1. Đầu đời và Bối cảnh
1.1. Thời thơ ấu và Giáo dục
Không có thông tin chi tiết về thời thơ ấu và kinh nghiệm giáo dục của Maranville trong các tài liệu hiện có.
1.2. Khởi đầu sự nghiệp và Ra mắt
Maranville bắt đầu sự nghiệp bóng chày chuyên nghiệp vào năm 1912, khi ông được đội Boston Braves mua lại từ đội New Bedford ở New England. Ngay từ những bước đầu tiên trong sự nghiệp, Maranville đã nhanh chóng thu hút sự chú ý nhờ khả năng phòng ngự vượt trội ở vị trí nội địa, dù thể hình nhỏ bé và khả năng đánh bóng không quá nổi bật.
2. Sự nghiệp cầu thủ
Sự nghiệp thi đấu của Walter "Rabbit" Maranville kéo dài 23 mùa giải tại Major League Baseball, nổi bật với khả năng phòng ngự và tính cách độc đáo.
2.1. Các đội và vị trí
Maranville ném và đánh bóng bằng tay phải. Ông cao 0.1 m (5 in) và nặng 70 kg (155 lb). Trong suốt sự nghiệp kéo dài qua cả kỷ nguyên bóng chết và kỷ nguyên bóng sống, ông đã thi đấu cho nhiều đội bóng lớn:
- Boston Braves (1912-1920, 1929-1933, 1935)
- Pittsburgh Pirates (1921-1924)
- Chicago Cubs (1925)
- Brooklyn Robins (1926)
- St. Louis Cardinals (1927-1928)
Vị trí chủ yếu của ông là shortstop. Năm 1924, ông chuyển sang vị trí second baseman sau khi Pirates đưa Glenn Wright vào vị trí shortstop.
2.2. Thành tích và Giải thưởng
Maranville đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong sự nghiệp của mình:
- Trong mùa giải đầy đủ đầu tiên vào năm 1913, khi mới 21 tuổi và chơi cho Boston Braves, ông đứng thứ ba trong cuộc bình chọn MVP của National League, mặc dù tỷ lệ đánh bóng của ông chỉ là .247 với hai cú home run trong 143 trận.
- Năm 1914, ông là á quân trong cuộc bình chọn MVP, chỉ đứng sau đồng đội Johnny Evers, khi Braves giành chức vô địch National League và sau đó quét sạch đội bóng mạnh Philadelphia A's tại World Series. Trong năm này, Maranville là người đánh thứ tư của Braves, dù tỷ lệ đánh bóng chỉ là .246 và có bốn cú home run. Đây là chức vô địch World Series duy nhất trong sự nghiệp của ông.
- Ông giành chức vô địch National League thứ hai vào năm 1928 khi là thành viên của Cardinals.
- Maranville giữ kỷ lục 23 mùa giải thi đấu tại National League, một kỷ lục tồn tại hơn 50 năm cho đến khi bị Pete Rose phá vỡ vào năm 1986.
- Là một shortstop, ông kết thúc sự nghiệp với kỷ lục 5.139 cú putout ở vị trí này.
- Ông hai lần giành danh hiệu tỷ lệ phòng ngự cao nhất ở vị trí shortstop (1916, 1923) và hai lần ở vị trí second baseman (1924, 1932).
- Năm 1923, ông dẫn đầu giải đấu về số cú putout, cú assist, cú double play và tỷ lệ phòng ngự ở vị trí shortstop.
- Năm 1924, ông dẫn đầu giải đấu về số cú assist, cú double play và tỷ lệ phòng ngự ở vị trí second baseman, thực hiện tới 109 cú double play.
