1. Early life
Bertrand sinh ra tại Southwark, Luân Đôn, Anh vào ngày 5 tháng 8 năm 1989. Anh gia nhập câu lạc bộ Gillingham khi mới 9 tuổi và tiến bộ qua hệ thống đào tạo trẻ của họ. Bertrand theo học tại Trường Robert Napier ở Gillingham, Kent. Anh mang trong mình dòng máu Dominica và Ireland.
2. Club career
Sự nghiệp câu lạc bộ của Ryan Bertrand bắt đầu từ lò đào tạo trẻ của Gillingham, sau đó anh chuyển đến Chelsea và trải qua nhiều hợp đồng cho mượn trước khi tìm được bến đỗ ổn định tại Southampton và kết thúc sự nghiệp ở Leicester City.
2.1. Chelsea
Bertrand được Chelsea ký hợp đồng vào tháng 7 năm 2005 từ Gillingham với mức phí ban đầu là 125.00 K GBP, do một trọng tài ấn định và có thể tăng lên tùy thuộc vào sự tiến bộ của anh. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp với Chelsea vào tháng 8 năm 2006.
2.1.1. Loan spells
Trong mùa giải 2006-07, Bertrand được cho mượn hai lần tới AFC Bournemouth, cùng thời điểm với đồng đội ở Chelsea là Jack Cork. Anh bị vỡ lá lách trong một trận đấu đội trẻ với Arsenal, khiến anh phải nghỉ thi đấu phần còn lại của mùa giải đó.
Tháng 8 năm 2007, Bertrand gia nhập Oldham Athletic theo dạng cho mượn cho đến tháng 1 năm 2008. Anh đã ra sân 21 trận ở giải đấu cho Oldham Athletic và thêm 1 trận ở Cúp Liên đoàn bóng đá Anh cùng 2 trận ở Football League Trophy, nâng tổng số trận lên 24.
Vào ngày 4 tháng 1 năm 2008, vài ngày sau khi kết thúc hợp đồng cho mượn tại Oldham, Bertrand gia nhập Norwich City theo dạng cho mượn cho đến hết mùa giải 2007-08. Anh đã có một số màn trình diễn ấn tượng khi chơi cả ở vị trí hậu vệ cánh trái và tiền vệ cánh trái, và thừa nhận anh sẽ hoan nghênh việc ở lại câu lạc bộ lâu hơn. Bertrand trở nên nổi tiếng với khán giả tại Carrow Road và được đặt biệt danh là 'Plastic' (ngụ ý đến ca sĩ người Bỉ Plastic BertrandPlastic BertrandFrench). Vào ngày 4 tháng 7 năm 2008, anh tái gia nhập câu lạc bộ theo dạng cho mượn cho đến tháng 1 năm 2009, với tùy chọn gia hạn đến cuối mùa giải. Trong một mùa giải rưỡi tại Norwich, anh đã ra sân 56 trận ở giải đấu, tổng cộng 60 trận.
Vào ngày 17 tháng 7 năm 2009, Bertrand gia nhập Reading theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên của mình vào lưới Derby County vào ngày 10 tháng 3 năm 2010 trong chiến thắng 4-1. Anh đứng thứ ba trong cuộc bình chọn cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Reading, sau Gylfi Sigurðsson và Jimmy Kébé. Anh đã ra sân 44 trận ở giải đấu, 6 trận Cúp FA và 1 trận Cúp Liên đoàn bóng đá Anh, tổng cộng 51 trận, ghi 1 bàn.
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2010, Bertrand ký hợp đồng cho mượn với câu lạc bộ Championship Nottingham Forest theo thỏa thuận ban đầu sáu tháng. Anh ra mắt Forest với tư cách là cầu thủ dự bị trong trận thua 0-1 trên sân khách trước Burnley. Anh là một cầu thủ thường xuyên của Forest, ra sân tổng cộng 19 lần. Forest muốn gia hạn hợp đồng cho mượn của Bertrand cho đến hết mùa giải hoặc ký hợp đồng vĩnh viễn, nhưng khi thời gian cho mượn của anh hết hạn vào ngày 3 tháng 1 năm 2011, anh trở về câu lạc bộ chủ quản Chelsea.
