1. Cuộc đời
Trần Dần có một cuộc đời đầy biến động, từ những năm tháng tuổi trẻ học tập và hoạt động cách mạng cho đến khi trở thành một trong những tiếng nói nổi bật của phong trào đòi tự do văn nghệ.
1.1. Thời niên thiếu và Giáo dục
Trần Dần sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926, nguyên quán tại thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Cha ông là một viên chức kho bạc tại tỉnh Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê nhà, sau đó lên Hà Nội tiếp tục học và đỗ bằng Tú tài. Những năm tháng học tập và lớn lên trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầy biến động đã định hình phần nào tư tưởng và con đường văn học của ông.
1.2. Hoạt động ban đầu và Bước ngoặt Văn học
Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài với tuyên ngôn vào ngày 16 tháng 11 năm 1946, trong đó có những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ...". Đến ngày 19 tháng 12 năm 1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2. Khi Chiến tranh Đông Dương (Kháng chiến chống Pháp) bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc tại Sở Tuyên truyền Khu IV.
Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, công tác tại Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu và Vũ Hoàng Địch. Sau đó, ông làm báo ở mặt trận Tây Bắc và phụ trách văn công Trung đoàn 148 Sơn La. Trong giai đoạn này, Trần Dần cùng Trần Thư và Hoài Niệm đã tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên mang tên Nhóm Sông Đà. Cũng trong thời gian này, ông bắt đầu thử nghiệm làm "thơ bậc thang" và vẽ "tranh lập thể", những thể nghiệm nghệ thuật bị cho là khó hiểu vào thời điểm đó. Ông trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc ấy có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) từ năm 1949.
1.3. Nghĩa vụ quân sự và Hoạt động Đảng
Năm 1954, Trần Dần cùng Đỗ Nhuận và Tô Ngọc Vân tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và viết truyện dài Người người lớp lớp. Sau chiến dịch, ông được cử sang Trung Quốc để viết thuyết minh cho phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, do bất đồng quan điểm với cán bộ chính trị đi cùng, ông đã "nhường" công việc này cho người khác. Vào thời điểm này, tại Trung Quốc, Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và đảng viên lâu năm, đã gửi một lá thư dài tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 7 năm 1954, chỉ trích các lãnh đạo phụ trách lĩnh vực văn học nghệ thuật đã ép buộc giới văn nghệ sĩ phải theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa và có thái độ quan liêu trong công tác quản lý. Những tư tưởng này có thể đã ảnh hưởng đến Trần Dần và các trí thức khác ở Việt Nam. Đến năm 1953, ông đã bắt đầu có những bất đồng với Đảng.

2. Sự nghiệp và Đóng góp Văn học
Sự nghiệp văn học của Trần Dần gắn liền với những nỗ lực đổi mới nghệ thuật và cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ cho tự do sáng tạo, đặc biệt là trong bối cảnh kiểm soát văn hóa chặt chẽ của nhà nước.
2.1. Tham gia Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm và Phê phán
Năm 1955, Trần Dần viết đơn đề nghị được giải ngũ và ra khỏi Đảng. Cùng năm đó, ông quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê, bất chấp sự phản đối của chi bộ Đảng vì gia đình bà Khuê có người di cư vào miền Nam. Theo báo Nhân Dân, việc Trần Dần đòi ra khỏi Đảng đã khiến một số người khác làm theo.
Ông tích cực tham gia Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm, một phong trào trí thức đòi hỏi tự do tư tưởng và sáng tạo. Trần Dần đã lên tiếng đòi thay đổi quan điểm lãnh đạo văn nghệ trong quân đội và yêu cầu được xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Mặc dù chỉ huy đơn vị nhiều lần cảnh cáo, ông vẫn giữ vững quan điểm, liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như "Lão rồng" và truyện "Anh Cò Lấm", những tác phẩm được cho là phê phán cải cách ruộng đất.
Trong một cuộc họp nội bộ, Trần Dần đã đọc cho tướng Nguyễn Chí Thanh nghe một báo cáo thể hiện quan điểm của ông về văn nghệ quân đội, đòi bãi bỏ việc Cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị tổ chức và giám sát hoạt động văn nghệ trong quân đội. Tướng Nguyễn Chí Thanh đã phản ứng gay gắt, đập bàn quát mắng và dặn dò các sĩ quan quân đội phải coi chừng tư tưởng bất mãn, chống đối của Trần Dần. Ông bị cho là "bất mãn, gây gổ, thường tự ý bỏ doanh trại bộ đội ra ngoài phố ở, giao du rộng rãi, tự do".
