1. Tiểu sử
Võ Đình có cuộc đời hoạt động cách mạng đầy biến động, gắn liền với các phong trào giải phóng dân tộc ở cả Triều Tiên và Trung Quốc, trải qua nhiều vị trí quan trọng trong quân đội và chính phủ trước khi bị thanh trừng và qua đời.
1.1. Thời niên thiếu và xuất thân
Võ Đình sinh năm 1904 tại Chongjin, tỉnh Bắc Hamgyong, trong một gia đình địa chủ giàu có. Ông là con trai của Kim Ki-Jun (còn được gọi là Kim Hyeon-geuk) và bà Jong-san. Tên khai sinh của ông được cho là Kim Mu-chong, nhưng theo lời khai của người thân, tên thật của ông là Kim Byong-hui. Ngoài ra, ông còn có các bút danh khác như Võ Đĩnh (武挺) và Ngô Đĩnh (吴挺). Một số tài liệu đưa ra các giả thuyết khác về năm sinh của ông là 1902 hoặc 1905. Ban đầu, khu vực ông sinh ra là xã Yongseong, huyện Gyeongseong, nhưng sau đó vào tháng 3 năm 1940, nó được sáp nhập vào Thành phố Chongjin, dẫn đến tranh cãi về nơi sinh của ông là huyện Gyeongseong hay thành phố Chongjin.
Tính cách nóng nảy của Võ Đình được cho là thừa hưởng từ người cha Kim Ki-Jun, một địa chủ lớn, tính tình thuần hậu nhưng đôi khi cũng rất vội vàng. Gia đình ông sở hữu khối tài sản lớn, khoảng 13.00 K JPY (giá trị vào thời đó), đảm bảo cuộc sống không gặp khó khăn. Ông theo học tại Trường Tiểu học Cheonma từ năm 1910, tốt nghiệp năm 1916 và tiếp tục học tại Trường Tiểu học Công lập Nanam. Sau đó, ông bỏ học tại Trường Nông nghiệp Gyeongseong và chuyển đến Trường Trung học Gyeongsin ở Seoul.
Vào năm 1919, ông tham gia Phong trào 1 tháng 3 khi đang học trung học. Năm 1920, ông kết hôn với một phụ nữ Triều Tiên tại quê nhà Gyeongseong, tỉnh Bắc Hamgyong, theo sự sắp đặt của gia đình. Một năm sau, con trai ông, Jeong-sin, chào đời. Tuy nhiên, sau này khi ở Trung Quốc, ông đã ly dị người vợ đầu và tái hôn với một phụ nữ Trung Quốc tên là Đặng Kỳ (腾绮Chinese). Tháng 10 năm 1919, ông nhập học Trường Trung học Cao cấp Trung ương. Tháng 3 năm 1922, ông bị đuổi học và bắt đầu làm công việc lao động phổ thông. Tháng 4 cùng năm, ông nhập học khoa đêm của Hội Thanh niên Kitô giáo Gyeongseong, nơi ông học tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật và tiếng Anh. Tháng 2 năm 1923, ông gia nhập Hội Thanh niên Gyeongseong và tại đây, ông tiếp xúc với tư tưởng cộng sản thông qua các cán bộ như Yi Yeong. Tháng 3 năm 1923, ông rời Hội Thanh niên Kitô giáo Gyeongseong, vượt sông Áp Lục Giang sang Mãn Châu và cuối cùng đến Bắc Kinh, Trung Quốc. Tháng 4 cùng năm, ông nhập học khóa ngắn hạn pháo binh tại Trường Sĩ quan Bảo Định ở Bảo Định, tỉnh Hà Bắc.
