1. Cuộc sống ban đầu và sự nghiệp nghiệp dư
Cuộc đời Kazahari Ren trước khi gia nhập làng bóng chày chuyên nghiệp được hình thành từ những trải nghiệm thời thơ ấu, quá trình học vấn và sự nghiệp nghiệp dư đầy hứa hẹn, nơi anh đã chứng tỏ tài năng của mình ở cấp độ đại học.
1.1. Thời thơ ấu và giáo dục
Kazahari Ren sinh ngày 26 tháng 2 năm 1993 tại làng Kunohe, tỉnh Iwate. Anh bắt đầu chơi bóng chày khi còn học lớp ba tại một câu lạc bộ bóng chày địa phương. Trong những năm học tại Trường Trung học Phổ thông Tỉnh Iwate Ibonai, Kazahari chưa bao giờ lọt vào vòng chung kết giải đấu quốc gia tại Sân vận động Koshien vào mùa xuân hay mùa hè. Tuy nhiên, vào năm thứ ba trung học, anh đã thu hút sự chú ý của các tuyển trạch viên từ các câu lạc bộ thuộc NPB. Mặc dù vậy, anh đã không nộp đơn xin trở thành cầu thủ chuyên nghiệp vào thời điểm đó mà quyết định theo học tại Khoa Công nghiệp Sinh học của Đại học Nông nghiệp Tokyo, có khuôn viên ở Abashiri, Hokkaido.
1.2. Sự nghiệp bóng chày nghiệp dư
Trong thời gian học đại học, Kazahari đã tham gia các trận đấu chính thức của Giải Bóng chày Sinh viên Hokkaido từ năm nhất. Anh đạt được thành tích tổng cộng 16 trận thắng và 3 trận thua với tỷ lệ ERA là 1.69 trong các trận đấu của giải. Trong năm thứ hai và thứ ba, anh được chọn vào danh sách ứng cử viên cho đội tuyển quốc gia Nhật Bản cấp đại học. Vào mùa thu năm thứ tư, anh giành danh hiệu Người ném bóng xuất sắc nhất và Đội hình xuất sắc nhất với 5 trận thắng, giúp đội đủ điều kiện tham dự Giải đấu Meiji Jingu. Tuy nhiên, anh chỉ ném một hiệp trong trận đấu đầu tiên và không ra sân thêm lần nào nữa, mặc dù đội của anh đã tiến vào tứ kết nhờ sự thể hiện của các đồng đội như Tamai Hiroto và Iguchi Kazutomo.
Vào năm 2014, Kazahari được Tokyo Yakult Swallows chọn ở vòng thứ hai trong đợt tuyển chọn cầu thủ của Giải Bóng chày Chuyên nghiệp Nhật Bản. Anh đã ký hợp đồng với mức phí ước tính là 70.00 M JPY và mức lương hàng năm ước tính là 12.00 M JPY. Anh được cấp số áo 32 và trở thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp đầu tiên đến từ làng Kunohe. Tuyển trạch viên phụ trách anh là Yaegashi Yukio.
2. Sự nghiệp chuyên nghiệp
Sự nghiệp chuyên nghiệp của Kazahari Ren bắt đầu đầy biến động, trải qua các thử thách tại hai đội bóng lớn của NPB trước khi anh chuyển sang thi đấu ở giải đấu độc lập.
2.1. Tokyo Yakult Swallows
Kazahari Ren được Tokyo Yakult Swallows lựa chọn ở vòng thứ hai trong kỳ Tuyển chọn cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp Nhật Bản 2014.
Vào ngày 3 tháng 5 năm 2015, Kazahari có trận ra mắt tại NPB với tư cách là người ném bóng xuất phát trong trận đấu với Hiroshima Toyo Carp tại Sân vận động Meiji Jingu. Anh đã khiến người đánh bóng đầu tiên, Tanaka Kosuke, bị loại nhưng ngay sau đó, quả bóng thứ tám của anh đã trúng đầu người đánh bóng thứ hai, Kikuchi Ryosuke, khiến anh bị truất quyền thi đấu vì lỗi ném bóng nguy hiểm. Đây là lần ra sân duy nhất của anh trong đội một vào năm 2015. Anh là cầu thủ thứ ba trong lịch sử NPB bị đuổi khỏi sân do ném bóng nguy hiểm trong lần đầu tiên ra sân ở giải hạng nhất, nhưng là trường hợp đầu tiên bị truất quyền thi đấu khi ra sân với tư cách là người ném bóng xuất phát và cũng là trường hợp đầu tiên bị truất quyền thi đấu trong lần đầu tiên ra sân ở giải hạng hai. Hơn nữa, anh ấy bị truất quyền thi đấu chỉ sau khi đối mặt với hai vận động viên, là trường hợp nhanh nhất trong lịch sử.