Một số mốc chính trong hoạt động của ông trong thời gian này bao gồm:
- Tháng 3 năm 1955:** Ông tham gia phê bình tập thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Trần Dần nhận định tập thơ này "nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại" và mắc sai lầm nghiêm trọng là "sùng bái cá nhân", thần thánh hóa lãnh tụ.
- Tháng 4 năm 1955:** Ông cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá với các đề nghị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội. Ông cũng viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, và quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.
2.2. Bị bắt giữ, giam cầm và Hậu quả
Từ ngày 13 tháng 6 đến 14 tháng 9 năm 1955, Trần Dần bị giam giữ do không tuân lệnh theo kỷ luật quân đội để kiểm thảo cùng với Tử Phác ở đơn vị. Trong thời gian này, bà Bùi Thị Ngọc Khuê bắt đầu ốm nghén người con đầu lòng của hai người, chị Trần Thị Băng Kha. Nhà văn Hoàng Cầm đã ghi lại sự đau khổ của bà Khuê trong giai đoạn này, khi bà mang thai và phải đối mặt với sự vắng mặt đột ngột của chồng, cùng với sự lo lắng về việc liệu quân đội có cho phép họ kết hôn hay không.
Từ ngày 2 tháng 11 năm 1955 đến giữa tháng 2 năm 1956, ông được phân công đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh. Trong thời gian này ở Hà Nội, Hoàng Cầm cho đăng bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí này sau đó đã bị tịch thu. Nội dung bài thơ có mô tả những trăn trở về những người di cư vào miền Nam theo quân Pháp năm 1954, với những câu:
:Tôi đã sống rã rời cân não
:Quãng thời gian nhung nhúc chuyện đi Nam...
:Họ lếch thếch cùng nhau đi từng mảng
:Họ kêu những thiếu tiền, thiếu gạo
:Thiếu cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân...
Tháng 2 năm 1956, Trần Dần trở về Hà Nội. Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ "Nhất định thắng" với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Ông bị kết án là "đồ đệ của Hồ Phong", "mất lập trường giai cấp" và "đi ngược lại đường lối của Đảng". Ông bị giam 3 tháng tại Nhà tù Hỏa Lò (còn được gọi là Hanoi Hilton) ở Hà Nội. Trong tù, Trần Dần đã dùng dao cạo cứa cổ và dọa sẽ tự sát. Ông được thả vì việc bắt giữ ông không có sự chuẩn y của ban lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ).
Ngày 7 tháng 3 năm 1956, báo Văn Nghệ số 110 đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần do Hoài Thanh viết. Cùng ngày, Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của Trần Dần, ra đời.
Tháng 9 năm 1956, báo Nhân Văn ra đời, do Phan Khôi làm chủ nhiệm. Trong số 1 có đăng bài Con người Trần Dần - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: Trần Dần của Hoàng Cầm. Số báo Nhân Văn xuất bản ngày 30 tháng 9 năm 1956 có vẽ biếm họa chỉ ra mối liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần. Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn sau khi chỉ in được 5 số.
Cuối tháng 2 năm 1957, Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Tổng bí thư Trường Chinh đã phát biểu, kêu gọi đấu tranh đập tan luận điệu phản động của Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1958, ông tham dự lớp học chỉnh huấn tư tưởng chính trị tại Thái Hà Ấp cùng với 304 cán bộ văn hóa văn nghệ khác. Đầu tháng 6 năm 1958, Hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn - Giai Phẩm. Hơn 800 văn nghệ sĩ trong hội đã ra tuyên bố hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh.
Tháng 7 cùng năm, Trần Dần cùng với các nghệ sĩ tham gia Nhân Văn - Giai Phẩm khác, đã nhận kết quả kỷ luật. Ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn Việt Nam và bị đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm. Tuy nhiên, lệnh cấm xuất bản này thực tế kéo dài cho đến năm 1988.
2.3. Cuộc sống và Sáng tác sau năm 1960
Từ 22 tháng 8 năm 1958 đến tháng 2 năm 1959, Trần Dần đi thực tế lao động tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác. Tháng 11 năm 1959, ông được phân công làm công tác dịch thuật tại Hội Nhà văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực. Năm 1960, ông có hai lần đi thực tế lao động tại khu gang thép Thái Nguyên. Đến tháng 8, ông ốm nặng và trở về Hà Nội.
