1. Cuộc đời
Cuộc đời của Kyōsuke Kindaichi là một hành trình dài cống hiến cho ngôn ngữ học và dân tộc học, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu tiếng Ainu, song hành cùng những biến cố cá nhân và xã hội sâu sắc.
1.1. Thời thơ ấu và giáo dục
Kyōsuke Kindaichi sinh ngày 5 tháng 5 năm 1882 (năm Minh Trị thứ 15) tại Yotsuyamachi, Morioka, tỉnh Iwate, là con trai cả của ông bà Kindaichi Kumennosuke và Yasu. Ông là một trong 11 anh chị em (1 chị gái, 6 em trai, 3 em gái). Vì cha ông lên Kyoto công tác khi ông ra đời, nên ông được đặt tên là "Kyōsuke". Gia đình Kindaichi là một dòng dõi danh giá, tổ tiên của Kyōsuke là Ibei Katsusumi đã gây dựng gia tài từ nghề kinh doanh ngũ cốc và từng mở kho cứu dân trong trận nạn đói lớn, được phiên Morioka phong tước sĩ. Cha ông, Kumennosuke (tên cũ là Umesato), vốn xuất thân từ gia đình nông dân nhưng tài hoa, giỏi đọc viết tính toán và vẽ tranh, được gia đình bên vợ Yasuda tuyển làm rể nhưng lại kém trong kinh doanh, liên tục thất bại trong các dự án được giao. Tuy nhiên, nhờ sự giúp đỡ của cậu ông, Kindaichi Katsusada (anh cả của Yasu), Kyōsuke đã lớn lên mà không phải trải qua cảnh nghèo khó. Sáu người em trai của ông sau này đều vào Đại học Tokyo (trước đây là Đại học Đế quốc Tokyo).
Khi còn nhỏ, cha ông thường kể chuyện Genpei Seisuiki và Heike Monogatari cho các con nghe trước khi đi ngủ. Dần dần, Kyōsuke thường xuyên đến thư viện của gia đình chính, nơi ông say mê đọc Tam quốc chí, Sử ký Tư Mã Thiên, và Hạng Vũ Bản Kỷ. Ông theo học tại Trường Trung học Cơ sở Thường Morioka tỉnh Iwate (nay là Trường Trung học Phổ thông Morioka Đệ Nhất tỉnh Iwate). Các bạn học cùng khóa với ông có Oikawa Kōshirō và Nomura Kodō. Trong thời gian học trung học, ông bị thương ở tay khi cố gắng dập tắt một đám cháy nhỏ do đèn dầu trong nhà gây ra, khiến ngón giữa và ngón áp út của ông không thể uốn cong được. Do đó, ông phải từ bỏ đam mê hội họa và càng say mê văn học hơn. Ông chịu ảnh hưởng lớn từ tập thơ Wakanashū của Shimazaki Tōson. Ông từng gửi thơ tới các tạp chí văn học dưới bút danh "Bairikamei" và được các bạn trong trường gọi là "Kindaichi Kakei". Khi tạp chí văn học Myōjō ra mắt vào tháng 4 năm 1900, bài thơ của ông từng được đăng trên một tạp chí khác đã được Yosano Tekkan (người tuyển chọn bài thơ đó) đăng lại. Nhờ đó, Kyōsuke trở thành thành viên của Shinsuisha, nhà xuất bản của Myōjō, và tiếp tục đăng thơ tanka trên tạp chí này. Khoảng tháng 1 năm 1901, Oikawa Kōshirō giới thiệu Ishikawa Takuboku cho Kyōsuke như một đàn em cùng chí hướng về tanka, và Kyōsuke đã cho Takuboku mượn tất cả các số báo Myōjō mà ông có. Sau đó, ông và Takuboku cùng xuất bản tạp chí thơ lưu hành Hakuyō. Năm 1898 (lớp 3), ông là một trong số 17 học sinh ưu tú toàn trường, với điểm trung bình học tập là 86 điểm.
Lúc đó, ông có vóc dáng nhỏ bé và thường tránh các buổi judo vào ban ngày, chỉ tập luyện vào buổi sáng. Yonai Mitsumasa, người học trên ông hai khóa, cũng thường đến tập luyện buổi sáng, và hai người bắt đầu tập judo cùng nhau. Kindaichi cảm thấy áy náy khi Yonai, người to lớn hơn, ngã mạnh khi ông dùng đòn, và họ tiếp tục tập luyện nhiều lần.
1.2. Hoạt động ban đầu và bước vào nghiên cứu tiếng Ainu

Sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Đệ Nhị (cũ), Kyōsuke Kindaichi nhập học Đại học Văn khoa Đế quốc Tokyo vào tháng 9 năm 1904 và chuyển đến Tokyo. Ông bị thu hút bởi các bài giảng của Shimmura Izuru và Ueda Mannen, và quyết định theo học khoa ngôn ngữ học. Các đàn anh khóa trên của ông bao gồm Hashimoto Shinkichi, Ogura Shimpei và Iha Fuyū. Trong khi Ogura nghiên cứu tiếng Triều Tiên và Iha nghiên cứu tiếng Ryukyu, tiếng Ainu lại chưa có nhà nghiên cứu người Nhật nào, chỉ có từ điển tiếng Ainu do nhà truyền giáo người Anh John Batchelor xuất bản. Ueda Mannen đã nói với Kindaichi rằng "nghiên cứu tiếng Ainu là sứ mệnh của các học giả Nhật Bản", và là người xuất thân từ vùng Tōhoku, Kindaichi đã chọn tiếng Ainu làm đề tài nghiên cứu của mình.