- Ngay cả ở tuổi 41, khi ông chỉ đạt tỷ lệ đánh bóng .218 trong 143 trận và không có cú home run nào, ông vẫn đứng đồng hạng 12 trong cuộc bình chọn MVP National League năm 1933.
| Năm | Đội | Số trận | Lượt đánh | Số lần đánh | Điểm ghi | Cú đánh | Cú đúp | Cú ba | Cú home run | Tổng số base | RBI | Cướp base | Bị bắt khi cướp base | Hy sinh bunt | Hy sinh bay | Đi bộ | Hit by pitch | Strikeout | Double play đánh bóng | Tỷ lệ đánh bóng | Tỷ lệ on-base | Tỷ lệ slugging | OPS | |
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| 1912 | BSN | 26 | 101 | 86 | 9 | 18 | 2 | 0 | 0 | 20 | 8 | 1 | -- | 5 | -- | 9 | -- | 1 | 14 | -- | .209 | .292 | .233 | .524 |
| 1913 | BSN | 143 | 659 | 571 | 68 | 141 | 13 | 8 | 2 | 176 | 48 | 25 | 19 | 17 | -- | 68 | -- | 3 | 62 | -- | .247 | .330 | .308 | .638 |
| 1914 | BSN | 156 | 663 | 586 | 74 | 144 | 23 | 6 | 4 | 191 | 78 | 28 | -- | 27 | -- | 45 | -- | 6 | 56 | -- | .246 | .306 | .326 | .632 |
| 1915 | BSN | 149 | 578 | 509 | 51 | 124 | 23 | 6 | 2 | 165 | 43 | 18 | 12 | 23 | -- | 45 | -- | 2 | 65 | -- | .244 | .308 | .324 | .632 |
| 1916 | BSN | 155 | 680 | 604 | 79 | 142 | 16 | 13 | 4 | 196 | 38 | 32 | 15 | 24 | -- | 50 | -- | 2 | 69 | -- | .235 | .296 | .325 | .620 |
| 1917 | BSN | 142 | 613 | 561 | 69 | 146 | 19 | 13 | 3 | 200 | 43 | 27 | -- | 10 | -- | 40 | -- | 2 | 47 | -- | .260 | .312 | .357 | .668 |
| 1918 | BSN | 11 | 42 | 38 | 3 | 12 | 0 | 1 | 0 | 14 | 3 | 0 | -- | 0 | -- | 4 | -- | 0 | 0 | -- | .316 | .381 | .368 | .749 |
| 1919 | BSN | 131 | 529 | 480 | 44 | 128 | 18 | 10 | 5 | 181 | 43 | 12 | -- | 12 | -- | 36 | -- | 1 | 23 | -- | .267 | .319 | .377 | .696 |
| 1920 | BSN | 134 | 534 | 493 | 48 | 131 | 19 | 15 | 1 | 183 | 43 | 14 | 11 | 13 | -- | 28 | -- | 0 | 24 | -- | .266 | .305 | .371 | .676 |
| 1921 | PIT | 153 | 686 | 612 | 90 | 180 | 25 | 12 | 1 | 232 | 70 | 25 | 12 | 23 | -- | 47 | -- | 3 | 38 | -- | .294 | .347 | .379 | .727 |
| 1922 | PIT | 155 | 746 | 672 | 115 | 198 | 26 | 15 | 0 | 254 | 63 | 24 | 13 | 12 | -- | 61 | -- | 2 | 43 | -- | .295 | .355 | .378 | .733 |
| 1923 | PIT | 141 | 633 | 581 | 78 | 161 | 19 | 9 | 1 | 201 | 41 | 14 | 11 | 9 | -- | 42 | -- | 1 | 34 | -- | .277 | .327 | .346 | .673 |
| 1924 | PIT | 152 | 639 | 594 | 62 | 158 | 33 | 20 | 2 | 237 | 71 | 18 | 14 | 11 | -- | 35 | -- | 0 | 53 | -- | .266 | .307 | .399 | .706 |
| 1925 | CHC | 75 | 305 | 266 | 37 | 62 | 10 | 3 | 0 | 78 | 23 | 6 | 5 | 10 | -- | 29 | -- | 0 | 20 | -- | .233 | .308 | .293 | .602 |
