1. Cuộc đời
Cuộc đời của Isaac thành Nineveh gắn liền với những giai đoạn quan trọng của đời sống tu viện và một thời gian ngắn làm giám mục, phản ánh một tâm hồn khao khát sự tĩnh lặng và suy tư.
1.1. Nguồn gốc và thời thơ ấu
Isaac sinh ra tại vùng Beth Qatraye ở Đông Ả Rập, một khu vực nói tiếng Syria và tiếng Ả Rập hỗn hợp, bao gồm phía đông nam Mesopotamia và phía đông bắc Bán đảo Ả Rập. Vùng này ngày nay tương ứng với Qatar.
1.2. Cuộc sống tu viện
Khi còn rất trẻ, Isaac đã gia nhập một tu viện và chuyên tâm vào các thực hành khổ hạnh. Sau nhiều năm học tập tại thư viện tu viện, ông trở thành một nhân vật có thẩm quyền trong giới thần học. Ông dành cả cuộc đời mình cho đời sống tu viện và tham gia vào công tác giáo dục tôn giáo khắp vùng Beth Qatraye. Tuy nhiên, ông là người ưa thích sự tĩnh lặng, và danh tiếng về đời sống thánh thiện của ông đã lan rộng. Khi được đề cử làm lãnh đạo tu viện, ông đã từ chối và rời tu viện để sống ẩn dật, không chấp nhận lời thuyết phục trở về của các anh em tu sĩ.
1.3. Chức Giám mục và thoái vị
Vào năm 676, khi Giáo trưởng Giwargis I (661-680) của Giáo hội phương Đông đến thăm Beth Qatraye để tham dự một công đồng, ông đã bổ nhiệm Isaac làm giám mục của Nineveh, một thành phố ở phía bắc Assyria. Tuy nhiên, các nhiệm vụ hành chính không phù hợp với bản tính ẩn dật và khổ hạnh của ông. Sau chỉ năm tháng tại vị, ông đã xin thoái vị và lui về vùng hoang dã của Núi Matout ở phía nam, một nơi ẩn náu của các ẩn sĩ.
1.4. Cuối đời và cái chết
Tại Núi Matout, Isaac sống một cuộc đời cô độc trong nhiều năm, chỉ ăn ba ổ bánh mỗi tuần cùng một ít rau sống. Cuối cùng, do mù lòa và tuổi già, ông buộc phải về hưu tại tu viện Rabban Shabur ở Mesopotamia, nơi ông qua đời và được chôn cất. Vào thời điểm qua đời, ông gần như bị mù hoàn toàn, một số người cho rằng điều này là do sự tận tâm của ông trong việc học tập. Isaac sống trong thời kỳ Hồi giáo đang trỗi dậy, nhưng mối quan hệ giữa Kitô hữu và người Hồi giáo trong thời đại ông không phải lúc nào cũng thù địch.
2. Tác phẩm và Tư tưởng
Isaac thành Nineveh đã để lại một di sản văn học phong phú, chủ yếu là các bài giảng về đời sống tâm linh và khổ hạnh, được chia thành nhiều phần và có ảnh hưởng sâu rộng.
2.1. Tổng quan về tác phẩm
Isaac đã sáng tác hàng chục bài giảng, được ông tập hợp thành bảy tập về các chủ đề như đời sống tâm linh, những bí ẩn thần thánh, các phán xét, sự quan phòng của Thiên Chúa, và nhiều hơn nữa. Ngày nay, bảy tập này còn tồn tại dưới dạng năm "Phần", được đặt tên từ Phần thứ nhất đến Phần thứ năm. Chỉ có Phần thứ nhất được biết đến rộng rãi bên ngoài các cộng đồng nói tiếng Syria, cho đến năm 1983, khi các nhà nghiên cứu về Syria tái phát hiện phần còn lại trong các kho lưu trữ văn học cổ.