Từ đó, ông sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống. Trong nhật ký của Trần Dần viết vào đầu năm 1960, ông ghi lại rằng sau khi đi học chỉnh huấn chính trị, ông đã nhận ra việc Nhân Văn - Giai Phẩm lợi dụng văn nghệ để hoạt động chống đối chính trị, và tỏ ra hối hận khi tham gia phong trào này. Ông viết:
::Nhân văn Giai phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ nghĩa, phản đối xã hội chủ nghĩa; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu Nhân Văn - Giai Phẩm, đó là một công ty phá hoại bao gồm những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc Dân Đảng cũ (Phan Khôi), đứa là mật thám (cho Pháp) trước đây, đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghĩa trotskisme (Nguyễn Hữu Đang)... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, Trần Đức Thảo, và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với mật thám Pháp Sainteny, là Thụy An
::Sớm mai toà xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại... Tôi đã từng có đứng với nhóm do Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" (Nhân văn Giai phẩm) đó... Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...) Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ơi!
Dù vậy, trong hồi ức của các con ông, Trần Dần ít khi buồn, không có một phàn nàn và không bao giờ kể chuyện đời mình. Ông vẫn thầm lặng sáng tác, từ năm 1954 đến 1989 vẫn đều đặn viết nhật ký, những số đầu tiên có tựa là Ghi vặt, từ năm 1973 thành Sổ thơ và từ năm 1979 thành Sổ bụi. Nhận xét về giai đoạn này, ông có nói: Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ "bụi", sổ "ngao du". Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra. Có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình.
Ông vẫn kiên trì công cuộc cách tân thơ của mình. Ở Sổ bụi 1988 khi nói về Thơ mini ông có viết: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần... cái chưa biết- cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi. Sổ bụi cuối cùng được viết vào năm 1989, trước khi những năm cuối cuộc đời bệnh tật đã cướp đi của ông trí nhớ và sự minh mẫn (di chứng của những lần xuất huyết não, lần đầu tiên ông bị là vào năm 1983).
Đặc biệt, Trần Dần luôn tin rằng đến một ngày tác phẩm của mình sẽ được xuất bản trở lại. Sau khi ông mất, trong di cảo của ông, các con ông đã tìm thấy một tập bản thảo có ghi "Trần Dần tự xuất bản", hay tập thơ "Bao giờ em đi lấy chồng" mà ông đã tự trình bày và minh họa sẵn cách đấy 35 năm. Năm 1988, Trần Dần được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5 năm đó, ông vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.
Đến thời kỳ Đổi mới của Việt Nam, khi các tác giả có thể bỏ tiền tự in và tự phát hành với sự cấp giấy phép của Nhà xuất bản, vài tác phẩm của ông được xuất bản trở lại như Trường ca "Bài thơ Việt Bắc" năm 1990 (mặc dù chương 12 của bản Trường ca là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng phải bỏ) và tập thơ tiểu thuyết Cổng tình năm 1994, tác phẩm sau này đã đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn.
3. Phong cách Nghệ thuật và Đổi mới
Trần Dần được đánh giá là một người cách tân mạnh mẽ trong thơ ca Việt Nam, cả về hình thức lẫn tư tưởng. Ông là người tiên phong với lối "thơ bậc thang", một hình thức thơ độc đáo. Thơ của ông thường mang tính đa diện, phức tạp về tư tưởng và chiều sâu triết lý, khiến nhiều ý kiến trái ngược nhau về tác phẩm của ông.
Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: 'Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu'." Cũng theo Dương Tường, nếu đánh giá đúng về nghệ thuật của Trần Dần, có thể chúng ta phải viết lại sách giáo khoa văn học, và viết lại một chương trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1955-1956. Ông cho rằng đây có thể là mốc thứ hai (sau Thơ mới) trên tiến trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam. Mặc dù suốt 30 năm (từ 1960 đến 1990) thơ ông không được xuất bản, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi.
