1. Cuộc đời
Naoya Shimada đã trải qua một hành trình đáng chú ý từ thời thơ ấu đến khi trở thành một nhân vật có ảnh hưởng trong làng bóng chày Nhật Bản, đặc biệt là thông qua sự nghiệp học đường và sự trở lại với vai trò huấn luyện.
1.1. Thời thơ ấu và thời đi học
Shimada bắt đầu chơi bóng chày từ năm lớp một tiểu học. Trong những năm học tại trường trung học cơ sở Kashiwa Shiritsu Tomise, ông đã đảm nhiệm vị trí vận động viên ném bóng chủ lực. Khi vào Trường Trung học Joso Gakuin, ông đã thử sức ở nhiều vị trí khác nhau như người bắt bóng, cầu thủ nội tuyến và cầu thủ ngoại tuyến trước khi trở lại với vai trò vận động viên ném bóng.
Năm 1987, ông cùng đội Joso Gakuin tham dự Giải bóng chày trung học phổ thông chọn lọc quốc gia (Giải mùa xuân Koshien) lần thứ 59 và Giải vô địch bóng chày trung học phổ thông quốc gia (Giải mùa hè Koshien) lần thứ 69. Dù đây là lần đầu tiên Joso Gakuin tham dự Koshien mùa xuân, đội đã bị loại ngay ở vòng đầu tiên. Vào mùa hè cùng năm, đội của Shimada đã lọt vào trận chung kết nhưng để thua Trường Trung học PL Gakuen, khiến ông trở thành vận động viên ném bóng á quân. Đáng chú ý, vận động viên ném bóng đối thủ trong trận chung kết đó là Hiroki Nomura của PL Gakuen, người sau này trở thành đồng đội của Shimada tại Yokohama Taiyo Whales.
2. Sự nghiệp cầu thủ
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của Naoya Shimada kéo dài qua nhiều đội bóng, nơi ông đã có những đóng góp đáng kể, đặc biệt là trong vai trò vận động viên ném bóng trung tuyến.
2.1. Gia nhập chuyên nghiệp và giai đoạn đầu
Vào cuối năm 1987, Shimada gia nhập Nippon Ham Fighters thông qua hình thức tuyển chọn không qua draft. Ông cùng với Shigehiro Shibakusa được biết đến với biệt danh "SS Combo". Ngày 8 tháng 10 năm 1989, ông có trận ra mắt đội một trong trận đấu với Osaka Kintetsu Buffaloes.
Tuy nhiên, năm 1991, ông có thành tích 0 thắng 10 thua tại đội hai (giải Eastern League). Cuối mùa giải đó, ông được chuyển đến Yokohama Taiyo Whales trong một vụ trao đổi cầu thủ với Ken Ishikawa.
2.2. Thời kỳ Yokohama
Sau khi chuyển đến Yokohama Taiyo Whales (sau này đổi tên thành Yokohama BayStars), Shimada bắt đầu có những bước tiến đáng kể trong sự nghiệp. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1992, ông giành chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp trong trận đấu với Chunichi Dragons. Năm 1993, ông ghi dấu ấn với trận đấu trọn vẹn không để lọt điểm đầu tiên của mình.
Năm 1994, Shimada bứt phá mạnh mẽ với vai trò vận động viên ném bóng trung tuyến, ra sân 50 trận và giành được 9 chiến thắng, ngang bằng với số trận thắng nhiều nhất đội. Năm 1995, ông tiếp tục duy trì phong độ cao, giành 10 chiến thắng, lần đầu tiên đạt được con số hai chữ số và là vận động viên ném bóng có số trận thắng nhiều nhất đội trong hai năm liên tiếp, một điều hiếm thấy đối với một vận động viên ném bóng cứu thua. Đáng chú ý, vào ngày 13 tháng 5 năm 1994, trong trận đấu với Yomiuri Giants tại Sân vận động Yokohama, Shimada đã khởi đầu chuỗi 9 cú đánh liên tiếp của đội, một kỷ lục của bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản vào thời điểm đó, bằng một cú đánh nội tuyến. Khi đến lượt đánh thứ hai sau khi các cầu thủ khác đã hoàn thành một vòng, ông đã cố tình đánh trượt để tránh chấn thương.