Nhiều văn bản của ông đã được dịch sang tiếng Ý bởi Sabino Chialà, và sang tiếng Anh bởi Sebastian P. Brock, Mary T. Hansbury, Tu viện Biến Hình Thánh, và những người khác. Từ tiếng Hy Lạp, chúng còn được dịch sang các ngôn ngữ Slav khác. Các tác phẩm khổ hạnh của ông được tổng hợp thành một bộ sách lớn có tên là Kim chỉ nam Khổ hạnh của Isaac người Syria, trong phiên bản tiếng Anh gần đây nhất có thể lên tới 600 trang.
2.2. Luận giải Khổ hạnh (Phần 1)
Phần thứ nhất là phần được biết đến rộng rãi nhất trong các tác phẩm của Isaac. Arent Jan Wensinck (1923) đã dịch văn bản này sang tiếng Anh và xuất bản dưới tên Mystic Treatises (Những chuyên luận thần bí). Một ấn bản phê bình bao gồm bản dịch tiếng Anh, The Ascetical Homilies of Saint Isaac the Syrian, được Tu viện Biến Hình Thánh xuất bản năm 1983, và một ấn bản thứ hai đã được sửa đổi vào năm 2011 (tái bản lần thứ ba vào năm 2020). Theo Brock (2006), Phần 1 có 82 bài giảng, mặc dù số lượng và thứ tự các bài giảng có thể khác nhau đáng kể tùy thuộc vào bản thảo hoặc ấn bản.
2.3. Phần 2
Phần thứ hai chứa 41 chương, trong đó Chương 3 là chương dài nhất. Chương 3, còn được gọi là Kephalaia Gnostica (hay "Các chương/Đề mục về Kiến thức Tâm linh"), chứa 400 phần được tổ chức thành 4 thế kỷ (mỗi thế kỷ 100 phần). Gần đây, các phần của Kephalaia Gnostica (tức là Chương 3 của Phần thứ hai) đã được xác định trong các mảnh vỡ tiếng Sogdian từ Turfan.
Phần thứ hai được Sebastian Brock phát hiện vào tháng 4 năm 1983 tại Thư viện Bodleian, khi ông tìm thấy bản thảo MS syr. e. 7, ban đầu được linh mục Assyria Yaroo Michael Neesan (1853-1937) tặng cho Thư viện Bodleian vào ngày 29 tháng 6 năm 1898. Bản thảo này chứa các tác phẩm của Isaac người Syria mà trước đây các học giả phương Tây chưa biết đến, mặc dù chúng vẫn được độc giả Syria đọc thường xuyên. Bản thảo MS syr. e. 7 của Bodleian là một bản thảo giấy da được viết bằng chữ Estrangela nhỏ của Đông Syria, dài khoảng 195 mm đến 200 mm và rộng 145 mm đến 150 mm với 190 tờ. Có khoảng 26 dòng mỗi trang, với khoảng 23 dòng gần đầu. Nó được sao chép vào thế kỷ 10 hoặc 11 tại Tu viện Mar 'Abdisho' của Kom bởi người sao chép Marqos cho Rabban Isho' của làng Beth B'DY.
Sau năm 1983, các bản thảo không đầy đủ của Phần 2 đã được phát hiện trong MS Or. 1144 của Cambridge, là một phần của Thư viện Quốc gia Pháp, MS syr. 298 (khoảng thế kỷ 11-13). Chương 1-3 đã được dịch sang tiếng Anh bởi Brock (2022), trong khi bản dịch tiếng Anh của chương 4-41, cùng với văn bản gốc tiếng Syria, có thể tìm thấy trong Brock (1995). Một bản dịch tiếng Pháp hoàn chỉnh đã được André Louf xuất bản (2003), và một bản dịch tiếng Hy Lạp một phần đã được Kavvadas xuất bản (2006). Các đoạn chọn lọc từ Phần 2 đã được dịch sang tiếng Ý bởi Bettiolo (1985) và sang tiếng Catalan bởi Nin (2005).