2.1.2. Return to Chelsea
Ryan Bertrand trở lại Chelsea và có những màn trình diễn đáng chú ý, đặc biệt là việc ra mắt tại Chung kết UEFA Champions League và ghi những bàn thắng đầu tiên cho đội bóng.
2.2. Southampton
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2014, Bertrand gia nhập Southampton theo dạng cho mượn cho mùa giải 2014-15. Anh ra mắt chính thức cho câu lạc bộ vào ngày 17 tháng 8 trong trận đấu đầu tiên của mùa giải, chơi trọn 90 phút trong trận thua 1-2 trên sân khách trước Liverpool. Bertrand ghi bàn thắng đầu tiên cho Southampton vào ngày 27 tháng 9, mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Queens Park Rangers. Bàn thắng thứ hai của anh cho câu lạc bộ đến vào ngày 26 tháng 12, trong chiến thắng 3-1 trước Crystal Palace. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2015, anh nhận thẻ đỏ trực tiếp vào cuối trận thua 0-1 trên sân nhà trước Swansea City vì phạm lỗi với Modou Barrow.
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2015, Bertrand hoàn tất việc chuyển nhượng vĩnh viễn tới Southampton, ký hợp đồng bốn năm rưỡi với mức phí không tiết lộ, được báo cáo là 10.00 M GBP. Vào ngày 26 tháng 4, anh là cầu thủ duy nhất của Southampton được xướng tên trong Đội hình tiêu biểu của PFA.
Bertrand ghi bàn thắng duy nhất của mình trong mùa giải 2015-16 ở trận đấu cuối cùng, một quả phạt đền trong chiến thắng 4-1 trước Crystal Palace. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2016, Bertrand ký hợp đồng 5 năm mới.
Vào ngày 12 tháng 5 năm 2021, Southampton thông báo rằng Bertrand sẽ rời câu lạc bộ khi hợp đồng của anh hết hạn vào mùa hè. Anh đã ra sân 240 lần cho câu lạc bộ này, ghi được 8 bàn thắng.
2.3. Leicester City
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2021, Bertrand gia nhập câu lạc bộ Premier League Leicester City theo dạng chuyển nhượng tự do, ký hợp đồng hai năm. Bertrand ra mắt câu lạc bộ trong chiến thắng 1-0 của Leicester trước đương kim vô địch Premier League Manchester City ở trận Community Shield vào ngày 7 tháng 8 năm 2021.
Trong nửa sau của mùa giải 2021-22, anh bị chấn thương đầu gối và phải rời xa sân cỏ. Anh không bao giờ ra sân thi đấu trở lại trong thời gian còn lại của hợp đồng.
Vào ngày 5 tháng 6 năm 2023, sau khi câu lạc bộ xuống hạng từ Premier League, có thông báo rằng Bertrand sẽ rời câu lạc bộ khi hợp đồng của anh hết hạn vào cuối tháng. Anh chỉ có 11 lần ra sân cho Leicester City.
2.4. Retirement
Vào ngày 18 tháng 6 năm 2024, Ryan Bertrand tuyên bố giải nghệ khỏi sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp.
3. International career
Ryan Bertrand đã đại diện cho đội tuyển Anh ở nhiều cấp độ trẻ khác nhau, tham dự Thế vận hội và sau đó là đội tuyển quốc gia Anh.
3.1. England youth teams
Bertrand đã đại diện cho các đội tuyển trẻ Anh ở các cấp độ U-17, U-18, U-19, U-20 và U-21.
Anh là một phần của đội U-19 tại Giải vô địch châu Âu 2008.