Năm 1996, do dịch sởi Đức bùng phát trong toàn đội, khiến các vận động viên ném bóng xuất phát bị thiếu hụt, Shimada được yêu cầu trở lại vị trí xuất phát nhưng gặp khó khăn trong mùa giải. Năm 1997, do Hideki Igarashi, vận động viên ném bóng thiết lập chính của đội, bị chấn thương và không thể ra sân vào đầu mùa giải, Shimada đã được chọn thay thế và giành được danh hiệu cá nhân đầu tiên trong sự nghiệp: Vận động viên ném bóng trung tuyến xuất sắc nhất. Năm 1998, với vai trò chủ chốt trong đội hình vận động viên ném bóng trung tuyến, ông đã góp phần quan trọng vào chức vô địch Central League sau 38 năm và chức vô địch Japan Series của Yokohama.
Năm 1999, dù có một mùa giải không mấy thành công, Shimada vẫn lần đầu tiên được chọn tham dự Giải đấu All-Star bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản nhờ sự đánh giá cao của huấn luyện viên trưởng Hiroshi Gondo về những đóng góp của ông cho đội vào các năm 1997 và 1998. Sau mùa giải 2000, ông trở thành cầu thủ tự do và chuyển đến Tokyo Yakult Swallows.
2.3. Thời kỳ Yakult và Kintetsu
Năm 2001, Shimada tiếp tục đóng góp với vai trò vận động viên ném bóng trung tuyến, giúp Yakult Swallows giành chức vô địch giải đấu và Japan Series. Sau mùa giải 2002, ông một lần nữa trở thành cầu thủ tự do và chuyển đến Osaka Kintetsu Buffaloes.
Năm 2003, Shimada chỉ ra sân 3 trận ở đội một và quyết định giải nghệ sau mùa giải đó.
3. Sự nghiệp huấn luyện
Sau khi kết thúc sự nghiệp thi đấu, Naoya Shimada đã chuyển sang con đường huấn luyện, để lại dấu ấn ở cả các giải đấu độc lập và bóng chày chuyên nghiệp, cũng như trở về với bóng chày học đường.
3.1. Huấn luyện tại các giải đấu độc lập
Năm 2004, Shimada trở lại đội bóng cũ Nippon Ham với vai trò vận động viên ném bóng tập luyện. Từ năm 2007 đến 2010, ông làm huấn luyện viên ném bóng cho Shinano Grandserows tại Baseball Challenge League (BC League).
Năm 2011, ông chuyển đến Tokushima Indigo Socks thuộc Shikoku Island League Plus (Shikoku IL) với vai trò huấn luyện viên ném bóng. Từ năm 2012, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của đội. Trong năm thứ hai làm huấn luyện viên trưởng (2013), ông đã dẫn dắt đội giành chức vô địch giai đoạn sau và sau đó là chức vô địch tổng hợp năm, lần đầu tiên sau hai năm cho Tokushima. Đây là trường hợp thứ hai trong lịch sử giải đấu mà một huấn luyện viên không có kinh nghiệm huấn luyện tại NPB dẫn dắt đội giành chức vô địch tổng hợp năm.
Năm 2014, Tokushima Indigo Socks dưới sự dẫn dắt của Shimada đã giành chức vô địch cả giai đoạn đầu và giai đoạn sau, đạt được ba chức vô địch liên tiếp. Họ cũng giành chiến thắng trong Grand Championship trước Gunma Diamond Pegasus của BC League. Ngoài ra, đội còn giành chức vô địch "Softbank Cup" (một giải đấu giao hữu với đội ba của Fukuoka SoftBank Hawks) trong hai năm liên tiếp. Đây là lần đầu tiên một đội bóng giành tất cả các danh hiệu: vô địch giai đoạn, vô địch tổng hợp năm, Grand Championship và Softbank Cup.
3.2. Huấn luyện tại NPB và trường trung học
Vào các năm 2016 và 2017, Shimada làm huấn luyện viên ném bóng cho đội hai của Yokohama DeNA BayStars, đội bóng cũ của ông. Sau khi rời vị trí huấn luyện viên, ông vẫn tiếp tục làm việc cho DeNA với tư cách là nhân viên hợp đồng trong bộ phận xúc tiến bóng chày và kinh doanh trường học cho đến mùa giải 2019. Cùng năm đó, ông còn làm huấn luyện viên cho đội trẻ DeNA trong Giải đấu trẻ NPB 12 đội.