Các bản thảo chứa Phần thứ hai bao gồm:
- Oxford, Thư viện Bodleian, MS syr. e.7 (thế kỷ 10/11) (bản thảo hoàn chỉnh)
- Tehran, Bộ sưu tập Mar Issayi, MS 4 (sao chép từ MS syr. e.7) (1895)
- Paris MS syr. 298 (thế kỷ 11/12)
- Đại học Harvard, Thư viện Houghton, MS syr. 57 (thế kỷ 13/14)
- Baghdad, Tu viện Chaldea, MS syr. 680 (olim Alqosh 237) (cho chs. 7, 9, 15.1-6, 11, 18.18-22, 32, 34-36) (1288/9)
- Bộ sưu tập Mingana syr. 601 (sao chép từ Baghdad MS syr. 680) (1932)
- Mingana syr. 86 (cho chs. 24.11-13, 20.25, 25) (- 1300)
- Thư viện Anh, Add. 14632 (cho chs. 16-17) (thế kỷ 10)
- Thư viện Anh, Add. 14633 (cho chs. 16-17) (- thế kỷ 11)
- Tehran, Bộ sưu tập Mar Issayi, MS 5 (cho ch. 25) (1900)
- Ấn bản của Paul Bedjan về ch. 54-55 của Phần I (= chs. 16-17 của Phần II) (dựa trên bản thảo năm 1235)
- Ấn bản của Paul Bedjan về bản thảo Urmiah đã mất (cho chs. 5.5,22-26,29-30; và ch. 11); bản thảo gốc được cho là đã bị mất trong Thế chiến I, mặc dù bản chép lại của Bedjan đã được xuất bản.
2.4. Phần 3
Phần thứ ba đã được dịch sang tiếng Anh bởi Mary T. Hansbury (2016), sang tiếng Pháp bởi André Louf (2009), và sang tiếng Ý bởi Sabino Chialà (2004, 2011). Nó dựa trên bản thảo Issayi MS 5, được lưu giữ tại Tehran, Iran. Bản thảo này là một bản sao năm 1903 của một bản thảo gốc thế kỷ 14 hiện đã bị mất. Nó được Đức ông Yuhannan Samaan Issayi, tổng giám mục Chaldea của Tehran, phát hiện tại một hiệu sách cổ của người Do Thái và được giữ trong thư viện riêng của ông. Sau khi ông qua đời vào năm 1999, học giả người Bỉ Michel van Esbroek đã tìm thấy bản thảo trong thư viện của Issayi ở Tehran và công bố phát hiện của mình cho các học giả quốc tế. Bản thảo Issayi MS 5 có 133 tờ, với 111 tờ chứa 17 bài giảng có thể được gán cho Isaac. Có 14 bài giảng không tìm thấy trong các văn bản khác được đánh số là 1-13 và 16 trong Phần 3. Ba văn bản khác trong Issayi MS 5 cũng có thể tìm thấy trong các bản thảo Phần 1 và Phần 2 hiện có.
2.5. Phần 5
Các phần của Phần thứ năm đã được phát hiện trong MS Rahmani 80 (ở Sharfet), MS Dawra sir. 694 và MS Dawra sir. 938 (cả hai đều được lưu giữ tại Baghdad), và bản thảo Vatican MS sir. 592. Hansbury (2016) chứa bản dịch tiếng Anh của hai bài diễn văn từ Phần thứ năm. Các bài diễn văn khác từ Phần 5 có thể tìm thấy trong Hansbury (2015).
2.6. Tư tưởng Khổ hạnh và Thần học cốt lõi
Isaac nhấn mạnh lòng trắc ẩn, lòng thương xót, sự khiêm nhường, cầu nguyện và sự tĩnh lặng. Các giáo huấn của ông bao gồm:
- "Sự ăn năn là cánh cửa dẫn đến lòng thương xót, không qua cánh cửa này, người ta không thể tìm thấy lòng thương xót."
- "Trong hình dạng mà bạn đã chấp nhận, bạn hãy bị khinh miệt và bị từ chối. Khi đó, bạn sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa trong chính mình. Nơi nào sự khiêm tốn nở hoa, nơi đó vinh quang của Thiên Chúa tỏa sáng."