Trong một lá thư tự thuật năm 1942, Võ Đình viết: "Tôi đã tham gia phong trào thanh niên và lao động ở Triều Tiên, bị đế quốc Nhật bắt giữ và phải vào tù ba lần. Trong tù, tôi phải chịu đủ mọi hình phạt tàn khốc, sau đó trốn thoát và lưu vong sang Trung Quốc. Sau khi đến Trung Quốc, tôi tham gia vào cuộc cách mạng lớn, và sau hai lần thất bại trong công việc, tôi lại phải vào tù rồi được trả tự do. Từ năm 1930 đến nay, tôi đã tham gia Hồng quân và tiến hành nhiều cuộc đấu tranh." Khi đó, cha ông là Kim Ki-Jun và gia đình cứ nghĩ ông sang Nhật Bản du học và đã gửi tiền qua bưu điện về Tokyo, nhưng số tiền đó đã bị trả lại. Việc ông lưu vong sang Trung Quốc sau đó đã khiến gia đình ông trở thành đối tượng bị giám sát đặc biệt.
1.2. Hoạt động tại Trung Quốc và Phong trào Độc lập
Sau khi tốt nghiệp khoa pháo binh của Trường Sĩ quan Bảo Định vào tháng 3 năm 1924, Võ Đình được bổ nhiệm làm Trung úy pháo binh trong quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc và được điều động vào đội quân của Diêm Tích Sơn. Đầu năm 1925, ông được thăng cấp Đại úy pháo binh và không lâu sau đó được đặc cách thăng lên Trung tá pháo binh. Tuy nhiên, cùng năm 1925, ông đến Bắc Kinh và gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc (có tài liệu khác cho rằng ông gia nhập tại Trương Gia Khẩu, Thượng Hải). Sau đó, ông xuống Thượng Hải, hoạt động tại chi bộ người Triều Tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trương Gia Khẩu rồi sang Thụy Kim, gia nhập Hồng quân (quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc) với quân hàm Đại úy. Từ đó, ông tham gia các trận chiến với quân Quốc dân Đảng với tư cách là sĩ quan pháo binh Hồng quân tại Thụy Kim, căn cứ giải phóng của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 1927, sau khi bị chính phủ Quốc dân Đảng phát lệnh bắt, ông phải ẩn mình và tham gia các hoạt động bí mật. Ông bị bắt ở Vũ Xương và bị tuyên án tử hình tại tòa án quân sự. Tuy nhiên, nhờ cuộc biểu tình yêu cầu trả tự do cho 10.000 sinh viên Trung Quốc và sự giúp đỡ của đồng đội, ông đã trốn thoát khỏi nhà tù và đến Thượng Hải. Năm 1929, khi ở Thượng Hải, ông bị bắt vì chỉ đạo cuộc bạo loạn của công nhân Thượng Hải từ phía sau, bị kết án 2 tháng tù và sau đó được trả tự do. Năm 1931, ông tham gia vào việc thành lập chính phủ lâm thời của Cộng hòa Xô viết Trung Hoa ở Thụy Kim.
Trong Nội chiến Quốc Cộng, Võ Đình cùng Mao Trạch Đông và các lãnh đạo khác của Đảng Cộng sản Trung Quốc tham gia Vạn lý Trường chinh (cuộc hành quân dài 25.000 dặm của Hồng quân) từ Thụy Kim đến Diên An. Ông là một trong số khoảng hơn 10 người Triều Tiên tham gia Trường chinh và là người duy nhất sống sót, từ đó khẳng định danh tiếng của mình trong cách mạng Trung Quốc. Năm 1937, ông trở thành Trưởng phòng Tác chiến của Tổng bộ Bát Lộ quân, và cuối năm đó, ông trở thành Đoàn trưởng Đoàn Pháo binh Bát Lộ quân, đơn vị pháo binh đầu tiên của Trung Quốc. Ông được Mao Trạch Đông và Chu Đức ca ngợi và động viên vì tài năng huấn luyện pháo thủ xuất sắc. Tháng 6 năm 1930, ông gia nhập quân đội của Bành Đức Hoài ở Dương Tân, Hồ Bắc. Trong trận giao tranh với quân Nhật, ông đã bắn 20 quả đạn pháo, trong đó 10 quả trúng xe tăng và tàu địch, khiến tàu địch phải rút lui. Từ đó, Võ Đình nổi tiếng là một anh hùng pháo binh huyền thoại của Hồng quân. Tháng 7 năm 1930, Hồng quân tổ chức đơn vị pháo binh sơn pháo ở Bình Giang, Hồ Nam, nhưng do tình hình hỗn loạn, cuối năm 1930, Võ Đình được bổ nhiệm làm Liên đoàn trưởng Liên đoàn pháo binh sơn pháo thứ ba.