Ngày 16 tháng 3 năm 2020, Shimada được Hiệp hội bóng chày sinh viên Nhật Bản chứng nhận đủ điều kiện để huấn luyện các đội bóng chày cấp trung học và đại học. Do đó, vào ngày 20 tháng 3 cùng năm, ông trở lại Trường Trung học Joso Gakuin, trường cũ của mình, với vai trò huấn luyện viên ném bóng. Ngày 1 tháng 4, ông cũng được tuyển dụng làm nhân viên của trường. Sau khi đội bóng chày Joso Gakuin bị loại ở vòng 3 của "Giải bóng chày trung học tỉnh Ibaraki mùa hè 2020" (giải đấu thay thế cho Giải vô địch bóng chày trung học phổ thông quốc gia lần thứ 102 bị hủy do Đại dịch COVID-19), Shimada được thăng chức làm huấn luyện viên trưởng vào ngày 26 tháng 7. Trận đấu đầu tiên của ông với tư cách huấn luyện viên trưởng là trận giao hữu với đội bóng chày Trường Trung học Teikyo Nagaoka, do Shigehiro Shibakusa (đồng đội cũ của ông tại Nippon Ham) làm huấn luyện viên trưởng, diễn ra vào ngày 9 tháng 8 tại sân của Joso Gakuin.
Đội hình mới của Joso Gakuin dưới sự dẫn dắt của Shimada đã giành vị trí á quân tại Giải đấu khu vực Kanto mùa thu 2020. Vào ngày 24 tháng 3 năm 2021, trong trận đấu đầu tiên tại Giải bóng chày trung học phổ thông chọn lọc quốc gia lần thứ 93 (Koshien mùa xuân), đội đã đối đầu với Trường Trung học Tsuruga Kehi. Trận đấu kéo dài đến hết hiệp 12 mà không phân thắng bại, dẫn đến việc áp dụng luật tie-break lần đầu tiên trong lịch sử giải đấu này ở hiệp 13. Kết quả, Joso Gakuin đã giành chiến thắng 9-5, đánh dấu chiến thắng đầu tiên của Shimada tại Sân vận động Koshien với tư cách huấn luyện viên trưởng.
4. Thành tích và kỷ lục chi tiết
Phần này cung cấp cái nhìn chi tiết về các số liệu thống kê, giải thưởng, kỷ lục và lịch sử số áo của Naoya Shimada trong suốt sự nghiệp bóng chày của mình.
4.1. Thành tích ném bóng theo năm
Dưới đây là số liệu thống kê ném bóng của Naoya Shimada tại Nippon Professional Baseball (NPB):
Năm | Đội | Trận | Khởi đầu | Hoàn thành | Shutout | Không điểm | Thắng | Thua | Save | Giữ | Tỷ lệ thắng | Số người đối mặt | Số hiệp | Số lần đánh trúng | Home run | Số lần đi bộ | Số lần đánh chết | Số lần ném bóng hoang dã | Số lần Strikeout | Số lần chạm bóng | Số lần đánh đôi | Số lần chạy cho phép | Số lần chạy kiếm được | ERA | WHIP |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1989 | Nippon Ham | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | -- | ---- | 1 | 0.1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0.00 | 0.00 |
1990 | Nippon Ham | 20 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | -- | .000 | 190 | 39.2 | 50 | 6 | 23 | 3 | 4 | 23 | 1 | 0 | 34 | 25 | 5.67 | 1.84 |
1992 | Taiyo Yokohama | 14 | 5 | 1 | 0 | 0 | 2 | 2 | 0 | -- | .500 | 202 | 46.0 | 45 | 4 | 23 | 4 | 1 | 28 | 1 | 0 | 25 | 23 | 4.50 | 1.48 |
1993 | Taiyo Yokohama | 16 | 8 | 1 | 1 | 0 | 3 | 4 | 0 | -- | .429 | 270 | 60.2 | 67 | 1 | 25 | 1 | 1 | 40 | 4 | 0 | 27 | 18 | 2.67 | 1.52 |
1994 | Taiyo Yokohama | 50 | 2 | 0 | 0 | 0 | 9 | 9 | 3 | -- | .500 | 491 | 116.2 | 122 | 9 | 31 | 2 | 4 | 68 | 4 | 1 | 53 | 50 | 3.86 | 1.31 |
1995 | Taiyo Yokohama | 46 | 0 | 0 | 0 | 0 | 10 | 4 | 0 | -- | .714 | 322 | 75.2 | 82 | 10 | 23 | 3 | 2 | 51 | 3 | 0 | 34 | 30 | 3.57 | 1.39 |