Vào năm 1906, ông lần đầu tiên đến Hokkaidō để thu thập các từ vựng tiếng Ainu. Chi phí đi lại 70 JPY do người cậu Katsusada của ông tài trợ. Cuộc khảo sát này đã giúp Kindaichi tự tin hơn vào công trình nghiên cứu của mình. Năm 1907, ông tiến hành khảo sát tiếng Ainu Sakhalin tại Ochopokka, Sakhalin. Chính trong thời gian này, ông đã học tiếng Ainu Sakhalin thông qua những đứa trẻ Ainu, câu chuyện này sau đó trở nên nổi tiếng qua bài tùy bút "Kokoro no Komichi" của ông. Dù đã chi tổng cộng 200 JPY (100 JPY từ Katsusada và 100 JPY từ Ueda), một khoản tiền lớn, Kindaichi đã thành công trong việc thu thập ngữ pháp và 4.000 từ vựng trong 40 ngày lưu trú. Trên đường về, ông quyết tâm gạt bỏ những lo lắng về cuộc sống và dấn thân vào con đường nghiên cứu tiếng Ainu. Khi ông nộp báo cáo nghiên cứu cho Ueda vào tháng 10, lễ tốt nghiệp đại học đã kết thúc.
Tháng 4 năm 1908, ông nhận công việc giáo viên tiếng Nhật tại Trường Trung học Kaijō. Cuối tháng đó, Ishikawa Takuboku chuyển đến trọ cùng ông tại nhà trọ Akishinkan. Kindaichi không chỉ cho Takuboku vay tiền mà còn trả 30 JPY tiền thuê nhà cho hai người. Tuy nhiên, vào tháng 8, ông không có tiền mặt và yêu cầu chủ nhà trọ chờ thanh toán, nhưng bị từ chối. Kindaichi giận dữ bán toàn bộ sách của mình (hai xe đầy) để có đủ 30 JPY trả tiền thuê nhà. Đầu tháng 9, ông và Takuboku chuyển đến nhà trọ Kaheikan khác. Đến tháng 10, Kindaichi mất việc vì không có bằng cấp giáo viên cần thiết cho chuyên ngành ngôn ngữ học của ông. Nhờ sự giới thiệu của thầy Kanazawa Shōzaburō, ông xin được việc tại Sanshōdō và trở thành giảng viên bán thời gian tại Đại học Kokugakuin. Takuboku cũng được nhận làm việc tại phòng đọc sửa bản in của Asahi Shimbun vào tháng 3 năm sau và chuyển đi cùng vợ con đã từ quê lên Tokyo.
Vào năm 1909, Kyōsuke Kindaichi, 27 tuổi, kết hôn với Shizue Hayashi, 20 tuổi. Người giới thiệu là Takuboku, đã quảng cáo rằng Kindaichi là "một cử nhân văn học, giảng viên đại học, và có một người cậu là giám đốc ngân hàng ở Morioka" để thúc đẩy mối hôn sự. Kindaichi muốn cưới một cô gái đến từ Hongō (nơi nói tiếng Nhật chuẩn) thay vì một cô gái quê, nên đã xiêu lòng trước Shizue, người gốc Hongō. Lễ cưới diễn ra vào ngày 28 tháng 12, sau đó họ đi tuần trăng mật ở Hakone và tổ chức tiệc cưới tại nhà cậu Katsusada ở Morioka. Tuy nhiên, Shizue, người lớn lên ở Tokyo, không quen với cuộc sống ở Morioka và ghét cuộc sống nông thôn. Thêm vào đó, Takuboku thường xuyên vay tiền, khiến Shizue phải vật lộn với việc chi tiêu, nhưng Kyōsuke không bận tâm. Cuối cùng, Shizue không chịu nổi và hỏi "tôi hay Takuboku, ai quan trọng hơn?", và Kyōsuke bắt đầu giữ khoảng cách với Takuboku. Khi Shin'ichi, con trai đầu lòng của Takuboku, qua đời khi mới 24 ngày tuổi vào năm 1910, Takuboku đã gửi thiệp hỏi vay áo tang cho Kindaichi, nhưng Kindaichi không trả lời thư và không đến dự tang lễ hay gửi phúng điếu. Ngay sau đó, tác phẩm Ichiaku no Suna của Takuboku được xuất bản, với lời cảm ơn có nhắc tên Kindaichi ở trang bìa và một bản tặng phẩm được gửi đến, nhưng Kindaichi hoàn toàn không có phản hồi. Về sau, trong cuốn sách Ishikawa Takuboku của mình, Kindaichi có viết rằng ông đã chuẩn bị áo tang nhưng Takuboku không đến, ông bận việc nên không thể dự tang lễ, và dự định sẽ gặp Takuboku để cảm ơn về Ichiaku no Suna sau. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Nagahama Isao gọi đây là "sự lấp liếm rõ ràng". Tháng 7 năm 1911, Takuboku, khi đó đã mắc bệnh, chống gậy đến thăm nhà Kindaichi trong cái nắng gay gắt, đây là "lần cuối cùng Takuboku đến thăm" Kindaichi.