Tháng 5 năm 1931, Bộ Tư lệnh Pháo binh Quân ủy Trung ương Hồng quân được thành lập ở Phì Đầu, Giang Tây. Do sai lầm của tư lệnh đầu tiên, tháng 6, Võ Đình trở thành Tư lệnh Pháo binh Quân ủy Trung ương Hồng quân thứ hai. Sau đó, ông trở thành Ủy viên Quân ủy Đảng Cộng sản Trung Quốc và giáo quan khoa pháo binh của Trường Đặc chủng Hồng quân. Năm 1934, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc thất bại trong cuộc chiến với quân Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và phải di chuyển từ Thụy Kim đến Diên An, Võ Đình, với tư cách là Ủy viên Quân ủy Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng tham gia vào cuộc Trường chinh của Hồng quân. Khi ở Bát Lộ quân, ông là sĩ quan pháo binh và chỉ huy Quân tình nguyện Triều Tiên thuộc Liên minh Tiên phong Dân tộc Triều Tiên (sau này là Liên minh Độc lập Triều Tiên) để tiến hành các hoạt động chống Nhật. Sau đó, ông được thăng chức Tư lệnh Pháo binh Bát Lộ quân và trở thành một nhân vật quan trọng của Phái Diên An. Ông từng là phụ tá cho Bành Đức Hoài khi ở Bát Lộ quân, và Bành Đức Hoài cũng là người đã sắp xếp cuộc hôn nhân thứ hai của ông. Năm 1936, ông hoàn thành khóa học cán bộ ngắn hạn tại Trường Đại học Lục quân Hồng quân, cơ sở huấn luyện quân sự của Hồng quân. Sau đó, ông trở thành Chủ nhiệm khoa pháo binh Trường Đặc chủng Hồng quân, rồi Trưởng khoa pháo binh, và hiệu trưởng thứ hai của Trường Đặc chủng. Năm 1937, ông trở thành Trưởng phòng Tác chiến của Tổng bộ Bát Lộ quân, và tham gia Chiến tranh Trung-Nhật năm 1937 với tư cách là Tư lệnh pháo binh Bát Lộ quân của Quân tình nguyện Nhân dân Trung Quốc. Cuối năm 1937, ông được thăng chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo binh Bát Lộ quân và sau đó trở thành Tư lệnh Pháo binh Bát Lộ quân. Tháng 1 năm 1938, ông trở thành Tư lệnh Pháo binh Bát Lộ quân, và mùa xuân năm 1940, ông dẫn dắt đơn vị pháo binh Bát Lộ quân tham gia Bách Đoàn Đại chiến chống lại quân Nhật đóng ở Hoa Bắc.
Năm 1939, ông cùng Choi Chang-ik tổ chức Liên minh Trung-Triều, một tổ chức hữu nghị có sự tham gia của các nhân vật Đảng Cộng sản Trung Quốc. Mùa thu năm 1940, ông bắt đầu tập hợp các sinh viên và cựu sinh viên người Triều Tiên từ Trường Đảng Trung ương và Đại học Quân chính kháng Nhật để tổ chức các nhóm thanh niên. Ngày 10 tháng 1 năm 1941, ông đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập "Liên hiệp Thanh niên Triều Tiên Hoa Bắc" gồm những người Triều Tiên. Năm 1942, ông làm rõ tính chất của Liên hiệp Thanh niên Triều Tiên Hoa Bắc và đổi tên thành "Liên minh Độc lập Triều Tiên Hoa Bắc". Tháng 10 năm 1941, ông tham gia vào Liên minh Chống Phát xít Các Dân tộc Phương Đông được thành lập ở Diên An, Trung Quốc. Tháng 7 năm 1941, ông tham gia thành lập chi bộ Hoa Bắc của Quân tình nguyện Triều Tiên tại Diên An. Giữa tháng 6 năm 1941 và tháng 4 năm 1942, khi một bộ phận của Quân tình nguyện Triều Tiên phản đối việc tham gia Chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc và chuyển sang Liên minh Độc lập Triều Tiên, ông đã tiếp nhận họ và mở rộng lực lượng.