1996 | Taiyo Yokohama | 38 | 3 | 0 | 0 | 0 | 3 | 3 | 0 | -- | .500 | 300 | 65.1 | 82 | 6 | 32 | 3 | 2 | 48 | 3 | 0 | 34 | 28 | 3.86 | 1.74 |
1997 | Taiyo Yokohama | 60 | 0 | 0 | 0 | 0 | 5 | 7 | 1 | -- | .417 | 350 | 84.2 | 83 | 5 | 23 | 2 | 2 | 55 | 1 | 0 | 26 | 24 | 2.55 | 1.25 |
1998 | Taiyo Yokohama | 54 | 0 | 0 | 0 | 0 | 6 | 2 | 1 | -- | .750 | 262 | 61.0 | 59 | 5 | 24 | 2 | 5 | 33 | 0 | 0 | 18 | 16 | 2.36 | 1.36 |
1999 | Taiyo Yokohama | 39 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 4 | 4 | -- | .000 | 198 | 42.0 | 55 | 7 | 15 | 3 | 1 | 32 | 5 | 0 | 29 | 25 | 5.36 | 1.67 |
2000 | Taiyo Yokohama | 21 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | -- | 1.000 | 96 | 23.0 | 23 | 3 | 9 | 0 | 1 | 10 | 1 | 1 | 12 | 12 | 4.70 | 1.39 |
2001 | Yakult | 53 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | -- | .000 | 198 | 46.1 | 45 | 5 | 18 | 2 | 4 | 26 | 0 | 0 | 18 | 15 | 2.91 | 1.36 |
2002 | Yakult | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | -- | ---- | 13 | 2.2 | 4 | 0 | 1 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 3 | 3 | 10.13 | 1.88 |
2003 | Kintetsu | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | -- | ---- | 13 | 1.2 | 6 | 2 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 4 | 4 | 21.60 | 4.80 |
Tổng cộng: 14 năm | 419 | 20 | 2 | 1 | 0 | 39 | 38 | 9 | -- | .506 | 2906 | 665.2 | 723 | 63 | 249 | 25 | 27 | 417 | 23 | 2 | 317 | 273 | 3.69 | 1.46 |
- Lưu ý: Đội Taiyo (Yokohama Taiyo Whales) đã đổi tên thành Yokohama (Yokohama BayStars) vào năm 1993.
4.2. Các giải thưởng chính
- Vận động viên ném bóng trung tuyến xuất sắc nhất: 1 lần (1997)
4.3. Các kỷ lục chính
- Lần ra sân đầu tiên: Ngày 8 tháng 10 năm 1989, trong trận đấu thứ 26 với Osaka Kintetsu Buffaloes tại Sân vận động Fujidera, ông vào sân từ hiệp 8 với 2 out và là vận động viên ném bóng cứu thua thứ 3, hoàn thành 1/3 hiệp không để lọt điểm.
- Lần Strikeout đầu tiên: Cùng trận đấu trên, đối với Herman Rivera ở hiệp 8.
- Lần khởi đầu đầu tiên: Ngày 28 tháng 4 năm 1990, trong trận đấu thứ 4 với Fukuoka Daiei Hawks tại Tokyo Dome, ném 5 hiệp và để lọt 2 điểm.
- Chiến thắng đầu tiên / Chiến thắng khởi đầu đầu tiên: Ngày 23 tháng 8 năm 1992, trong trận đấu thứ 20 với Chunichi Dragons tại Sân vận động Yokohama, ném 7 hiệp và để lọt 2 điểm.
- Chiến thắng trận đấu trọn vẹn đầu tiên: Ngày 23 tháng 9 năm 1992, trong trận đấu thứ 25 với Chunichi Dragons tại Sân vận động Nagoya, ném 9 hiệp và để lọt 4 điểm.
- Chiến thắng trận đấu trọn vẹn không để lọt điểm đầu tiên: Ngày 5 tháng 6 năm 1993, trong trận đấu thứ 8 với Chunichi Dragons tại Sân vận động Nagoya.
- Save đầu tiên: Ngày 25 tháng 5 năm 1994, trong trận đấu thứ 8 với Yakult Swallows tại Sân vận động Meiji Jingu, vào sân từ hiệp 6 và là vận động viên ném bóng cứu thua thứ 2, hoàn thành 4 hiệp không để lọt điểm.
- Tham dự Giải đấu All-Star bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản: 1 lần (1999)
4.4. Số áo
- 47 (1988 - 1991)
- 48 (1992 - 2000)
- 12 (2001 - 2002)
- 30 (2003)
- 68 (2004 - 2005)
- 91 (2006)
- 19 (2007 - 2010)
- 77 (2011 - 2014)
- 81 (2015)
- 84 (2016 - 2017)