Vào tháng 1 năm 1912, con gái cả của ông, Ikuko, qua đời khi còn 20 ngày nữa là tròn 1 tuổi. Bưu thiếp chia buồn của Takuboku gửi cho Kindaichi là bức thư cuối cùng giữa hai người. Sáng sớm ngày 13 tháng 4, Takuboku nguy kịch. Setsuko, vợ Takuboku, đã gọi Kindaichi bằng xe kéo tay. Tuy nhiên, Takuboku nhanh chóng hồi phục ý thức và trò chuyện được, khiến Kindaichi yên tâm và đến trường Kokugakuin làm việc. Nhưng Takuboku qua đời ngay sau đó, và Kindaichi khi trở về nhà Takuboku sau giờ giảng đã phải đối mặt với thi thể của người bạn thân. Sau tang lễ của Takuboku không lâu, Kindaichi nhận được tin cha ông nguy kịch và trở về quê nhà.
Cùng năm đó, vào ngày 26 tháng 9, cha ông, Kumennosuke, qua đời. Kumennosuke đã vỡ nợ vì kinh doanh thất bại, phải giao nhà và đất cho Kindaichi Kokushi, con nuôi của dòng chính, để trả nợ, và cả gia đình phải sống trong khu nhà trọ của dòng chính. Khi Kindaichi đến thăm Kumennosuke đang nằm viện ở Tokyo, cha ông nói: "Cha chưa bao giờ được con cho ăn một hạt cơm nào cả." Sau cái chết của cha, Kindaichi từng nghĩ đến việc từ bỏ nghiên cứu tiếng Ainu, một lĩnh vực không mang lại tiền bạc, nhưng sau đó lại quyết tâm rằng ông sẽ không nghiên cứu nửa vời một lĩnh vực đã khiến cha ông phải hy sinh. Tháng 9, Sanshodo phá sản, và Kindaichi một lần nữa mất việc.
1.3. Nghiên cứu tiếng Ainu và những thành tựu lớn
Vào tháng 10 năm 1912, Hội chợ Triển lãm Thực dân được tổ chức tại Công viên Ueno Onshi ở Tokyo. Kyōsuke Kindaichi đã làm thêm công việc dạy du khách lời chào và các cụm từ thông thường của các dân tộc thiểu số Nhật Bản, đồng thời tiến hành các cuộc phỏng vấn với những người Ainu Sakhalin tham gia triển lãm. Nhờ đó, ông đã có thể chú giải và dịch Yukar ("Hauki" và các bài khác) mà ông thu thập được ở Sakhalin. Tại đây, ông gặp Nabesawa Kopu-anu từ làng Shiunkotsu (Shiunkotsu) ở Hidaka, người đã kể cho ông về sự tồn tại của "Khúc ca Hổ Trượng Hoàn" (Kuzuneshirka), một Yukar dài, và một người kể Yukar mù tên là Wakaru-pa có thể kể nó. Kindaichi đã hỏi ý kiến Ueda Mannen, và Ueda đã tự bỏ tiền túi để chi phí đi lại. Vào tháng 7 năm 1913 (năm Taishō thứ 2), Kindaichi mời Wakaru-pa đến Tokyo. Trong khoảng một tháng lưu trú, ông đã ghi lại 14 bài thơ và bài hát dài 20.000 dòng, cùng 10 tập gồm 1.000 trang bản ghi lời kể. Tuy nhiên, bệnh thương hàn bùng phát ở quê hương của Wakaru-pa, và Wakaru-pa, được dân làng nhờ cầu nguyện, đã trở về nhà vào cuối tháng 8. Wakaru-pa đã cầu nguyện cho từng người dân làng sau đó ngã bệnh vì thương hàn và qua đời vào ngày 7 tháng 12. Kindaichi chỉ biết tin về cái chết của ông vào đầu năm sau.
Trong khi đó, vào năm 1912, khi Yamabe Yasunosuke, một người Ainu Sakhalin tham gia chuyến thám hiểm Nam Cực của Shirase Nobu (người mà Kindaichi đã biết từ trước) trở về Nhật Bản, Kindaichi đã ghi chép và dịch lại cuộc đời của Yamabe theo lời kể của ông. Tác phẩm này sau đó được Hakubunkan xuất bản vào năm 1913 dưới tựa đề Ainu Monogatari (gồm hai tập).
Vào năm 1918 (năm Taishō thứ 7), trong chuyến khảo sát đến Hokkaidō, Kindaichi đã gặp Chiri Yukie tại nhà của Kanari Matsu. Khi Yukie hỏi "Liệu Yukar có đáng giá không?", Kindaichi đã nhiệt tình giải thích rằng đó là một tác phẩm văn học quý giá. Ông đã nghĩ đến việc mời Yukie, người thông thạo cả tiếng Ainu và tiếng Nhật, đến Tokyo sau khi cô tốt nghiệp trường nữ sinh, và đã gửi sổ ghi chép để khuyến khích cô ghi lại Yukar bằng chữ Latinh. Mặc dù Yukie bị bệnh tim, cô đã lên Tokyo vào tháng 5 năm 1922 (năm Taishō thứ 11) và ở nhờ nhà Kindaichi. Kế hoạch xuất bản Ainu Shin'yoshu dựa trên các ghi chép của Yukie đang được tiến hành. Kindaichi đã nhờ Yukie giải thích ngữ pháp tiếng Ainu mà ông chưa hiểu rõ, và hết lời khen ngợi cô là "thiên tài về ngôn ngữ, người phụ nữ như một thiên thần". Vào thời điểm này, vợ Kindaichi, Shizue, đang bị bệnh tâm thần do khó khăn trong cuộc sống và cái chết liên tiếp của các con (xem mục #Quan hệ gia đình bên dưới), và đôi khi Yukie phải chăm sóc cô con gái thứ tư, Wakaba. Chị của Shizue đã đề nghị đón cô về và ly hôn, nhưng Kindaichi đã gạt phăng: "Tuyệt đối không. Cô ấy là vợ tôi," và ông không có sự quan tâm nào dành cho vợ mình. Yukie đã hoàn thành Ainu Shin'yoshu và qua đời vào ngày 18 tháng 9, ở tuổi 19 tuổi 3 tháng.