Từ ngày 10 đến 14 tháng 7 năm 1942, ông tham gia Đại hội lần thứ hai của Liên hiệp Thanh niên Triều Tiên. Ngày 10 tháng 7, ông tham gia vào việc thành lập Liên minh Độc lập Triều Tiên (朝鮮獨立同盟), một tổ chức mở rộng của Liên hiệp Thanh niên Triều Tiên Hoa Bắc, và được bầu làm một trong những ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Liên minh Độc lập Triều Tiên cùng với Heo Jeong-suk và Choi Chang-ik. Ngày 14 tháng 7, khi các binh sĩ thuộc Liên hiệp Thanh niên Triều Tiên từ Thái Hành Sơn đến tỉnh Hà Bắc, cùng ngày đó, ông đã thành lập Quân tình nguyện Triều Tiên tại huyện Nhiếp, tỉnh Hà Bắc, cùng với Kim Du-bong và Park Hyo-sam, và nhậm chức Tổng tư lệnh. Tháng 11 năm 1942, ông thành lập Trường Cách mạng Thanh niên Triều Tiên Hoa Bắc và trở thành hiệu trưởng.
Trong thời gian ở Trung Quốc, ông tái hôn với một phụ nữ Trung Quốc tên là Đặng Kỳ, có một con gái tên là Yeon-ryeo sinh năm 1943 và một con trai tên là Yeon-jin sinh năm 1944. Tên của các con ông do Choe Yong-geon đặt. Ban đầu, họ nghĩ họ mang họ Võ nên đặt tên là Võ Yeon-ryeo và Võ Yeon-jin, nhưng sau đó đổi sang họ Đặng theo họ mẹ. Con trai Yeon-jin qua đời năm 1970 do ung thư ruột kết. Tháng 5 năm 1945, Võ Đình ly hôn với Đặng Kỳ trước khi trở về Triều Tiên.
1.3. Trở về Bắc Triều Tiên và Hoạt động sau Giải phóng
Sau Giải phóng Triều Tiên vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, Võ Đình trở về Bắc Triều Tiên trong khi Quân tình nguyện Triều Tiên vẫn tham gia Nội chiến Trung Quốc một cách riêng rẽ. Khi ông trở về Bắc Triều Tiên, Kim Nhật Thành cảm thấy khó chịu với danh tiếng và sự thiếu phục tùng của ông. Kim Nhật Thành luôn lo lắng, cảnh giác và coi Võ Đình là một đối thủ mạnh ngay từ đầu. Võ Đình đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên của Quân tình nguyện Triều Tiên và Liên minh Độc lập Triều Tiên trở về Bắc Triều Tiên. Tháng 10 năm 1945, Võ Đình, người không công nhận cả phe tái thiết Đảng Cộng sản Trung Quốc và phe Jangan trong Bộ Kinh tế và Thương mại, đã tổ chức một ủy ban riêng để thúc đẩy việc tái thiết Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bình Nhưỡng. Tháng 11 năm 1945, ông trực tiếp đến Ga Bình Nhưỡng để hỗ trợ việc định cư cho các binh sĩ Triều Tiên trở về quê hương. Sau đó, ông trở thành Bí thư thứ hai của Đảng Lao động Triều Tiên.
Từ cuối tháng 12 năm 1945, Kim Gu phản đối Hội nghị ba bên Moskva và tiến hành một phong trào phản đối mạnh mẽ. Ông trở thành thành viên của Ủy ban Tổng động viên Quốc gia Chống Ủy trị và Cải cách được thành lập vào ngày 30 tháng 12. Tuy nhiên, khi Đảng Lao động Triều Tiên quay sang ủng hộ Ủy trị, Võ Đình cũng thay đổi quan điểm.