Vào ngày 29 tháng 6, anh được triệu tập vào đội tuyển chọn NPB để đối đầu với đội tuyển sinh viên Nhật Bản tại Sân vận động Jingu, và ra sân với tư cách là người ném bóng thứ 8. Trong các trận đấu ở Giải miền Đông (giải đấu phụ), anh có 12 lần ra sân, đạt 1 trận thắng, 6 trận thua và tỷ lệ ERA là 5.02.
Vào năm 2016, anh có 8 lần ra sân ở đội một, tất cả đều là cứu thua, không có thắng bại và tỷ lệ ERA là 8.10. Tại Giải miền Đông, anh có 41 lần ra sân, đạt 3 trận thắng, 4 trận thua và 3 lần cứu thua, với tỷ lệ ERA là 3.42. Vào ngày 8 tháng 8 cùng năm, anh kết hôn với nữ diễn viên Matsuoka Ayumi.
Vào năm 2017, anh có 3 lần ra sân với tỷ lệ ERA là 6.75. Sau mùa giải, anh thay đổi số áo từ 32 sang 64.
Vào năm 2018, anh được đôn lên đội một vào ngày 3 tháng 4. Vào ngày 7 tháng 4, trong trận đấu với Yomiuri Giants, anh có trận thắng chuyên nghiệp đầu tiên khi vào sân cứu thua từ hiệp thứ tư sau khi người ném bóng xuất phát Ishikawa Masanori gặp khó khăn, và hoàn thành 2 hiệp không cho điểm. Nhờ màn trình diễn này, anh có nhiều cơ hội ra sân hơn trong mùa giải, và mặc dù bị loại khỏi danh sách một lần vào giữa mùa, anh đã trở lại và có nhiều cơ hội ghi hold, kết thúc mùa giải với tổng cộng 53 lần ra sân, đánh dấu một mùa giải đột phá.
Vào năm 2019 và 2020, mặc dù duy trì tỷ lệ ERA dưới 2.00 tại Giải miền Đông, anh lại gặp khó khăn ở đội một với tỷ lệ ERA trên 7.00 trong cả hai năm, với chỉ hơn 10 lần ra sân mỗi mùa. Vào ngày 2 tháng 11 năm 2020, câu lạc bộ thông báo rằng hợp đồng của anh sẽ không được gia hạn. Điều này đồng nghĩa với việc tất cả 8 cầu thủ được Swallows chọn trong kỳ tuyển chọn năm 2014 (bao gồm một cầu thủ được chọn để phát triển) đều đã rời đội chỉ trong vòng 6 mùa giải. Vào ngày 7 tháng 12, anh tham gia buổi thử việc chung của 12 câu lạc bộ tại Sân vận động Jingu. Mặc dù là một buổi thử việc ngoài trời vào tháng 12, anh đã đạt tốc độ bóng nhanh nhất trong số tất cả các người ném bóng tham gia là 149 km/h và đã khiến 3 người đánh bóng bị strikeout hoặc bóng bay thẳng. Vào ngày 2 tháng 12 năm 2020, anh trở thành cầu thủ tự do.
2.2. Yokohama DeNA BayStars
Vào ngày 10 tháng 12 năm 2020, Kazahari đã ký hợp đồng với Yokohama DeNA BayStars của NPB. Mức lương ước tính của anh là 12.00 M JPY, và anh giữ số áo 64, số áo anh đã mặc ở Yakult.