- "Hãy yêu người nghèo. Qua họ, bạn sẽ tìm thấy lòng thương xót."
- "Lòng trắc ẩn là một trái tim cháy bỏng vì tất cả mọi tạo vật, vì con người, vì chim chóc, vì động vật, vì các linh hồn ác, và vì tất cả những gì tồn tại."
- "Đức hạnh không xứng đáng với tên gọi đó nếu không đi kèm với lao động và khó khăn."
- "Trong khi cầu nguyện, đôi khi lời Thánh Kinh sẽ trở nên ngọt ngào trong miệng. Và một câu cầu nguyện rất ngắn sẽ được lặp đi lặp lại vô số lần."
- "Chừng nào trái tim chưa khiêm tốn, thì không thể ngăn chặn sự lang thang của tâm trí. Chính sự khiêm tốn mới giúp tâm trí tập trung."
- "Kiến thức đối lập với đức tin. Đức tin là sự phá hủy mọi phương pháp dựa trên kiến thức, và là sự phá hủy kiến thức phi tinh thần... Đức tin tránh xa mọi sự suy tính và tìm kiếm phương pháp, đòi hỏi sự trong sạch và đơn giản tuyệt đối trong cách tư duy."
- "Kiến thức đi kèm với nỗi sợ hãi, còn đức tin đi kèm với hy vọng."
3. Quan điểm về sự hòa giải phổ quát
Isaac thành Nineveh nổi bật với quan điểm thần học độc đáo và gây tranh cãi của ông về sự hòa giải phổ quát, tức là niềm tin rằng cuối cùng tất cả mọi tạo vật sẽ được cứu rỗi.
3.1. Luận điểm ủng hộ sự hòa giải phổ quát
Một số học giả, như Wacław Hryniewicz (2007) và Ilaria Ramelli (2013), đã lập luận rằng các quan điểm của Isaac từ Phần thứ hai dường như xác nhận những tuyên bố trước đây rằng Isaac ủng hộ sự hòa giải phổ quát. Wacław Hryniewicz mô tả Isaac là "một trong những người ủng hộ dũng cảm nhất hy vọng cánh chung về sự cứu rỗi phổ quát" trong lịch sử Giáo hội.
Trong chương 39 của Phần thứ hai, Isaac viết: "Đấng Tạo Hóa đầy lòng trắc ẩn không có cách nào tạo ra những sinh vật có lý trí để rồi sau đó tàn nhẫn giao phó chúng cho sự đau khổ không ngừng như một hình phạt cho những điều mà Ngài đã biết trước khi chúng được hình thành, nhận thức được chúng sẽ trở thành như thế nào khi Ngài tạo ra chúng, và dù vậy Ngài vẫn tạo ra chúng."
Tương tự, trong Phần thứ ba, chương 5, Isaac giải thích: "Đây là bí ẩn: rằng tất cả tạo vật, thông qua Một Đấng, đã được đưa đến gần Thiên Chúa trong một bí ẩn; sau đó nó được truyền cho tất cả; như vậy tất cả được hiệp nhất với Ngài... Hành động này được thực hiện cho tất cả tạo vật; thực sự, sẽ có một thời điểm không phần nào bị thiếu hụt so với toàn bộ."
