1. Sự nghiệp cầu thủ
Ramón María Calderé del Rey sinh ra tại Vila-rodona, Tarragona, Catalonia, và là sản phẩm của hệ thống đào tạo trẻ của câu lạc bộ địa phương FC Barcelona.
1.1. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ
Calderé đã trải qua nhiều mùa giải với đội dự bị của FC Barcelona, đó là FC Barcelona Atlètic. Trong một lần cho mượn không mấy thành công, ông có trận ra mắt tại La Liga với Real Valladolid trong mùa giải 1980-81. Ông cũng từng được cho mượn tới RSD Alcalá vào năm 1979-1980 và 1981.
Năm 25 tuổi, Calderé được đôn lên đội một của FC Barcelona. Dù không phải là lựa chọn hàng đầu, ông đã góp phần giúp đội bóng giành chức vô địch La Liga ngay trong mùa giải đầu tiên trở lại. Trong 4 mùa giải thi đấu cho Barcelona, ông đã ra sân tổng cộng 157 trận chính thức, ghi 15 bàn trong 110 trận đấu.
Vào mùa hè năm 1988, ông ký hợp đồng với đội bóng cùng hạng đấu là Real Betis, mặc dù không phải theo ý muốn của ông. Trong mùa giải đầu tiên 1988-89 tại Betis, đội bóng của ông đã bị xuống hạng. Ông thi đấu 47 trận và ghi được 1 bàn cho Betis.
Calderé giải nghệ vào năm 1993 ở tuổi 34, khi đang chơi cho câu lạc bộ nhỏ UE Sant Andreu ở tỉnh quê nhà của ông. Tại Sant Andreu, ông đã giành được danh hiệu Segunda División B mùa giải 1991-92.
1.2. Sự nghiệp quốc tế
Calderé đã có 18 lần ra sân và ghi 7 bàn cho Tây Ban Nha. Ông có trận ra mắt vào ngày 30 tháng 4 năm 1985 trong trận thua 0-3 trước Wales ở Wrexham trong khuôn khổ vòng loại World Cup 1986.
Ông cũng là một cầu thủ lớn tuổi được sử dụng bởi đội tuyển U-21 quốc gia Tây Ban Nha, giúp đội bóng giành chức vô địch Giải vô địch U-21 châu Âu 1986, mặc dù ông không thể ra sân ở các trận chung kết do chấn thương. Ông cũng được triệu tập vào đội hình tham dự Euro 1988, nhưng không được sử dụng.
1.2.1. World Cup 1986 và tranh cãi
Trong thời gian diễn ra Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 tại Mexico, Calderé bị tiêu chảy du lịch và được bác sĩ đội tuyển quốc gia kê kháng sinh. Sau chiến thắng trước Bắc Ireland, ông được yêu cầu kiểm tra doping, và kết quả là dương tính.
Tuy nhiên, Calderé đã không bị xử phạt, vì đội ngũ y tế đã thành công trong việc lập luận rằng thuốc được sử dụng để chống lại tình trạng bệnh, nhằm tránh nguy cơ mất nước nghiêm trọng. Ông sau đó đã ghi hai bàn thắng trong trận đấu tiếp theo với Algérie.
2. Sự nghiệp huấn luyện viên
Sau khi giải nghệ, Calderé chuyển sang sự nghiệp huấn luyện, chủ yếu dẫn dắt các đội bóng khiêm tốn ở các giải đấu thấp hơn của Tây Ban Nha.
Các câu lạc bộ ông đã dẫn dắt bao gồm CE Premià (hai lần), UE Cornellà, CF Gavà, UE Castelldefels, CF Badalona (hai lần), AD Ceuta, CF Reus Deportiu, CD Teruel, CF Palencia và Burgos CF. Ngoài ra, ông còn có một thời gian ngắn làm trợ lý huấn luyện viên tại Sint-Truidense V.V. ở Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ dưới quyền đồng hương Tintín Márquez.
Vào tháng 6 năm 2008, khi đang là huấn luyện viên của Reus, ông đã bị bắt giữ sau một cáo buộc hành hung một sĩ quan cảnh vệ dân sự trong trận đấu với Sangonera Atlético CF.