Vào ngày 10 tháng 7 năm 2021, trong một trận đấu của Giải miền Đông với Chiba Lotte Marines (trận đấu mà người ném bóng cũng tham gia đánh do thiếu cầu thủ đánh được chỉ định), anh đã đánh được một cú double ở hiệp thứ ba. Ở đội một, anh có 5 lần ra sân, ghi nhận tỷ lệ ERA là 7.71. Vào ngày 5 tháng 10 năm 2021, anh một lần nữa nhận được thông báo không gia hạn hợp đồng, đây là năm thứ hai liên tiếp.
2.3. Sự nghiệp tại Giải đấu độc lập
Vào ngày 8 tháng 12 năm 2021, Kazahari tham gia buổi thử việc chung của 12 câu lạc bộ lần thứ hai liên tiếp, diễn ra tại Sân vận động MetLife Dome. Anh đã khiến 3 người đánh bóng bị bóng bay thẳng, bóng bay xuống đất và bị đi bộ. Tuy nhiên, anh không nhận được lời đề nghị nào từ NPB.
Sau đó, anh tham gia Giải Tuyển trạch Arizona (ASL), một dự án do Irokawa Tomoma, tổng giám đốc của Ibaraki Astro Planetes (Giải BC League), tổ chức và điều hành. Anh đã tham gia vào một trận đấu thử nghiệm dạng "đội đỏ đấu đội trắng" trước các tuyển trạch viên từ các giải đấu Nhật Bản và Mỹ, và đạt được kết quả tốt: 3 lần ra sân tổng cộng 4 hiệp, 3 điểm cho phép, 6 cú strikeout, và tốc độ bóng cao nhất là 148 km/h (92 mph) (khoảng 148 km/h).
Vào tháng 2 năm 2022, anh đã ký hợp đồng với Wild Health Genomes thuộc Giải bóng chày chuyên nghiệp Atlantic League. Tại Genomes, Kazahari đã ra sân 4 trận (4.2 hiệp), không có trận thắng hay thua, tỷ lệ ERA là 9.64 và 5 cú strikeout. Do không nhận được lời đề nghị chuyển nhượng nào từ NPB trước thời hạn cuối tháng 7, anh đã rời đội vào ngày 1 tháng 8 năm 2022 và trở về Nhật Bản.
3. Hồ sơ cầu thủ
Với tư cách là một người ném bóng, Kazahari Ren sở hữu một cú ném bóng thẳng đạt tốc độ tối đa 152 km/h. Anh cũng ném các loại bóng xoáy như forkball và slider.
4. Cuộc sống cá nhân
Ren Kazahari đã kết hôn với nữ diễn viên Matsuoka Ayumi vào ngày 8 tháng 8 năm 2016.
5. Giải nghệ
Vào ngày 8 tháng 10 năm 2022, Kazahari Ren đã thông báo về việc giải nghệ tại một sự kiện trò chuyện.
6. Thống kê và kỷ lục sự nghiệp
Trong suốt sự nghiệp chuyên nghiệp của mình, Kazahari Ren đã đạt được một số kỷ lục cá nhân đáng chú ý và tích lũy các số liệu thống kê chi tiết về khả năng ném bóng và phòng ngự hàng năm.
6.1. Các kỷ lục chính
Dưới đây là các kỷ lục cá nhân quan trọng trong sự nghiệp của Ren Kazahari:
- Lần ra sân đầu tiên và lần xuất phát đầu tiên: 3 tháng 5 năm 2015, trong trận đấu với Hiroshima Toyo Carp (trận thứ 7 của mùa giải) tại Sân vận động Meiji Jingu, ném 1/3 hiệp không cho điểm.
- Lần strikeout đầu tiên: 19 tháng 4 năm 2016, trong trận đấu với Hanshin Tigers (trận thứ 4 của mùa giải) tại Sân vận động Hanshin Koshien, strikeout Eguchi Taiga ở hiệp thứ 8.
- Trận thắng đầu tiên: 7 tháng 4 năm 2018, trong trận đấu với Yomiuri Giants (trận thứ 2 của mùa giải) tại Sân vận động Meiji Jingu, vào sân cứu thua từ hiệp thứ 4 với tư cách người ném bóng thứ 2, ném 2 hiệp không cho điểm.