4. Tác phẩm chính
Trần Dần đã để lại một di sản văn học đồ sộ, bao gồm thơ, tiểu thuyết, nhật ký và các ghi chép khác, nhiều tác phẩm trong số đó chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời hoặc trong giai đoạn Đổi mới:
- Chiều mưa trước cửa (Thơ - 1943)
- Hồn xanh dị kỳ (Thơ - 1944)
- Người người lớp lớp (Truyện dài - 1954)
- Nhất định thắng (Thơ - 1956)
- Cách mạng tháng Tám (1956)
- Đêm núm sen (Tiểu thuyết - 1961, chưa xuất bản)
- Jờ Joạcx (Thơ - 1963, xuất bản di cảo)
- Những ngã tư và những cột đèn (Tiểu thuyết - 1964, xuất bản năm 2011)
- Một ngày cẩm phả (Tiểu thuyết - 1965, chưa xuất bản)
- Những ngã tư và những cột đèn (Tiểu thuyết - 1966, xuất bản năm 2010)
- Con trắng (Thơ - hồi ký - 1967)
- 177 cảnh (Hùng ca lụa - 1968)
- Động đất tâm thần (Nhật ký - thơ - 1974)
- Thơ không lời - Mây không lời (Thơ - họa - 1978)
- Bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày (1979)
- Bộ tam 36 - Thở dài - Tư Mã zâng sao (1980)
- Thơ mini (1988)
- Bài thơ Việt Bắc (Trường ca - Viết năm 1957, xuất bản năm 1990)
- Cổng tình (Thơ - tiểu thuyết - Viết năm 1959 - 1960, xuất bản năm 1994)
- Mùa sạch (Thơ - Viết năm 1964, xuất bản năm 1998)
- Trần Dần - Thơ (2008 - Giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội)
5. Đời sống Cá nhân
Trần Dần có ba người con, bao gồm hai trai và một gái:
- Con gái: Trần Thị Băng Kha, là một giáo viên dạy toán.
- Con trai: Trần Trọng Văn, là một nhà quay phim.
- Con trai: Trần Trọng Vũ, là một họa sĩ. Vợ của Trần Trọng Vũ là nữ nhà văn Thuận (Đoàn Ánh Thuận).
6. Sự nghiệp và Di sản
Di sản của Trần Dần không chỉ nằm ở các tác phẩm mà ông để lại, mà còn ở tinh thần đấu tranh cho tự do biểu đạt và những tranh cãi xoay quanh việc công nhận giá trị nghệ thuật của ông.
6.1. Ghi nhận và Giải thưởng
Năm 2007, Trần Dần đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật của chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ghi nhận những đóng góp nghệ thuật của ông. Đến đầu năm 2008, Công ty Nhã Nam và Nhà xuất bản Đà Nẵng đã cho phát hành cuốn Trần Dần - Thơ, được coi là công trình đồ sộ và đầy đủ nhất từng được xuất bản về Trần Dần. Tập thơ này cũng đã nhận được Giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội.
6.2. Phê bình và Tranh cãi
Mặc dù được truy tặng giải thưởng nhà nước và tác phẩm được xuất bản, sự nghiệp của Trần Dần vẫn gắn liền với nhiều tranh cãi về tự do biểu đạt và kiểm duyệt. Tháng 2 năm 2008, một tuyển tập thơ của ông, được coi là đầy đủ nhất, đã được phép xuất bản tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngay sau khi phát hành, Bộ Văn hóa và Thông tin đã phạt nhà xuất bản 15.00 M VND vì "vi phạm chính sách xuất bản hành chính" và yêu cầu ngừng phân phối, mặc dù không tịch thu các bản đã in.
Thông tin về việc hạn chế xuất bản cuốn sách đã gây lo ngại trong giới trí thức Việt Nam. 134 trí thức hàng đầu chuyên về văn học đã ký một bản kiến nghị yêu cầu chính phủ xem xét lại và bãi bỏ quyết định này. Chính phủ sau đó đã phản hồi, nhấn mạnh rằng họ không phạt nhà xuất bản vì nội dung của cuốn sách hay vì tác giả. Tuy nhiên, sự việc này đã làm nổi bật những vấn đề liên quan đến quyền tự do báo chí và văn hóa ở Việt Nam.
Nhà thơ Dương Tường nhận định rằng việc đánh giá đúng về nghệ thuật của Trần Dần có thể đòi hỏi phải viết lại sách giáo khoa văn học và một chương trong lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1955-1956, coi đây là một mốc quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam.
7. Qua đời
Trần Dần qua đời tại Hà Nội vào ngày 17 tháng 1 năm 1997.