Năm 1946, ông được chọn làm một trong các Phó Tư lệnh Pháo binh của Quân đoàn Huấn luyện Cán bộ An ninh khi ông ở Bình Nhưỡng vào tháng 2 cùng năm. Khi hoạt động ở Trung Quốc, ông được xếp vào nhóm thân Trung Quốc, nhưng ông đã gặp rắc rối với Trung Quốc về vấn đề Gián Đảo. Ông trở thành Bí thư thứ hai của Đảng Lao động Triều Tiên, nhưng năm 1946, Kim Nhật Thành đã giáng chức ông xuống làm chỉ huy pháo binh của tiểu đoàn huấn luyện cán bộ an ninh. Khi Tổng Tham mưu trưởng Đại đội, An Gil, qua đời vì bệnh, ông trở thành quyền Đại đội trưởng. Trong thời gian làm quyền, ông đã tự ý đưa ra các chỉ thị và phương hướng chỉ huy mà không tham khảo ý kiến Kim Nhật Thành, điều này đã khiến Kim Nhật Thành không hài lòng.
Võ Đình sau đó thường xuyên khoe khoang về kinh nghiệm và thành tích của mình, đối đầu với Kim Nhật Thành. Mặc dù danh tiếng và mối quan hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp ông tránh khỏi bị thanh trừng, nhưng Phái Diên An dưới sự lãnh đạo của ông, dù có kinh nghiệm thực chiến và lý luận quân sự vượt trội so với các phe phái khác ở Bắc Triều Tiên, vẫn bị Phái Mãn Châu được Liên Xô hậu thuẫn ngăn cản, không thể nắm giữ các vị trí quan trọng. Võ Đình là người cương trực và thiếu năng lực đấu tranh chính trị. Việc ông chỉ trích sự sùng bái cá nhân đã khiến vị thế của ông ngày càng xấu đi.
Ngày 10 tháng 5 năm 1947, trước sự hiện diện của Choe Yong-geon và các sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc khác, Kim Mu-chong đã nhấn mạnh: "Để đổi lấy máu của các binh sĩ Triều Tiên đã đổ trong Chiến tranh Mãn Châu, Triều Tiên phải giành được Gián Đảo". Dữ liệu do Bộ Thống nhất Hàn Quốc công bố cho thấy, từ năm 1948, đã có sự khác biệt về quan điểm giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc do vấn đề tranh chấp Núi Trường Bạch.
Sau khi Quân đội Nhân dân Triều Tiên được thành lập vào tháng 2 năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy số 2 của Quân đội Nhân dân và trở thành cán bộ an ninh quốc gia sau khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chính thức được thành lập. Ông tham gia vào cuộc đàm phán Nam-Bắc Triều Tiên lần thứ nhất vào tháng 4 năm 1948 và cuộc đàm phán liên Triều lần thứ hai được tổ chức tại Haeju vào tháng 8. Ngày 2 tháng 9, ông được bầu vào Hội đồng Nhân dân Tối cao khóa 1.
2. Chiến tranh Triều Tiên
Khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25 tháng 6 năm 1950, Võ Đình tham gia với tư cách là Phó Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Pháo binh Quân đội Nhân dân Triều Tiên và Tư lệnh Quân đoàn 2 của Quân đội Nhân dân Triều Tiên. Trong Chiến tranh Triều Tiên, Thiếu tướng Kim Gwang-hyop không thể đánh bại quân Hàn Quốc một cách hiệu quả, và sau đó bị cách chức. Võ Đình được cử làm Tư lệnh Quân đoàn 2 thay thế. Tuy nhiên, ông đã vi phạm lệnh bảo vệ Bình Nhưỡng và ngay lập tức ra lệnh rút lui đối với những người rút chạy trên Mặt trận Sông Nakdong, làm xấu đi không khí trong quân đội. Ông bị cách chức, từ chức quân đội, nhưng sau đó được phục hồi chức vụ. Ông trở thành Tư lệnh Phòng thủ Bình Nhưỡng, nhưng không thể ngăn chặn cuộc tấn công của quân Hàn Quốc và quân Liên Hợp Quốc, khiến Bình Nhưỡng thất thủ. Sau đó, ông bị giáng chức xuống làm Tư lệnh Quân đoàn 7 (có tài liệu nói Quân đoàn 6).
