1. Sự nghiệp amateur và thời niên thiếu
Jerrod Riggan đã có một sự nghiệp thể thao đa năng ở cấp độ trung học và đại học, thể hiện tài năng ở cả bóng chày và bóng rổ trước khi chuyển sang thi đấu chuyên nghiệp.
1.1. Thi đấu trung học và đại học
Riggan theo học Trường Trung học Brewster ở Brewster, Washington, tốt nghiệp năm 1992. Tại đây, ông chơi cả bóng chày và bóng rổ, đồng thời giữ chức chủ tịch lớp.
Sau trung học, Riggan theo học Edmonds Community College, nơi ông là hậu vệ đánh chặn và cầu thủ ném bóng xuất phát cho đội bóng chày của trường, đồng thời là hậu vệ ném bóng cho đội bóng rổ. Tại Edmonds, Riggan từng bị một cú đánh bóng thẳng vào đầu và phải đeo mũ bảo hiểm đánh bóng khi ném bóng trong năm tiếp theo. Riggan tiếp tục sự nghiệp bóng chày đại học tại Đại học bang San Diego. Là sinh viên năm cuối tại San Diego State, ông là đồng đội trưởng cùng với Travis Lee.
1.2. Tuyển chọn tài năng
Riggan lần đầu tiên được chọn ở vòng 13 của kỳ Tuyển chọn cầu thủ Major League Baseball năm 1995 bởi đội Florida Marlins nhưng đã không ký hợp đồng. Sau đó, ông được đội California Angels chọn ở vòng 8 của kỳ Tuyển chọn cầu thủ Major League Baseball năm 1996.
2. Sự nghiệp chuyên nghiệp
Sự nghiệp bóng chày chuyên nghiệp của Jerrod Riggan trải dài qua nhiều đội bóng ở cả Major League Baseball và Nippon Professional Baseball, với những thăng trầm đáng chú ý.
2.1. Major League Baseball (MLB)
Sau hai năm thành công vừa phải với vai trò cầu thủ ném bóng xuất phát trong hệ thống giải đấu nhỏ của đội California Angels, Riggan được thông báo trong Huấn luyện mùa xuân năm 1998 rằng Angels sẽ giáng cấp ông để chuyển đổi sang vai trò cầu thủ ném bóng cứu thua. Riggan đã yêu cầu được giải phóng hợp đồng và Angels đã đình chỉ ông vô thời hạn. Cuối cùng, Angels đồng ý giải phóng Riggan vào tháng 4 năm 1998. Sau đó, ông ký hợp đồng với New York Mets sau khi thấy một quảng cáo trên tờ The Wenatchee World về một buổi thử việc mở tại Yakima, Washington.
Riggan lần đầu tiên được gọi lên đội hình chính vào tháng 8 năm 2000 sau chấn thương của cầu thủ ném bóng cứu thua John Franco của Mets. Mets dự định bổ sung Eric Cammack vào đội hình nhưng anh ấy không thể đến do thời tiết xấu ở Norfolk, Virginia. Riggan, người đang chơi cho Binghamton Mets vào thời điểm đó, không gặp vấn đề tương tự. Ông ra mắt Major League vào ngày 29 tháng 8, ném hai hiệp cứu thua không cho phép điểm trước Houston Astros. Ngày hôm sau, ông bị giáng cấp xuống Triple-A và được thay thế trong đội hình bởi Timo Perez. Ông không xuất hiện trong một trận đấu Major League nào khác trong mùa giải đó.
Riggan bắt đầu mùa giải 2001 ở các giải đấu nhỏ nhưng đã có bốn lần được triệu tập lên đội hình Major League chỉ trong nửa đầu mùa giải: 28-30 tháng 4, 1-17 tháng 5, 27 tháng 5 - 6 tháng 6 và 24-25 tháng 6. Vào ngày 22 tháng 7, ông được triệu tập lần thứ năm để thay thế cầu thủ ném bóng Donne Wall trong đội hình. Ông trở thành một thành viên thường xuyên của bullpen của Mets trong phần còn lại của mùa giải. Ông giành chiến thắng Major League đầu tiên vào ngày 18 tháng 8 năm 2001, ném một hiệp hoàn hảo trước Los Angeles Dodgers tại Dodger Stadium. Theo Riggan, các quan chức đội bóng đã nói với ông rằng ông đã được nhắc đến trong các cuộc đàm phán trao đổi cầu thủ nhiều lần trong mùa giải 2001 nhưng đội bóng đã phủ quyết những đề nghị đó vì họ không muốn chia tay ông.