2.1. Thống kê huấn luyện viên
Thống kê huấn luyện viên của Ramón María Calderé del Rey theo từng câu lạc bộ và giai đoạn nắm quyền:
Đội | Quốc gia | Từ | Đến | Hồ sơ | Ghi chú | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tổng số trận | Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng | Bàn thua | Hiệu số | Tỷ lệ thắng (%) | |||||
Premià | 1 tháng 7 năm 1997 | 30 tháng 6 năm 1998 | 38 | 13 | 8 | 17 | 50 | 50 | 0 | 34.21 | ||
Cornellà | 1 tháng 7 năm 1998 | 30 tháng 6 năm 2000 | 82 | 45 | 21 | 16 | 151 | 76 | +75 | 54.88 | ||
Gavà | 1 tháng 7 năm 2000 | 30 tháng 6 năm 2001 | 44 | 23 | 13 | 8 | 83 | 45 | +38 | 52.27 | ||
Castelldefels | 1 tháng 1 năm 2002 | 30 tháng 6 năm 2002 | 20 | 7 | 9 | 4 | 33 | 27 | +6 | 35.00 | ||
Badalona | 1 tháng 7 năm 2002 | 30 tháng 6 năm 2005 | 141 | 69 | 40 | 32 | 209 | 130 | +79 | 48.94 | ||
Ceuta | 1 tháng 7 năm 2005 | 13 tháng 3 năm 2006 | 30 | 5 | 18 | 7 | 22 | 23 | -1 | 16.67 | ||
Premià | 1 tháng 7 năm 2006 | 30 tháng 6 năm 2007 | 38 | 11 | 10 | 17 | 40 | 58 | -18 | 28.95 | ||
Reus | 1 tháng 7 năm 2007 | 30 tháng 6 năm 2009 | 91 | 47 | 25 | 19 | 155 | 86 | +69 | 51.65 | ||
Teruel | 1 tháng 7 năm 2009 | 28 tháng 5 năm 2011 | 80 | 43 | 20 | 17 | 128 | 64 | +64 | 53.75 | ||
Palencia | 1 tháng 7 năm 2011 | 23 tháng 6 năm 2012 | 43 | 13 | 11 | 19 | 36 | 52 | -16 | 30.23 | ||
Burgos | 23 tháng 6 năm 2012 | 13 tháng 6 năm 2014 | 85 | 47 | 15 | 23 | 135 | 72 | +63 | 55.29 | ||
Castellón | 30 tháng 10 năm 2014 | 19 tháng 10 năm 2015 | 55 | 24 | 15 | 16 | 75 | 51 | +24 | 43.64 | ||
Olot | 1 tháng 6 năm 2016 | 3 tháng 6 năm 2017 | 40 | 25 | 9 | 6 | 75 | 39 | +36 | 62.50 | ||
Salmantino | 16 tháng 10 năm 2017 | 9 tháng 2 năm 2018 | 15 | 6 | 4 | 5 | 21 | 15 | +6 | 40.00 | ||
Badalona | 9 tháng 7 năm 2018 | 22 tháng 1 năm 2019 | 22 | 5 | 7 | 10 | 19 | 25 | -6 | 22.73 | ||
Tổng cộng | 824 | 383 | 225 | 216 | 1232 | 813 | +419 | 46.55 | - |
3. Danh hiệu
Ramón María Calderé del Rey đã đạt được nhiều danh hiệu trong sự nghiệp cầu thủ và huấn luyện viên của mình.
3.1. Với tư cách cầu thủ
Với Barcelona
- La Liga: 1984-85
- Copa del Rey: 1987-88
- Copa de la Liga: 1985-86
Với Sant Andreu
- Segunda División B: 1991-92
3.2. Với tư cách huấn luyện viên
Với Gavà
- Tercera División: 2000-01
Với Teruel
- Tercera División: 2009-10
Với Castellón
- Tercera División: 2014-15
Với Santa Coloma
- Primera Divisió: 2023-24
- Copa Constitució: 2024