Anh được đôn lên đội U-21 và được triệu tập cho một số trận đấu vòng loại Giải vô địch châu Âu 2009, nhưng đã bỏ lỡ đội hình cho giải đấu chung kết. Vào ngày 14 tháng 11, Stuart Pearce đã chọn anh ở vị trí hậu vệ trái cho một trận đấu U-21 với Bồ Đào Nha tại Wembley ở Bảng 9 của quá trình vòng loại, và giúp đội giữ sạch lưới lần đầu tiên kể từ ngày 29 tháng 6 năm 2009. Anh được điền tên vào đội hình U-21 của Anh cho Giải vô địch châu Âu 2011 và đã chơi tất cả các trận đấu.
3.2. Great Britain Olympic team
Vào ngày 2 tháng 7 năm 2012, Bertrand được điền tên vào đội hình 18 người của Stuart Pearce cho Thế vận hội Mùa hè 2012. Anh chơi trận đấu đầu tiên cho Đội tuyển Olympic Vương quốc Anh vào ngày 20 tháng 7 năm 2012 trong một trận đấu giao hữu với Brazil. Anh đã chơi ba trận trong suốt giải đấu Olympic.
3.3. England senior team
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2012, Bertrand lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển Anh, cho trận đấu giao hữu với Ý. Anh có trận ra mắt quốc tế khi vào sân thay cho Leighton Baines ở phút thứ 78 và cản phá một cú sút ngay trên vạch vôi vài phút sau đó từ Manolo Gabbiadini, dẫn đến bàn thắng ấn định chiến thắng cho Anh khi Anh thắng trận 2-1.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2012, Bertrand vào sân sau 73 phút trong trận đấu vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 với Ukraine và tạt bóng dẫn đến quả phạt đền mà Frank Lampard đã chuyển hóa thành bàn thắng. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2012, Bertrand được triệu tập vào đội tuyển Anh cho hai trận đấu vòng loại nữa, đối đầu với San Marino và Ba Lan. Tuy nhiên, anh đã bỏ lỡ cả hai trận đấu vì bị virus.
Bertrand vào sân thay người cho Anh trong trận đấu trên sân khách với Ý vào ngày 3 tháng 3 năm 2015 và anh đã có lần khoác áo đội tuyển thứ tư. Anh đá chính cho đội tuyển Anh đối đầu với Cộng hòa Ireland tại Dublin vào ngày 7 tháng 6 năm 2015.
Bertrand là một phần của đội hình cho UEFA Euro 2016. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2017, Bertrand ghi bàn thắng đầu tiên cho Anh trong chiến thắng 4-0 ở vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới trước Malta.
4. Style of play
Bertrand được mô tả là một hậu vệ cánh hiện đại, người hỗ trợ tấn công ở cánh, giữ và duy trì quyền kiểm soát bóng cũng như phòng thủ và giành lại quyền sở hữu, thực hiện những pha chạy nhanh vào vòng cấm và thường xuyên phối hợp một hai với đồng đội. Glenn Roeder, người quản lý của anh tại Norwich, mô tả Bertrand là một hậu vệ "thích lao lên tấn công và rất kiên cường trong các pha tắc bóng khi phòng ngự." Trong một bài báo của ESPN FC năm 2018 về tình hình các hậu vệ cánh trái ở Anh, Michael Cox nhận định rằng "ngôi sao thực sự duy nhất là Ryan Bertrand, một hậu vệ cánh thực sự xuất sắc cả trong phòng ngự và tấn công".
5. Business ventures
Bertrand là người sáng lập công ty môi giới fintech Silicon Markets, cung cấp các công cụ học máy và giao dịch thuật toán cho các nhà giao dịch bán lẻ trong Thị trường ngoại hối và thị trường CFD.