Vào năm 1923 (năm Taishō thứ 12), Kindaichi đến thăm Kurokawa Tsunare, một nghệ nhân kể Yukar ở Nukibetsu. Wakaru-pa đã nói trước khi qua đời rằng Tsunare biết đầy đủ "Khúc ca Hổ Trượng Hoàn" và nên đến thăm ông ấy. Tuy nhiên, Tsunare đang nằm liệt giường trong tình trạng nguy kịch, và gia đình từ chối cho gặp mặt. Kindaichi đã nhiều lần thuyết phục và được phép vào thăm. Khi gặp Tsunare, Kindaichi đã chào bằng tiếng Ainu để bày tỏ sự kính trọng, và Tsunare đã bám vào dải băng treo trên trần nhà để ngồi dậy và bắt đầu kể "Khúc ca Hổ Trượng Hoàn". Khi Tsunare kể Yukar một cách ngắt quãng, dân làng đã tập trung lại và cố gắng ngăn Kindaichi ghi chép, nói rằng "sẽ là xấu hổ nếu những điều đó được lưu lại như Yukar của Tsunare". Tuy nhiên, Tsunare đã vẫy tay và yêu cầu Kindaichi ghi lại. Nhờ Tsunare, Kindaichi phát hiện ra rằng "Khúc ca Hổ Trượng Hoàn" của Wakaru-pa không phải là dang dở mà đã hoàn chỉnh. Tuy nhiên, phương pháp cưỡng ép của Kindaichi sau này đã bị chỉ trích gay gắt.
Năm 1931 (năm Shōwa thứ 6), tác phẩm lớn nhất của Kindaichi, Nghiên cứu Yukar: Sử thi Ainu tập I và II, đã được xuất bản. Trong tùy bút Con đường tôi đã đi viết vào cuối đời, Kindaichi hồi tưởng: "Được Oka Shigewo của Okashoin nhiều lần yêu cầu, tôi đã viết vào năm Shōwa thứ 5, xuất bản năm thứ 6, và nhận Giải thưởng Thiên Hoàng vào năm thứ 7." Tuy nhiên, hồi ký Bản tính người bán sách của Oka viết vào cuối đời lại kể một câu chuyện khác. Ban đầu, Kindaichi đã nộp luận án tiến sĩ về nghiên cứu Yukar bằng tiếng châu Âu cho Đại học Đế quốc Tokyo, nhưng nó bị cháy trong Đại địa chấn Kantō khi đang được lưu giữ tại Thư viện Đại học do thiếu người đủ điều kiện để đánh giá. Yanagita Kunio tiếc nuối điều này và nhờ Oka Shigewo giúp đỡ. Oka đến thăm Kindaichi, người đang sống trong một căn nhà tạm sau trận động đất. Với sự động viên và hợp tác của Oka, Kindaichi đã viết lại tác phẩm bằng tiếng Nhật. Nhờ sự sắp xếp của Oka, Shibusawa Keizō đã gửi 50 JPY mỗi tháng, và Thư viện Đông Dương cũng tài trợ nghiên cứu cho Kindaichi khi xuất bản. Nhờ đó, một tác phẩm đồ sộ gồm 2 tập, tổng cộng 1.458 trang, đã ra đời. Trong Bản tính người bán sách, Oka viết rằng ông "vô cùng hối tiếc" khi Kindaichi đã không đề cập đến sự giúp đỡ của Yanagita và Shibusawa một cách hời hợt.
Năm 1930 (năm Shōwa thứ 5), em trai của Yukie, Chiri Mashio, đến Tokyo nương nhờ Kindaichi và nhập học Ichikō (trường trung học). Sau đó, ông tốt nghiệp khoa ngôn ngữ học tại Đại học Tokyo và trở thành học trò thứ hai của Kindaichi trong nghiên cứu tiếng Ainu, sau Kubodera Itsushiko.
Cuốn Meikai Kokugo Jiten được xuất bản năm 1943 đã trở thành sách bán chạy nhất. Kenbō Gorō viết trong cuốn Làm từ điển (Tamagawa Sensho) rằng "Có hơn mười cuốn từ điển tiếng Nhật được xuất bản dưới tên thầy Kyōsuke, nhưng hầu hết chúng chỉ lợi dụng nhân cách của thầy để mượn tên. Trong số đó, chỉ có Meikai Kokugo Jiten là thầy thực sự xem xét từng dòng cuối cùng và chịu trách nhiệm." Tuy nhiên, mặc dù cuốn từ điển này gần như hoàn toàn do Kenbō biên soạn, nhưng vào thời điểm đó, một sinh viên sau đại học của Đại học Đế quốc Tokyo không thể xuất bản từ điển dưới tên mình, vì vậy ông đã mượn tên của Kindaichi, người đã giới thiệu Kenbō với Sanshodo. Theo Kindaichi Haruhiko, con trai của Kindaichi Kyōsuke và cũng là một nhà ngôn ngữ học, có nhiều từ điển ghi "Kimdaichi Kyōsuke biên soạn", nhưng ông chỉ cho mượn tên, thực tế thì ông hiếm khi tự mình biên soạn.
Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, Kindaichi không hề nghi ngờ về chiến thắng của Nhật Bản. Khi Tokyo bị ném bom, con trai cả Haruhiko, người đã kết hôn và dọn ra ở riêng, đã khuyên ông sơ tán và gửi vợ ông, Shizue, con gái Wakaba, cùng thư viện của ông đến căn phòng do Hattori Shiro chuẩn bị ở Okutama. May mắn thay, nhà Kindaichi không bị cháy trong các cuộc không kích, và cuộc sống ba người của họ trở lại bình thường sau chiến tranh. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 12 năm 1949 (năm Shōwa thứ 24), Wakaba đã tự sát tại Sông Tamagawa Jōsui. Wakaba đã kết hôn vào năm trước, nhưng đã để lại thư tuyệt mệnh nói rằng cô ấy cảm thấy yếu ớt và không còn tự tin để sống tiếp.
1.4. Những năm cuối đời và qua đời
Sau chiến tranh, Sanshodo đã yêu cầu hai cha con Kindaichi Kyōsuke và Haruhiko biên soạn sách giáo khoa tiếng Nhật mới theo quy định về sách giáo khoa mới. Cuốn Chūtō Kokugo Kindaichi Kyōsuke Hen (gọi tắt là Chūkin) của Sanshodo đã đứng đầu về số lượng được chọn trong hơn mười năm sau khi xuất bản, trở thành sách giáo khoa tiếng Nhật tiêu biểu.
Vào cuối đời, Kindaichi Kyōsuke dành toàn bộ thời gian cho việc chú giải và dịch các ghi chép Yukar từ Kanari Matsu và những người khác. Những tác phẩm này được xuất bản từ năm 1959 (năm Shōwa thứ 34) dưới tên Tuyển tập Sử thi Ainu Yukar (ông qua đời khi dịch đến tập 9).
Năm 1969 (năm Shōwa thứ 44), ông chuyển đến căn hộ ở Hongō mà con trai Haruhiko đã mua. Khoảng tháng 8 năm 1971 (năm Shōwa thứ 46), ông thường xuyên phải nằm liệt giường, và vào sáng ngày 7 tháng 11, tình trạng của ông trở nên tồi tệ. Vào lúc 8 giờ 30 tối ngày 14 tháng 11, ông qua đời do xơ cứng động mạch và viêm phế quản phổi do tuổi già, hưởng thọ 89 tuổi. Pháp danh của ông là "Jutokuin Den Tetsugen Kamei Dai Koji". Ông được truy tặng Tòng Tam Vị và Huân chương Thụy Bảo hạng Nhất (thăng cấp từ Huân chương hạng Tư mà ông đã nhận trước chiến tranh). Lễ cầu siêu diễn ra tại chùa Kifukuji vào ngày 15, và lễ an táng bí mật vào ngày 16. Vào ngày 23, lễ truy điệu được tổ chức tại Nhà tang lễ Aoyama dưới danh nghĩa công ty Sanshodo. Chủ tịch ủy ban tang lễ là Kamei Kaname, và các bài điếu văn của Bộ trưởng Giáo dục Takami Saburō, Viện trưởng Viện Hàn lâm Nhật Bản Nambara Shigeru đã ca ngợi những đóng góp của ông. Nhiều vòng hoa đã được gửi đến từ các trường đại học, phương tiện truyền thông, diễn viên và chính trị gia, khiến tang lễ của một học giả trở nên rất hoành tráng.
2. Tính cách và tư tưởng
Kyōsuke Kindaichi là một người có nhiều phẩm chất đặc biệt, phản ánh qua các mối quan hệ học thuật và xã hội của ông. Những quan điểm của ông về ngôn ngữ, văn hóa Ainu và mối quan hệ cá nhân đều thể hiện một tư tưởng phức tạp, đôi khi mâu thuẫn.
2.1. Quan điểm về nghiên cứu tiếng Ainu
Kyōsuke Kindaichi đã dành cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu tiếng Ainu, chịu đựng cuộc sống nghèo khó. Kindaichi Hideho, cháu trai của ông, vào năm 2014 đã nói rằng nếu không có Kindaichi Kyōsuke, tiếng Ainu có thể đã không còn tồn tại. Tuy nhiên, sau Thế chiến thứ hai, ông bị chỉ trích vì đã hợp tác với chính sách đồng hóa người Ainu.
Vào thời đó, người ta được dạy rằng người Ainu là một dân tộc thấp kém hơn người Nhật. Nhưng Kindaichi đã đối xử chân thành với họ, nói rằng "người Ainu là một dân tộc vĩ đại" và "văn hóa của các bạn không hề thua kém". Mặt khác, ông cũng viết:
"Nhưng mặt khác, khi những người cùng học đều đang say mê với văn học phương Tây lẫy lừng, hay theo đuổi triết học phương Tây, triết học Nhật Bản, những tư tưởng cao siêu như vậy để hoàn thiện bản thân, thì một mình mình lại làm những thứ hoang dã như vậy, liệu có bị mọi người bỏ lại phía sau không? Nghĩ đến điều đó, tôi cảm thấy thật cô đơn." (Trích "Kindaichi Kyōsuke Watashi no Aruite Kita Michi" (Con đường tôi đã đi), Trung tâm Sách Nhật Bản, ngày 25 tháng 2 năm 1997, trang 52-55).