| 1926 | BRO | 78 | 266 | 234 | 32 | 55 | 8 | 5 | 0 | 73 | 24 | 7 | -- | 6 | -- | 26 | -- | 0 | 24 | -- | .235 | .312 | .312 | .624 |
| 1927 | STL | 9 | 31 | 29 | 0 | 7 | 1 | 0 | 0 | 8 | 0 | 0 | -- | 0 | -- | 2 | -- | 0 | 2 | -- | .241 | .290 | .276 | .566 |
| 1928 | STL | 112 | 413 | 366 | 40 | 88 | 14 | 10 | 1 | 125 | 34 | 3 | -- | 9 | -- | 36 | -- | 1 | 27 | -- | .240 | .310 | .342 | .652 |
| 1929 | BSN | 146 | 633 | 560 | 87 | 159 | 26 | 10 | 0 | 205 | 55 | 13 | -- | 23 | -- | 47 | -- | 4 | 33 | -- | .284 | .344 | .366 | .710 |
| 1930 | BSN | 142 | 628 | 558 | 85 | 157 | 26 | 8 | 2 | 205 | 43 | 9 | -- | 17 | -- | 48 | -- | 5 | 23 | -- | .281 | .344 | .367 | .711 |
| 1931 | BSN | 145 | 636 | 562 | 69 | 146 | 22 | 5 | 0 | 178 | 33 | 9 | -- | 16 | -- | 56 | -- | 2 | 34 | -- | .260 | .329 | .317 | .646 |
| 1932 | BSN | 149 | 635 | 571 | 67 | 134 | 20 | 4 | 0 | 162 | 37 | 4 | -- | 15 | -- | 46 | -- | 3 | 28 | -- | .235 | .295 | .284 | .579 |
| 1933 | BSN | 143 | 533 | 478 | 46 | 104 | 15 | 4 | 0 | 127 | 38 | 2 | -- | 17 | -- | 36 | -- | 1 | 34 | 17 | .218 | .274 | .266 | .539 |
| 1935 | BSN | 23 | 71 | 67 | 3 | 10 | 2 | 0 | 0 | 12 | 5 | 0 | -- | 1 | -- | 3 | -- | 0 | 3 | 4 | .149 | .186 | .179 | .365 |
| Tổng cộng: 23 năm | 2670 | 11254 | 10078 | 1256 | 2605 | 380 | 177 | 28 | 3423 | 884 | 291 | 112 | 300 | -- | 839 | -- | 39 | 756 | 21 | .258 | .318 | .340 | .658 | |
- In đậm ở mỗi năm là cao nhất giải đấu.
2.3. Phong cách chơi và Biệt danh

Maranville nổi tiếng với khả năng phòng ngự xuất sắc, phạm vi hoạt động rộng và phong cách chơi nhanh nhẹn. Do vóc dáng nhỏ bé, đôi tai lớn và sự nhanh nhẹn trong việc xử lý các cú đánh đất, ông được đặt biệt danh là "Rabbit" (Thỏ).
Ngoài tài năng trên sân, Maranville còn được biết đến là một trong những "chú hề" nổi tiếng nhất của làng bóng chày nhờ những trò đùa tinh quái và tính cách không gò bó. Ông thường đeo kính để trêu chọc các trọng tài và bắt chước hành động của những người đánh bóng hoặc ném bóng mất nhiều thời gian để chuẩn bị. Những trò đùa khác của ông bao gồm ném pháo, bước ra ngoài bệ cửa sổ khách sạn, và nuốt cá vàng.
Một lần, trong chuyến đi đến New York, Maranville đã nhờ đồng đội Jack Scott hét lên "Dừng lại, kẻ trộm!" khi Scott đuổi theo ông qua Times Square. Một lần khác, các đồng đội lo lắng đã xông vào phòng khách sạn của ông sau khi nghe thấy tiếng la hét, tiếng kính vỡ và tiếng súng từ bên trong, cùng với tiếng rên rỉ của Maranville, "Eddie, anh đang giết tôi!" Maranville không hề hấn gì và hai người bạn đã chào đón các cầu thủ như không có chuyện gì xảy ra khi họ bước ra khỏi phòng.