Ngay cả trong Phần thứ nhất (Các Bài giảng Khổ hạnh nổi tiếng của Isaac), cũng có khá nhiều gợi ý về chủ nghĩa phổ quát. Ví dụ:
- "Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi bất cứ ai." (Chương 5)
- "Đã có một thời gian tội lỗi không tồn tại, và sẽ có một thời gian nó sẽ không tồn tại." (Chương 26)
- "Như một nắm cát ném vào đại dương, thì tội lỗi của tất cả xác thịt cũng vậy so với tâm trí của Thiên Chúa; như một suối nước chảy dồi dào không bị ngăn chặn bởi một nắm đất, thì lòng trắc ẩn của Đấng Tạo Hóa cũng không bị khuất phục bởi sự độc ác của các tạo vật... Nếu Ngài đầy lòng trắc ẩn ở đây, chúng ta tin rằng sẽ không có sự thay đổi nào trong Ngài; xin đừng bao giờ chúng ta nghĩ một cách độc ác rằng Thiên Chúa không thể đầy lòng trắc ẩn; các thuộc tính của Thiên Chúa không thể thay đổi như của người phàm... Địa ngục là gì so với ân sủng của sự phục sinh? Hãy đến và chúng ta hãy kinh ngạc trước ân sủng của Đấng Tạo Hóa chúng ta." (Chương 50)
Nhiều đoạn văn liên quan khác trong toàn bộ các tác phẩm của Isaac có thể được trích dẫn để chứng minh niềm tin của ông vào sự cứu rỗi phổ quát cuối cùng.
4. Sự tôn kính và Đánh giá
Isaac thành Nineveh được tôn kính như một vị thánh trong nhiều truyền thống Kitô giáo và được đánh giá cao về mặt lịch sử và học thuật.
4.1. Danh hiệu Thánh và Ngày lễ
Isaac từ lâu đã được coi là một thánh trong các truyền thống Chính thống giáo Đông phương, Chính thống giáo Phương Đông và Giáo hội phương Đông. Đối với Giáo hội Công giáo Rôma, Giáo hoàng Phanxicô đã thông báo vào ngày 9 tháng 11 năm 2024 rằng Isaac thành Nineveh sẽ được thêm vào Sách Tử đạo Rôma, danh sách chính thức các thánh được tôn kính bởi Giáo hội Latinh. Ngày lễ kính của ông, cùng với nhà thần học và nhà viết thánh ca thế kỷ 4 Ephrem người Syria, là ngày 28 tháng 1.
4.2. Đánh giá Lịch sử và Học thuật
Các tác phẩm của Isaac có một chiều sâu tâm linh và thần học vượt thời gian. Mặc dù ông là một nhân vật quan trọng trong Kitô giáo Syria, nhưng các tác phẩm của ông đã không được biết đến rộng rãi ở phương Tây trong một thời gian dài. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 trở đi, các học giả phương Tây đã bắt đầu nghiên cứu và đánh giá lại các tác phẩm của ông, đặc biệt là sau khi nhiều phần bị thất lạc được tái phát hiện vào năm 1983. Các bài giảng khổ hạnh của ông được coi là một nguồn tài liệu quý giá để hiểu về khổ hạnh Kitô giáo sơ khai.
5. Ảnh hưởng
Tư tưởng và các tác phẩm của Isaac thành Nineveh đã có tác động sâu sắc đến nhiều tác giả và truyền thống Kitô giáo sau này.
5.1. Ảnh hưởng đến các tác giả và truyền thống sau này
Isaac người Syria đã chịu ảnh hưởng từ các nhà văn Kitô giáo trước đó như Evagrius Ponticus, Pseudo-Dionysius, John the Solitary, Ephrem người Syria, Narsai và Theodore of Mopsuestia. Đổi lại, ông đã ảnh hưởng đến các nhà văn Syria sau này như John of Dalyatha và Joseph Hazzaya. Phong cách u sầu của ông cũng như sự đồng cảm của ông đối với những người bệnh tật và hấp hối đã tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến Chính thống giáo Đông phương. Các bài viết của ông được các vòng tròn tu viện bên ngoài giáo hội của ông liên tục nghiên cứu trong suốt thế kỷ 8 và 9.
6. Mục liên quan
- Kim chỉ nam Khổ hạnh của Isaac người Syria
- Anthony Đại đế
- Apocatastasis
- Kitô giáo phổ quát
- Chủ nghĩa khổ hạnh
- Giáo phụ Hội thánh
- Giáo hội phương Đông
- Nghi lễ Đông Syria
- Ephrem người Syria
- John Climacus
- Im lặng tu viện
- Philokalia
- Kitô giáo Syria