"Một mình tôi lạc lối vào thế giới của những người nguyên thủy, sống mãi trong nền văn hóa mông muội, thấp kém, nỗi cô đơn dâng trào." (Trích "Watashi no Shigoto" (Công việc của tôi), 1954).
Ông cũng tin rằng người Ainu nên từ bỏ tiếng Ainu và đồng hóa với tiếng Nhật, ngôn ngữ của Đế quốc Nhật Bản. Yasuda Toshiro đã chỉ trích thái độ của Kindaichi đối với người Ainu và tiếng Ainu, bao gồm cả những quan điểm này, trong cuốn sách Kindaichi Kyōsuke và Thời hiện đại của tiếng Nhật (Heibonsha Shinsho, 2008).
Sau này, Chiri Mashio, một học trò của Kindaichi, đã chỉ trích gay gắt nghiên cứu tiếng Ainu của Kindaichi và các học giả Nhật Bản khác. Khi cuốn Từ điển tiếng Ainu: Phần thực vật của Chiri được đề cử cho Giải thưởng Asahi, Kindaichi đã từ chối tiến cử với lý do tác phẩm này mở đầu bằng việc chỉ trích các nhà thực vật học của Đại học Hokkaido. Chiri đã nói với những người xung quanh rằng "Thầy đang ghen tị với tôi". Tuy nhiên, Kindaichi sau đó đã viết lời tiến cử cho phần tiếp theo, Phần con người. Mashio qua đời năm 1961 ở tuổi 52. Kindaichi, 79 tuổi, đã bay đến Hokkaido, nhưng tên ông không có trong danh sách những người mà Mashio muốn được thông báo khi ông qua đời.
Khi được mời giảng về tiếng Ainu cho Thiên hoàng Shōwa, dù thời gian cho phép chỉ là 15 phút, Kindaichi đã nói liên tục gần hai giờ. Ông cảm thấy vô cùng xấu hổ khi đã nói quá dài trước mặt Thiên hoàng. Tuy nhiên, Thiên hoàng sau đó đã an ủi ông tại một buổi tiệc trà rằng "Câu chuyện lần trước rất thú vị". Kindaichi đã nói "Thần xin bái phục" rồi không nói nên lời, nước mắt cứ thế chảy. Sau khi Kindaichi qua đời, Thiên hoàng đã ban tặng lễ vật cúng tế cho ông.
2.2. Mối quan hệ với Ishikawa Takuboku
Kindaichi Kyōsuke và Ishikawa Takuboku là những người bạn thân. Khi Tuyển tập Ishikawa Takuboku được xuất bản, Kindaichi kịch liệt phản đối việc đưa Nhật ký chữ La-tinh vào, vì trong đó có những đoạn mô tả việc ông và Takuboku cùng nhau đến Asakusa và chơi với kỹ nữ. Ông lo sợ rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân của con gái ông. Thực tế, Takuboku đã ba lần nói với Kindaichi khi còn sống rằng ông sẽ giao lại nhật ký của mình (bao gồm cả Nhật ký chữ La-tinh) sau khi ông mất, và nếu Kindaichi thấy cần đốt thì hãy đốt, còn không thì đừng. Tuy nhiên, sau tang lễ của Takuboku, Kindaichi rời Tokyo vì cha ông nguy kịch (và Maruya Kiichi, người được Takuboku nghiêm cấm đốt nhật ký, cũng vắng mặt do kiểm tra nghĩa vụ quân sự), nên nhật ký được vợ Takuboku, Setsuko, giữ. Trước khi qua đời ở Hakodate, Setsuko đã nói chuyện với Miyazaki Ikuu về việc giao lại nhật ký, và sau khi Setsuko qua đời, Ikuu đã gửi nhật ký đến Thư viện Trung ương Hakodate. Hơn 20 năm sau, vào năm 1936, Kaizōsha bày tỏ ý định xuất bản nhật ký cho Maruya. Sau cuộc thảo luận giữa Maruya, Kindaichi và Toki Zenmaro, Maruya đã gửi thư cho Okada Kenzo, giám đốc Thư viện Hakodate, yêu cầu xuất bản nhật ký (phân chia nhật ký cho ba người từ Thư viện Hakodate) và sau khi xuất bản, xử lý theo "phương pháp được cho là thỏa mãn nhất cho người đã khuất và tất cả những người liên quan", nhưng yêu cầu này đã bị phớt lờ. Năm 1939, Okada Kenzo tuyên bố trên đài phát thanh rằng "chừng nào tôi còn sống, nhật ký sẽ không được xuất bản cũng không bị đốt". Kindaichi, khi nghe điều này, đã tỏ ra thất vọng khi khen ngợi bề ngoài phán quyết của Okada: "Dường như không có lý do đặc biệt nào. Chỉ có sự chi phối của tâm lý chung của những người yêu thích cất giữ. Tuy nhiên, như vậy cũng được. Chính tinh thần đó đã cứu cuốn nhật ký khỏi bị đốt." Sau khi Okada qua đời vào năm 1944, Ishikawa Masao (chồng của Kyoko, con gái cả của Takuboku) đã quyết định xuất bản nhật ký. Ông đã yêu cầu Kindaichi xác nhận nội dung, và Kindaichi, lần đầu tiên đọc nó, đã cố gắng hết sức để chấp nhận việc xóa bỏ những nội dung bất lợi cho mình vì sự công bằng, và chỉ yêu cầu xóa bỏ một đoạn trong Nhật ký chữ La-tinh mà ông cảm thấy "quá khủng khiếp" và một đoạn khác mà ông cho rằng "sẽ gây rắc rối về mặt đạo đức cho những người còn sống". Tuy nhiên, Ishikawa Masao đã xuất bản chúng mà không cắt bỏ. Trong bài viết "Cuối Nhật ký Takuboku" trên Nhật ký Ishikawa Takuboku tập 3 (Sekai Hyoronsha, 1949), Kindaichi đã ghi lại ấn tượng của mình khi đọc nhật ký (những hoài niệm và sự khác biệt so với ký ức của ông), và kết luận: "Trong số phận nghiệt ngã như vậy, một thanh niên vĩnh cửu không nguyền rủa số phận, vượt qua bệnh tật và nghèo đói, vẽ nên lý tưởng tươi sáng của ngày mai, cuối cùng đi vào cõi vĩnh hằng một cách thanh thản như một giấc ngủ - việc xuất bản Nhật ký Takuboku, theo nghĩa đó, tin rằng đã bổ sung thêm một tài liệu vĩnh cửu đáng trân trọng vào văn học hiện đại."