Mặc dù vậy, vào ngày 11 tháng 12 năm 2001, ông được trao đổi sang Cleveland Indians cùng với Alex Escobar, Matt Lawton và các cầu thủ sẽ được công bố sau đó, để đổi lấy Roberto Alomar (người sau này được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Bóng chày Quốc gia), Mike Bacsik và một cầu thủ giải đấu nhỏ. Tổng giám đốc của Indians, Mark Shapiro, sau đó nói rằng ông sẽ không thực hiện thỏa thuận nếu không có Riggan. Vào thời điểm đó, ông nói rằng ông "vui mừng" khi gia nhập một đội bóng cạnh tranh và "háo hức khi gia nhập đội ngũ của họ". Tuy nhiên, sau khi giải nghệ, ông nói rằng "tim ông chùng xuống" khi nghe về vụ trao đổi và cảm thấy như "quả bóng bay của ông bị xì hơi". Vụ trao đổi đã ảnh hưởng đến thái độ của ông sau này và ông nói nhìn lại rằng ông đã jinxed (tự nguyền rủa) mình kể từ đó.
Riggan bắt đầu mùa giải 2002 trong đội hình chính của Cleveland nhưng bị giáng cấp vào ngày 24 tháng 4 và được thay thế trong đội hình bởi cầu thủ ném bóng Chad Paronto sau khi, theo Christina Kahrl, "liên tục để đối phương lên gôn". Ông được triệu tập lại vào ngày 13 tháng 6 sau chấn thương của cầu thủ ném bóng Paul Shuey nhưng bị gửi trả xuống vào ngày 6 tháng 7 để nhường chỗ trong đội hình cho cầu thủ ném bóng Jason Phillips. Vào ngày 15 tháng 8, ông một lần nữa trở lại đội hình cùng với cầu thủ ném bóng David Riske và thường xuyên xuất hiện trong vai trò cứu thua trong phần còn lại của mùa giải.
Năm 2003, Riggan không thể có mặt trong đội hình của Cleveland sau Huấn luyện mùa xuân. Ông được gọi lên Major League vào ngày 13 tháng 5 sau khi Travis Hafner bị gãy ngón chân. Ông bị chỉ định nhượng quyền bởi Indians vào ngày 18 tháng 5 sau khi bị đánh mạnh trong hai lần xuất hiện cứu thua. Riggan sau đó từ chối việc chuyển xuống giải đấu nhỏ và được cấp quyền vận động viên tự do. Vào ngày 25 tháng 5, Mets đã ký hợp đồng giải đấu nhỏ với ông.
2.2. Nippon Professional Baseball (NPB)
Vào tháng 6 năm 2003, Riggan được Mets giải phóng hợp đồng để ký một hợp đồng bảy con số với Hanshin Tigers cho phần còn lại của mùa giải NPB 2003 và toàn bộ năm sau. Ông đã ném bóng cho Tigers trong Japan Series 2003 năm đó.
Khi bắt đầu mùa giải 2003, Lou Port được kỳ vọng là cầu thủ ném bóng cứu thua của Hanshin Tigers nhưng đã gặp khó khăn. Vì vậy, Hanshin Tigers đã khẩn trương ký hợp đồng với Riggan vào giữa mùa giải từ đội Triple-A Norfolk (đội liên kết của New York Mets). Riggan đã gia nhập đội hình cứu thua mạnh mẽ của Hanshin cùng với Ando Yuya ({{lang|ja|安藤優也|An-đô Yu-ya}}), Kanazawa Kento (金澤健人Ka-na-za-wa Ken-tôJapanese), Jeff Williams và Yoshino Makoto (吉野誠Yo-shi-nô Ma-kô-tôJapanese), góp phần quan trọng vào chức vô địch đầu tiên của Hanshin sau 18 năm.
Trong mùa giải thứ hai với Hanshin vào năm 2004, Riggan bị chấn thương nặng ở khuỷu tay và phải trải qua phẫu thuật Tommy John vào ngày 29 tháng 6 năm 2004. Ông đã trở về nước và không còn khả năng hồi phục, dẫn đến việc phải rời đội. Mùa giải đó, Hanshin Tigers đã gặp nhiều khó khăn vì số lượng cầu thủ chấn thương, và việc Riggan, người được kỳ vọng là cầu thủ ném bóng cứu thua, phải rời đi là một mất mát lớn, góp phần vào việc đội không thể giành chức vô địch.
Năm 2005, Riggan trở lại hệ thống giải đấu nhỏ của Mets. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2005, ông xuất hiện trong một trận đấu cho Gulf Coast Mets, gần một năm sau ca phẫu thuật của mình. Riggan đã đạt đến cấp độ Double-A nhưng không thể tiến xa hơn. Đó là mùa giải cuối cùng của ông trong bóng chày chuyên nghiệp.
2.3. Đặc điểm cầu thủ
Jerrod Riggan nổi bật với phong cách ném bóng sử dụng toàn bộ cơ thể. Ông là một cầu thủ ném bóng có khả năng kiểm soát bóng tốt, thường buộc các người đánh bóng phải đánh bóng ra các cú bóng đất hoặc bóng bổng, thay vì dựa vào các cú strikeout để loại bỏ đối thủ.