3. Suy thoái và Cái chết
Tháng 11 năm 1950, sau khi thất bại trước Lục quân Hoa Kỳ và rút lui từ Sông Nakdong, Võ Đình bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn 2 và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 7, chuyển đến Tỉnh Chagang. Tuy nhiên, khi tuần tra ở Manpo, tỉnh Chagang, ông bắt gặp một binh sĩ bị thương thuộc Bát Lộ quân (người thân cận với Võ Đình). Võ Đình ngay lập tức đưa binh sĩ này đến bệnh viện dã chiến và yêu cầu Lý Thanh Sơn (Li Chong-san), Trưởng ban Vệ sinh thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Pyongan kiêm quân y sĩ, điều trị. Tuy nhiên, Lý Thanh Sơn bận rộn và từ chối. Võ Đình đã đe dọa ông ta và Lý Thanh Sơn đã bị bắn chết tại chỗ. Vụ việc tại Bệnh viện Quân sự dã chiến Bắc Pyongan đã trở thành vấn đề lớn. Võ Đình ngay lập tức bị cách chức. Tại cuộc họp đặc biệt của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên được tổ chức tại Byeol-ri, huyện Manpo vào ngày 4 tháng 12 năm 1950, trước khi diễn ra Hội nghị toàn thể lần thứ 3 của Đảng, ông bị buộc tội không tuân lệnh, không trung thành với tổ chức chiến đấu, và giết người trái phép trong khi rút lui. Ông bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự Quân đội Nhân dân và bị thanh trừng. Ông bị tước quân tịch và phải lao động trong đơn vị tù nhân, làm đội trưởng đội công tác tại công trường xây dựng nhà hát ngầm dưới chân Đồi Moranbong ở Bình Nhưỡng.
Năm 1951, bệnh dạ dày mãn tính của ông trở nên trầm trọng. Với sự giúp đỡ của Bành Đức Hoài, ông đến Bắc Kinh, Trung Quốc, và được nhập viện tại Bệnh viện Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Tuy nhiên, ông được chẩn đoán là không còn khả năng chữa trị. Ông đã xin phép Chủ tịch Kim Nhật Thành để trở về Triều Tiên và được chấp thuận.
Tháng 10 năm 1951 (có tài liệu nói tháng 10 năm 1952), ông qua đời tại Bệnh viện Quân đội Nhân dân Triều Tiên số 39 (hoặc một bệnh viện quân sự ở ngoại ô Bình Nhưỡng). Nguyên nhân cái chết là do bệnh dạ dày, nhưng cũng có tin đồn rằng ông bị thanh trừng. Thi hài ông được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Yêu nước ở Bình Nhưỡng.
4. Di sản và Đánh giá
Cái chết của Kim Mu-chong đồng nghĩa với sự sụp đổ của Phái Diên An, một trong những trụ cột quyền lực ở Bắc Triều Tiên. Sau khi Kim Mu-chong qua đời vào năm 1952, Phái Diên An do ông lãnh đạo đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong Sự kiện bè phái tháng 8 (1956) và cuộc thanh trừng Choi Chang-ik năm 1958. Kể từ đó, chế độ độc tài một người của Kim Nhật Thành được thiết lập.
4.1. Đánh giá tích cực
Mặc dù bị thất sủng, Kim Nhật Thành vẫn ca ngợi các hoạt động của Võ Đình trong hồi ký "Thế kỷ cùng đi". Hồi ký này mô tả vai trò to lớn của ông trong phong trào độc lập ở Hoa Bắc và những thành tựu của ông trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo hồi ký, sau Chiến tranh Triều Tiên, Võ Đình bị chỉ trích và từ chức quân đội, nhưng khi ông lâm bệnh, ông đã được điều trị đặc biệt ở Trung Quốc và có một tang lễ long trọng. Ông được truy tặng quân hàm Đại tướng Lục quân Quân đội Nhân dân Triều Tiên, Bộ trưởng Quốc phòng, và Huân chương Quốc kỳ hạng nhất. Mặc dù sau đó ông bị hạ cấp sau vụ Yun Gong-heum và Sự kiện bè phái tháng 8, ông đã được phục hồi danh dự vào năm 1994 và được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Yêu nước Shinmi-ri ở Bình Nhưỡng.