Kindaichi khẳng định rằng Takuboku đã có một "sự chuyển đổi tư tưởng" vào cuối đời, dựa trên ký ức về lần Takuboku đến thăm ông lần cuối. Iwaki Yoshinori, một nhà nghiên cứu, đã chỉ trích điều này là sai lầm dựa trên các tài liệu, và Kindaichi đã phản bác một cách cảm tính vào năm 1961, dẫn đến một cuộc tranh cãi giữa hai người. Tuy nhiên, khi Kindaichi chuyển trọng tâm tranh cãi từ "sự chuyển đổi tư tưởng của Takuboku" sang "việc Takuboku đến thăm", Iwaki đã ngừng tranh cãi, gửi thư riêng để hóa giải hiểu lầm, và sau đó vào năm 1964, hai người đã gặp mặt theo lời mời của Kindaichi và hòa giải. Ban đầu, Iwaki đã bắt đầu nghiên cứu của mình dưới ảnh hưởng của cuốn sách Ishikawa Takuboku của Kindaichi, và tình bạn giữa hai người bắt đầu khi Iwaki gửi luận văn riêng đầu tiên của mình cho Kindaichi. Kindaichi ban đầu đánh giá cao nghiên cứu thực chứng của Iwaki. Trong buổi gặp mặt, Kindaichi đã bỏ qua tranh cãi như "chỉ là một cuộc cãi vã giữa cha con", và sau đó duy trì mối quan hệ thân thiết với Iwaki như trước. Tuy nhiên, quan điểm của Iwaki về "sự chuyển đổi tư tưởng của Takuboku" đã trở thành quan điểm phổ biến.

2.3. Các giai thoại khác
Vào năm Minh Trị thứ 40 (1907), Kindaichi đã đến Sakhalin và vô cùng bối rối khi tiếng Ainu Hokkaido mà ông đã học không được người Ainu địa phương hiểu và họ hoàn toàn không chịu nói chuyện với ông. Tình cờ, ông vẽ tranh trước mặt những đứa trẻ đang chơi, và những đứa trẻ tỏ ra thích thú, nói cho ông những từ tiếng Ainu Sakhalin. Khi ông thử dùng những từ đã học trước mặt những người lớn, tất cả đều rất vui mừng và từ đó trở đi, họ đã nhiệt tình dạy ngôn ngữ cho Kindaichi. Giai thoại này đã được biết đến rộng rãi qua bài "Cho đến khi tôi nói được vài từ" (xuất bản năm 1931 trong Yukar no Hitobito của Heibonsha Library) và bài tùy bút "Kokoro no Komichi" được đưa vào sách giáo khoa tiếng Nhật cấp trung học mới sau chiến tranh. Tuy nhiên, học trò của ông, Chiri Mashio, đã chỉ ra rằng "người Ainu Sakhalin đã từng đến Hokkaido, nên không thể nói rằng tiếng Ainu Hokkaido hoàn toàn không thể hiểu được". Kindaichi đã biện minh rằng "ban đầu dân làng chỉ cảnh giác nên không chịu nói chuyện với tôi, chứ tôi không hề viết rằng họ không hiểu tôi nói gì."
Kindaichi rất nhiệt tình trong việc tiêu chuẩn hóa tiếng Nhật chuẩn và từng là trưởng ban tiếng Nhật chuẩn trong Hội đồng Ngôn ngữ Quốc gia. Ông có mặc cảm về phát âm của chính mình. Con trai ông, Haruhiko, kể rằng Kindaichi đã thất vọng khi nghe băng ghi âm phát âm của mình.
Mặc dù xuất thân từ vùng Tōhoku, ông lại phản đối thuyết Yoshitsune đi về phía Bắc và thuyết Yoshitsune=Thành Cát Tư Hãn. Khi còn trẻ, ông đã đến thăm nhà và giao lưu với Koyabe Zen'ichiro, một tín đồ của thuyết này. Tuy nhiên, trên tạp chí Chūō Shidan, ông đã chỉ trích gay gắt "thuyết Koyabe là chủ quan, và các bài nghiên cứu lịch sử phải được trình bày một cách khách quan, những loại luận văn này là 'niềm tin'." Ông kết luận rằng câu chuyện Onzōshi Shimawatari đã được truyền đến Ezochi (Hokkaidō) từ xa xưa, sau này người Nhật đã hiểu nhầm đó là truyền thuyết của người Ainu, và việc liên kết Okikurumi với Yoshitsune là tương đối mới, còn lời kể của các trưởng lão Ainu thì có ý thức về người Nhật.