- Lần hold đầu tiên: 16 tháng 6 năm 2018, trong trận đấu với Hokkaido Nippon-Ham Fighters (trận thứ 2 của mùa giải) tại Sapporo Dome, vào sân cứu thua từ hiệp thứ 6 với tư cách người ném bóng thứ 2, ném 1 hiệp không cho điểm.
;Các kỷ lục khác
- Truất quyền thi đấu do ném bóng nguy hiểm trong lần ra sân chuyên nghiệp đầu tiên: Tham khảo phần lần ra sân đầu tiên; bị truất quyền thi đấu sau khi ném quả bóng thứ 5 trúng đầu Kikuchi Ryosuke ở hiệp đầu tiên. Anh là người thứ 3 trong lịch sử và là người đầu tiên bị truất quyền thi đấu khi ra sân với tư cách là người ném bóng xuất phát.
6.2. Thống kê ném bóng hàng năm
Năm | Đội | Trận đấu | Xuất phát | Hoàn thành trận | Trận không cho điểm | Thắng | Thua | Cứu thua | Hold | Tỷ lệ thắng | Đối mặt người đánh | Hiệp ném | Hit cho phép | Home Run cho phép | Walks | Hit by Pitch | Strikeouts | Bóng hoang | Balks | Điểm cho phép | Earned Runs | ERA | WHIP | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2015 | Yakult | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 2 | 0.1 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0.00 | 0.00 | |
2016 | Yakult | 6 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 53 | 10.0 | 18 | 2 | 5 | 0 | 0 | 10 | 0 | 0 | 9 | 9 | 8.10 | 2.30 |
2017 | Yakult | 3 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 16 | 4.0 | 3 | 1 | 1 | 0 | 0 | 3 | 0 | 0 | 3 | 3 | 6.75 | 1.00 |
2018 | Yakult | 53 | 0 | 0 | 0 | 2 | 4 | 0 | 4 | .333 | 241 | 57.2 | 48 | 11 | 22 | 0 | 1 | 61 | 4 | 0 | 30 | 28 | 4.37 | 1.21 |
2019 | Yakult | 14 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | ---- | 95 | 19.0 | 23 | 5 | 15 | 0 | 2 | 17 | 1 | 0 | 15 | 15 | 7.11 | 2.00 |
2020 | Yakult | 11 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 75 | 14.2 | 22 | 2 | 9 | 0 | 1 | 11 | 2 | 0 | 13 | 13 | 7.98 | 2.11 |
2021 | DeNA | 5 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- | 33 | 7.0 | 12 | 2 | 0 | 0 | 0 | 6 | 0 | 0 | 6 | 6 | 7.71 | 1.71 |
Tổng cộng: 7 năm | 93 | 2 | 0 | 0 | 2 | 4 | 0 | 5 | .333 | 515 | 112.2 | 126 | 23 | 52 | 0 | 5 | 108 | 7 | 0 | 76 | 74 | 5.91 | 1.58 |
- Tính đến cuối mùa giải 2021.
6.3. Thống kê phòng ngự hàng năm
Năm | Đội | Trận đấu | Bắt bóng | Hỗ trợ | Lỗi | Double Plays | Tỷ lệ phòng ngự |
---|---|---|---|---|---|---|---|
2015 | Yakult | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- |
2016 | Yakult | 6 | 0 | 1 | 0 | 0 | 1.000 |
2017 | Yakult | 3 | 1 | 0 | 0 | 0 | 1.000 |
2018 | Yakult | 53 | 2 | 11 | 0 | 0 | 1.000 |
2019 | Yakult | 14 | 3 | 3 | 0 | 0 | 1.000 |
2020 | Yakult | 11 | 0 | 5 | 0 | 0 | 1.000 |
2021 | DeNA | 5 | 0 | 0 | 0 | 0 | ---- |
Tổng cộng | 93 | 6 | 20 | 0 | 0 | 1.000 |
- Tính đến cuối mùa giải 2021.
6.4. Số áo
- 32 (2015 - 2017)
- 64 (2018 - 2021)
6.5. Nhạc ra sân
- "Calling All Hearts" của DJ Cassidy (2015 - 2018)
- "The Wizard's Last Rhymes" của Rhapsody of Fire (2019 - )