4.2. Phê bình và Tranh cãi
Trong Bát Lộ quân, Võ Đình được đánh giá cao là một chuyên gia về pháo binh. Tuy nhiên, Joo Young-bok đã viết về Võ Đình rằng ông "cương nghị, lạnh lùng, và thường xuyên đối xử thô bạo với cấp dưới, gọi ai cũng là 'đồ chó con' hay 'đồ hạ tiện'. Bát Lộ quân có khẩu hiệu 'cấp trên phải yêu thương binh sĩ', nhưng không hiểu Võ Đình đã học được gì ở Trung Quốc." Joo Young-bok còn cho rằng cách ông quát mắng hoàn toàn giống với các chỉ huy chiến trường của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trước đây. Yu Seong-cheol miêu tả Võ Đình là một người có phong cách quân nhân điển hình, phóng khoáng và hào hiệp, nhưng cũng có nhược điểm là thường xuyên có thái độ hống hách.
Tháng 11 năm 1945, khi Quân tình nguyện Triều Tiên đang ở Thẩm Dương, họ bị không quân Trung Quốc tấn công. Lúc đó, Võ Đình chỉ đưa những người thân cận của mình và rút khỏi Thẩm Dương bằng xe tải. Sự việc này đã khiến Võ Đình mất đi sự tín nhiệm trong Phái Diên An. Trong thời gian hoạt động ở Diên An, ông đã mâu thuẫn với Choi Chang-ik vì những khác biệt về phương hướng. Ông cũng không tin tưởng sâu sắc vào Kim Du-bong, người đến từ Trùng Khánh, và cạnh tranh sự tín nhiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc với Pak Il-u. Mối quan hệ giữa các lãnh đạo như vậy đã khiến Phái Diên An thiếu sự đoàn kết và được cho là nguyên nhân dẫn đến thất bại và sự thanh trừng của họ bởi Kim Nhật Thành. Các sĩ quan Quân đội Nhân dân xuất thân từ Quân tình nguyện Triều Tiên làm chứng rằng Võ Đình thường cố gắng tránh sự can thiệp của cố vấn Liên Xô và thường khoe khoang kỹ năng pháo kích của mình trước mặt họ. Họ kể rằng, tại hiện trường, khi các cố vấn quan sát, ông thường nhắm một mắt, duỗi ngón cái để ngắm mục tiêu rồi bắn đại bác, và luôn bách phát bách trúng.
5. Đời tư
Trong thời gian ở Trung Quốc, Võ Đình đã ly hôn với người vợ đầu và tái hôn với một phụ nữ Trung Quốc tên là Đặng Kỳ (腾绮Chinese). Tuy nhiên, ông đã ly hôn với Đặng Kỳ trước khi trở về Triều Tiên vào năm 1945, và Đặng Kỳ sau đó đã tái hôn với một người đàn ông Trung Quốc. Sau khi trở về Triều Tiên, ông tái hôn lần thứ ba với một phụ nữ Triều Tiên tên là Kim Yeong-suk.
Võ Đình có các thành viên gia đình sau:
- Cha: Kim Ki-Jun (金基俊)
- Mẹ: Jong-san (宗山)
- Em trai: Kim In-dong (金仁東)
- Vợ đầu: Không rõ tên
- Con trai: Kim Jeong-sin (金正新, mất trước năm 1945)
- Vợ hai: Đặng Kỳ (腾绮Chinese, ? - 1982), người Trung Quốc
- Con gái: Đặng Yeon-ryeo (등연려Korean, sinh năm 1943), hiện sống ở Bắc Kinh
- Con trai: Đặng Yeon-jin (등연진Korean, 1944 - 1970)
- Vợ ba: Kim Yeong-suk, người Triều Tiên, tái hôn sau Giải phóng
- Anh vợ (anh trai của Đặng Kỳ): Teng Daiyuan (滕代远Chinese)