Khi Maranville được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của Chicago Cubs vào năm 1925 - một trong những mùa giải tồi tệ nhất của đội - ông vẫn tiếp tục thể hiện hành vi hoang dã của mình. Quy tắc duy nhất của ông với đội là không cầu thủ nào được đi ngủ trước ông. Một đêm, ông đi qua một toa xe Pullman, đổ nước lên đầu các cầu thủ đang ngủ và nói, "Không được ngủ dưới sự quản lý của Maranville, đặc biệt là vào ban đêm." Sau 53 trận đấu dưới sự quản lý của ông, Cubs đứng cuối bảng với thành tích 23 thắng - 30 thua. Không lâu sau đó, ông đứng trên đường bên ngoài Ebbets Field ở Brooklyn bắt chước một cậu bé bán báo rao hàng. Ông hét lên, "Đọc tất cả về nó! Maranville bị sa thải!" Và quả thực, ông đã bị sa thải vào ngày hôm sau.
Tổng cộng 28 cú home run trong sự nghiệp của Maranville, 22 trong số đó là cú home run chạy trong sân (inside-the-park home run). Điều này một phần là do sân nhà của Braves ở Boston ban đầu có kích thước cực kỳ lớn. Mặc dù sau này đã được thu hẹp, nhưng vào những năm 1910, hai cánh sân rộng 123 m (402 ft) (khoảng 121 m), trung tâm sân rộng 134 m (440 ft) (khoảng 132 m), và phần sâu nhất ở giữa sân bên phải có thể lên tới gần 152 m (500 ft) (khoảng 150 m).
2.4. Hoạt động ngoài sân cỏ và Đời tư

Sau chức vô địch World Series năm 1914, Maranville và một số đồng đội đã tham gia một chuyến lưu diễn vaudeville, tái hiện các vở kịch từ World Series đồng thời hát và kể chuyện. Trong một buổi biểu diễn tại Lewiston, Maine, Maranville đang trình diễn một cú cướp base thì vô tình trượt khỏi mép sân khấu và ngã vào một chiếc trống trong hố dàn nhạc, dẫn đến việc bị gãy chân.
Năm 1918, Maranville chỉ chơi 11 trận, dành phần lớn thời gian trong năm phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ nhất.
Năm 1931, khi đã 40 tuổi, Maranville là thành viên của đội tuyển chọn toàn Hoa Kỳ đến thăm Nhật Bản, cùng với những ngôi sao như Lou Gehrig và Lefty Grove. Ông đã thể hiện những pha bóng nhanh nhẹn và thậm chí cả kỹ năng chuyền bóng qua háng ở nhiều địa điểm khác nhau.
Năm 1926 là một năm khó khăn đối với Maranville. Sau khi được Brooklyn Robins nhận từ danh sách miễn trừ, ông đã dành nửa đầu mùa giải với họ nhưng bị giải phóng hợp đồng giữa chừng. Cardinals đã ký hợp đồng với ông vào tháng 11 năm đó nhưng đã điều ông đến Rochester Tribe thuộc International League vào năm 1927. Maranville nhận ra rằng ông sẽ phải thay đổi lối sống nếu muốn tiếp tục chơi ở các giải đấu lớn. Ông tự nhủ: "Hoặc tôi phải bỏ rượu và nghiêm túc với trò chơi, nếu không thì đó sẽ là dấu chấm hết cho tôi."
Vào ngày 24 tháng 5 năm 1927, Maranville quyết tâm cai rượu. Cuối năm đó, tổng giám đốc của Cardinals, Branch Rickey, tuyên bố: "Walter là một người đàn ông đã thay đổi... rõ ràng là anh ấy đã nhìn thấy ánh sáng... sự thay đổi trong thái độ của anh ấy thật đáng kinh ngạc." Được St. Louis gọi lên vào cuối năm, ông đã chơi chín trận cho họ vào cuối tháng 9 trước khi dành cả năm 1928 trong đội hình của họ.