6. Career statistics
6.1. Club
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp FA | Cúp Liên đoàn bóng đá Anh | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Chelsea | 2006-07 | Premier League | 0 | 0 | - | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | |
2007-08 | Premier League | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | |||
2010-11 | Premier League | 1 | 0 | 0 | 0 | - | 0 | 0 | - | 1 | 0 | |||
2011-12 | Premier League | 7 | 0 | 4 | 0 | 3 | 0 | 1 | 0 | - | 15 | 0 | ||
2012-13 | Premier League | 19 | 0 | 5 | 0 | 4 | 1 | 8 | 0 | 2 | 1 | 38 | 2 | |
2013-14 | Premier League | 1 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 3 | 0 | |
Tổng cộng | 28 | 0 | 9 | 0 | 9 | 1 | 9 | 0 | 2 | 1 | 57 | 2 | ||
AFC Bournemouth (mượn) | 2006-07 | League One | 5 | 0 | 2 | 0 | - | - | - | 7 | 0 | |||
Oldham Athletic (mượn) | 2007-08 | League One | 21 | 0 | - | 1 | 0 | - | 2 | 0 | 24 | 0 | ||
Norwich City (mượn) | 2007-08 | Championship | 18 | 0 | 2 | 0 | - | - | - | 20 | 0 | |||
2008-09 | Championship | 38 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | - | - | 40 | 0 | |||
Tổng cộng | 56 | 0 | 4 | 0 | 0 | 0 | - | - | 60 | 0 | ||||
Reading (mượn) | 2009-10 | Championship | 44 | 1 | 6 | 0 | 1 | 0 | - | - | 51 | 1 | ||
Nottingham Forest (mượn) | 2010-11 | Championship | 19 | 0 | - | - | - | - | 19 | 0 | ||||
Aston Villa (mượn) | 2013-14 | Premier League | 16 | 0 | - | - | - | - | 16 | 0 | ||||
Southampton | 2014-15 | Premier League | 34 | 2 | 3 | 0 | 2 | 0 | - | - | 39 | 2 | ||
2015-16 | Premier League | 32 | 1 | 0 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | - | 34 | 1 | ||
2016-17 | Premier League | 28 | 2 | 1 | 0 | 4 | 1 | 1 | 0 | - | 34 | 3 | ||
2017-18 | Premier League | 35 | 0 | 5 | 0 | 0 | 0 | - | - | 40 | 0 | |||
2018-19 | Premier League | 24 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | - | 24 | 1 | |||
2019-20 | Premier League | 32 | 1 | 2 | 0 | 1 | 0 | - | - | 35 | 1 | |||
2020-21 | Premier League | 29 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | - | - | 34 | 0 | |||
Tổng cộng | 214 | 7 | 15 | 0 | 10 | 1 | 1 | 0 | - | 240 | 8 | |||
Leicester City | 2021-22 | Premier League | 4 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | 11 | 0 |
2022-23 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | - | 0 | 0 | |||
Tổng cộng | 4 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | 11 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 407 | 8 | 36 | 0 | 23 | 2 | 14 | 0 | 5 | 1 | 485 | 11 |
6.2. International
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Anh | 2012 | 2 | 0 |
2013 | 0 | 0 | |
2014 | 0 | 0 | |
2015 | 5 | 0 | |
2016 | 3 | 0 | |
2017 | 9 | 1 | |
Tổng cộng | 19 | 1 |
Số. | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Tỉ số | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1 | 1 tháng 9 năm 2017 | Sân vận động Quốc gia, Ta' Qali, Malta | Malta | 2-0 | 4-0 | Vòng loại FIFA World Cup 2018 |
7. Honours
7.1. Club
- Cúp FA: 2011-12
- UEFA Champions League: 2011-12
- UEFA Europa League: 2012-13
- Siêu cúp Anh: 2021
- Cúp Liên đoàn bóng đá Anh Á quân: 2016-17
7.2. Individual
- Đội hình tiêu biểu của PFA: Premier League 2014-15