3. Hoạt động sau giải nghệ
Sau khi kết thúc sự nghiệp thi đấu bóng chày chuyên nghiệp, Jerrod Riggan đã chuyển sang các vai trò mới trong lĩnh vực huấn luyện và kinh doanh.
3.1. Huấn luyện viên
Riggan từng là huấn luyện viên trưởng đội bóng chày tại Trường Trung học Brewster và huấn luyện viên ném bóng cho đội Alaska Goldpanners of Fairbanks.
3.2. Kinh doanh
Hiện tại, Riggan là đồng sở hữu và điều hành "Float Spokane", một cơ sở kinh doanh spa.
4. Thống kê và Kỷ lục
4.1. Thống kê sự nghiệp
Năm | Đội | Số lần ra sân | Số lần xuất phát | Số lần hoàn thành trận đấu | Số lần shutout | Số lần không đi bộ | Thắng | Thua | Cứu thua | Giữ bóng | Tỷ lệ thắng | Số người đối mặt | Số hiệp ném | Số lần hit cho phép | Số lần home run cho phép | Số lần đi bộ cho phép | Số lần đi bộ cố ý | Số lần chạm bóng chết | Số lần strikeout | Số lần ném bóng hoang dã | Số lần balk | Số lần chạy cho phép | Số lần chạy tự thân | Tỷ lệ ERA | WHIP |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2000 | New York Mets | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 10 | 2.0 | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0.00 | 1.50 |
2001 | New York Mets | 35 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 3 | 0 | 4 | .500 | 202 | 47.2 | 42 | 5 | 24 | 7 | 0 | 41 | 4 | 0 | 19 | 18 | 3.40 | 1.38 |
2002 | Cleveland Indians | 29 | 0 | 0 | 0 | 0 | 2 | 1 | 0 | 0 | .667 | 165 | 33.0 | 53 | 3 | 18 | 4 | 0 | 22 | 4 | 1 | 28 | 28 | 7.64 | 2.15 |
2003 | Cleveland Indians | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 19 | 4.0 | 7 | 0 | 1 | 0 | 0 | 2 | 0 | 1 | 4 | 4 | 9.00 | 2.00 |
2003 | Hanshin Tigers | 29 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | 0 | -- | 1.00 | 146 | 35.2 | 29 | 2 | 11 | 0 | 2 | 30 | 0 | 0 | 8 | 6 | 1.51 | 1.12 |
2004 | Hanshin Tigers | 23 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 1 | 4 | -- | .500 | 104 | 25.1 | 23 | 3 | 5 | 0 | 2 | 14 | 1 | 0 | 8 | 8 | 2.84 | 1.11 |
Tổng cộng MLB: 4 năm | 67 | 0 | 0 | 0 | 0 | 5 | 4 | 0 | 4 | .556 | 396 | 86.2 | 105 | 8 | 43 | 11 | 0 | 66 | 8 | 2 | 53 | 50 | 5.19 | 1.71 | |
Tổng cộng NPB: 2 năm | 52 | 0 | 0 | 0 | 0 | 4 | 1 | 4 | -- | .800 | 250 | 61.0 | 52 | 5 | 16 | 0 | 4 | 44 | 1 | 0 | 16 | 14 | 2.07 | 1.11 |
4.2. Kỷ lục NPB
- Ra mắt lần đầu: Ngày 27 tháng 6 năm 2003, trong trận đấu thứ 15 với Yokohama BayStars tại Sân vận động Yokohama, vào hiệp 8, ông là cầu thủ ném bóng cứu thua thứ 4, ném 1 hiệp không cho phép điểm.
- Strikeout đầu tiên: Cũng trong trận đấu đó, vào hiệp 8, ông đã loại bỏ Aikawa Ryoji (相川亮二Ai-ka-wa Ryô-jiJapanese) bằng một cú strikeout.
- Chiến thắng đầu tiên: Ngày 18 tháng 7 năm 2003, trong trận đấu thứ 15 với Hiroshima Toyo Carp tại Sân vận động Hanshin Koshien, vào hiệp 7, ông là cầu thủ ném bóng cứu thua thứ 3, ném 2 hiệp không cho phép điểm.
- Cứu thua đầu tiên: Ngày 20 tháng 4 năm 2004, trong trận đấu thứ 4 với Chunichi Dragons tại Nagoya Dome, vào hiệp 8, ông là cầu thủ ném bóng cứu thua thứ 4, hoàn thành trận đấu và ném 2 hiệp không cho phép điểm.
4.3. Số áo
- 34 (2000)
- 38 (2001)
- 51 (2002 - 2003)
- 65 (2003 - 2004)
5. Đời tư
Cha mẹ của Jerrod Riggan là Jerry và Camille Riggan. Ông có ít nhất một anh trai tên là Nate.
Riggan và vợ ông, Jennifer, có các con trai tên là Turk, Moxon và Jace, cùng một con gái tên là Lila sinh năm 2011. Turk, con trai cả, được đặt tên theo Turk Wendell, đồng đội cũ của Riggan tại Mets.