Ông đã bỏ lỡ toàn bộ mùa giải 1934 sau khi bị gãy xương fibula và tibia ở chân trái trong một vụ va chạm tại sân nhà trong một trận đấu biểu diễn. Maranville đã cố gắng trở lại vào năm 1935 nhưng không thể chơi như trước.
3. Sự nghiệp huấn luyện viên
Sau khi kết thúc sự nghiệp thi đấu ở Major League, Maranville chuyển sang làm huấn luyện viên. Ông từng có thời gian làm huấn luyện viên ở các giải đấu nhỏ cho các đội như Montreal Royals, tại Albany, Elmira, và Springfield, Massachusetts. Với Elmira vào năm 1936, ông vừa là cầu thủ vừa là huấn luyện viên, đạt tỷ lệ đánh bóng .323 trong 123 trận.
Sau khi huấn luyện ở các giải đấu nhỏ, Maranville được các chương trình bóng chày trẻ ở Detroit và Rochester tuyển dụng. Sau đó, ông chỉ đạo một trường bóng chày do tờ báo New York Journal-American tài trợ. Ông rất thích làm việc với trẻ em và luôn cảnh báo chúng không nên đi theo lối sống hoang dã mà ông đã từng theo đuổi trong giai đoạn đầu sự nghiệp của mình.
4. Đời tư
Maranville được biết đến với tính cách đặc biệt và hài hước, thường xuyên có những hành vi giải trí trên sân đấu, khiến ông được gọi là "chú hề" của làng bóng chày. Tuy nhiên, cuộc đời ông cũng có những thử thách cá nhân, đặc biệt là cuộc chiến chống lại chứng nghiện rượu. Quyết định cai rượu vào năm 1927 đã đánh dấu một bước ngoặt tích cực trong cuộc sống cá nhân của ông, được chính tổng giám đốc đội bóng của ông công nhận là một sự thay đổi đáng kể. Sau khi giải nghệ, ông tích cực tham gia vào các hoạt động bóng chày trẻ, thường xuyên khuyên nhủ các cầu thủ trẻ tránh đi vào vết xe đổ lối sống buông thả mà ông từng trải qua.
5. Cái chết
Walter "Rabbit" Maranville qua đời do một cơn nhồi máu cơ tim nghiêm trọng ngay sau nửa đêm ngày 6 tháng 1 năm 1954, tại nhà riêng ở Woodside, New York. Ông hưởng thọ 62 tuổi. Cái chết của ông diễn ra gần như ngay lập tức. Ông được an táng tại Khu Holy Family B, Lô 206, Mộ 5, của Nghĩa trang St. Michael ở Springfield, Massachusetts.
6. Vinh danh và Di sản
Maranville được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Bóng chày vào năm 1954, sáu tháng sau khi ông qua đời, cùng với Bill Terry và Bill Dickey. Ông được chọn vào Đại sảnh Danh vọng vào năm thứ 14 đủ điều kiện, là thời gian chờ đợi dài nhất đối với một cầu thủ được bầu chọn bởi các nhà báo vào thời điểm đó.
Di sản của ông đối với làng bóng chày chủ yếu nằm ở khả năng phòng ngự xuất sắc và sự nghiệp thi đấu bền bỉ kéo dài kỷ lục. Ông được nhớ đến không chỉ như một cầu thủ tài năng mà còn là một nhân vật độc đáo, mang lại tiếng cười và sự giải trí cho người hâm mộ trong suốt kỷ nguyên của mình. Dù sau này có những cầu thủ phá vỡ kỷ lục về số mùa giải thi đấu, Maranville vẫn là một biểu tượng về sự kiên trì và tinh thần vượt khó trong bóng chày.