tuyển U-19 Tây Ban Nha, nhưng không được sử dụng trong giải đấu "Cúp Đại Tây Dương Quốc tế XXXIII". Gần đúng hai năm sau, anh lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển U-21, cho trận đấu giao hữu với Na Uy. Anh đã giành chức vô địch Giải vô địch bóng đá U-21 Châu Âu năm 2011 cùng đội tuyển Tây Ban Nha.
Với đội tuyển U-20 Tây Ban Nha, Botía đã giành được Huy chương Vàng tại Đại hội Thể thao Địa Trung Hải năm 2009.
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2011, Botía lần đầu tiên được huấn luyện viên Vicente del Bosque lựa chọn vào đội tuyển quốc gia cho các trận đấu với Chile và Liechtenstein. Anh cũng được đưa vào đội hình của Luis Milla cho đội U-23 tại Thế vận hội Mùa hè 2012, ra sân trong hai trận đấu cuối cùng gặp Honduras và Maroc khi đội bị loại mà không ghi được bàn thắng nào.
4. Đời tư
Vào năm 2017, Botía bắt đầu mối quan hệ với Eleni Foureira, một ca sĩ đã đại diện cho Síp tại Eurovision Song Contest 2018. Con trai của họ chào đời vào năm 2023.
5. Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch quốc gia | Cúp quốc gia | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | ||
Barcelona B | 2006-07 | Segunda División B | 15 | 0 | - | - | - | 15 | 0 | |||
2007-08 | Tercera División | 17 | 1 | - | - | - | 17 | 1 | ||||
2008-09 | Segunda División B | 27 | 2 | - | - | - | 27 | 2 | ||||
Tổng cộng | 59 | 3 | - | - | - | 59 | 3 | |||||
Barcelona | 2008-09 | La Liga | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | 1 | 0 | |
Sporting Gijón | 2009-10 | La Liga | 26 | 0 | 1 | 0 | - | - | 27 | 0 | ||
2010-11 | La Liga | 28 | 1 | 1 | 0 | - | - | 29 | 1 | |||
2011-12 | La Liga | 34 | 1 | 2 | 0 | - | - | 36 | 1 | |||
Tổng cộng | 88 | 2 | 4 | 0 | - | - | 92 | 2 | ||||
Sevilla | 2012-13 | La Liga | 18 | 1 | 7 | 1 | - | - | 25 | 2 | ||
Elche | 2013-14 | La Liga | 33 | 0 | 2 | 0 | - | - | 35 | 0 | ||
Olympiacos | 2014-15 | Super League Greece | 17 | 1 | 3 | 0 | 6 | 1 | - | 26 | 2 | |
2015-16 | Super League Greece | 17 | 4 | 5 | 0 | 5 | 0 | - | 27 | 4 | ||
2016-17 | Super League Greece | 20 | 2 | 4 | 0 | 12 | 0 | - | 36 | 2 | ||
2017-18 | Super League Greece | 13 | 1 | 2 | 1 | 3 | 0 | - | 18 | 2 | ||
Tổng cộng | 67 | 8 | 14 | 1 | 26 | 1 | - | 107 | 10 | |||
Al Hilal | 2018-19 | Saudi Pro League | 26 | 2 | 2 | 0 | - | 6 | 0 | 34 | 2 | |
Al Wehda | 2019-20 | Saudi Pro League | 24 | 1 | 1 | 0 | - | - | 25 | 1 | ||
2020-21 | Saudi Pro League | 19 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | - | 20 | 0 | ||
2021-22 | Saudi First Division League | 0 | 0 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | |||
2022-23 | Saudi Pro League | 7 | 1 | 0 | 0 | - | - | 7 | 1 | |||
Tổng cộng | 50 | 2 | 2 | 0 | 0 | 0 | - | 52 | 2 | |||
A.E. Kifisia | 2023-24 | Super League Greece | 13 | 1 | 1 | 0 | - | - | 14 | 1 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 355 | 19 | 32 | 2 | 26 | 1 | 6 | 0 | 419 | 22 |
6. Danh hiệu
6.1. Danh hiệu cấp câu lạc bộ
- Barcelona
- La Liga: 2008-09
- Copa del Rey: 2008-09
- UEFA Champions League: 2008-09
- Olympiacos
- Super League Greece: 2014-15, 2015-16, 2016-17
- Greek Football Cup: 2014-15; Á quân: 2015-16
- Al Hilal
- Siêu cúp bóng đá Ả Rập Xê Út: 2018
6.2. Danh hiệu cấp đội tuyển quốc gia
- U-20 Tây Ban Nha
- Đại hội Thể thao Địa Trung Hải: 2009
- U-21 Tây Ban Nha
- Giải vô địch bóng đá U-21 Châu Âu: 2011
6.3. Danh hiệu cá nhân
- Giải thưởng Fútbol Draft: Trung vệ xuất sắc thứ ba, 2009-10
- Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu Super League Greece 2016-17: Vòng 10