3. Tác phẩm và các công trình chính
Kyōsuke Kindaichi đã để lại một di sản đồ sộ các tác phẩm trong lĩnh vực ngôn ngữ học, dân tộc học và nghiên cứu tiếng Nhật, thể hiện sự cống hiến không ngừng nghỉ của ông.
3.1. Tác phẩm cá nhân
- Kitakeiso Koyō Ihin (1914)
- Ainu no Kenkyū (1925)
- Yukar no Kenkyū: Ainu Jojishi (2 tập) (1931)
- Kokugo On'inron (1932)
- Ainu Bungaku (1933)
- Gengo Kenkyū (1933)
- Ishikawa Takuboku (1934, tái bản nhiều lần)
- Kita no Hito (1934, tái bản nhiều lần)
- Gakusō Zuihitsu (1936)
- Yūkura (tùy bút) (1936)
- Saihi Zuihitsu (1937)
- Kokugoshi - Keitōhen - (1938)
- Kokugo no Hensen (1941, tái bản nhiều lần)
- Shinkokubunpō (1941)
- Kokugo Kenkyū (1942)
- Yukar Gaisetsu Ainu Jojishi (1942)
- Kotodama o Megurite (1944)
- Kokugo no Shinro (1948)
- Shin Nihon no Kokugo no Tame ni (1948)
- Kokugogaku Nyūmon (1949)
- Kokoro no Komichi (tùy bút) (1950)
- Gengogaku Gojūnen (1955)
- Nihon no Keigo (1959, tái bản nhiều lần)
- Kindaichi Kyōsuke Shū Watashitachi wa Dō Ikiru ka (1959)
- Kindaichi Kyōsuke Senshū Kindaichi Hakushi Kiju Kinen Dai 1 (Ainu-go Kenkyū) (1960)
- Kindaichi Kyōsuke Senshū Dai 2 (Ainu Bunkashi) (1961)
- Kindaichi Kyōsuke Senshū Dai 3 (Kokugogaku Ronkō) (1962)
- Kindaichi Kyōsuke Zuihitsu Senshū Dai 1-3 (1964)
- Watashi no Aruite Kita Michi Kindaichi Kyōsuke Jiden (1968)
3.2. Tác phẩm đồng tác giả và biên tập
- Ainu Gohō Gaisetsu (đồng tác giả với Chiri Mashio, 1936)
- Ainu Geijutsu Tập 1-3 (đồng tác giả với Sugiyama Sueo, 1941-43)
- Ainu Dōwashū (đồng tác giả với Arakida Keju, 1943, tái bản 1981, 2019)
- Ainu no Mukashibanashi (đồng tác giả với Arakida Keju, 1948)
- Rikunbetsu no Okina Ainu Mukashibanashi (đồng biên soạn với Chiri Mashio, 1948)
- Meikai Kokugo Jiten (1943)
- Jikai (1952)
- Kokin Wakashū no Kaishaku to Bunpō (đồng tác giả với Tachibana Makoto, 1954)
- Shinsen Kokugo Jiten (đồng biên soạn với Saeki Umetomo, 1959)
- Reikai Gakushū Kokugo Jiten (1965)
- Sanseidō Kokugo Jiten (đồng biên soạn với Kindaichi Haruhiko, Shibata Takeshi, Yamada Tadao, Kenbō Gorō, 1960)
3.3. Sách dịch
- Shin Gengogaku (dịch từ A History Of Th Language của Henry Sweet, 1912)
- Ainu Seiten (1923)
- Ainu Rakuru no Densetsu Ainu Shinwa (1924)
- Ainu Jojishi Yukar (1936, tái bản 1994)
- Kutneshirka no Kyoku Ainu Jojishi (1944)
- Yukarshū Ainu Jojishi Tập 1-8 (bản ghi của Kanari Matsu, chú giải và dịch, 1959-68)
3.4. Tập san kỷ niệm
- Gengo Minzoku Ronsō Kindaichi Hakushi Koki Kinen (1953)
- Kindaichi Hakushi Beiju Kinen Ronbunshū (1971)
3.5. Hoạt động sáng tác lời bài hát
Kyōsuke Kindaichi còn là người đã viết lời cho nhiều bài hát, đặc biệt là các bài trường ca:
- Trường ca Trường Trung học Đệ Nhất Mito (tỉnh Ibaraki) (1952)
- Trường ca Trường Trung học Takaiji Suginami (Tokyo) (1957)
- Trường ca Trường Trung học Omura Yaizu (tỉnh Shizuoka) (1957)
- Trường ca Trường Trung học Toyotama (Tokyo) (1951)
- Trường ca Trường Tiểu học Higashida Suginami (Tokyo) (1951)
- Trường ca Trường Trung học Tajimi Kita (tỉnh Gifu) (1961)
- Trường ca Trường Trung học Omura Yaizu (tỉnh Shizuoka) (không rõ năm sáng tác)
- Trường ca Trường Trung học Fujimi Niigata (tỉnh Niigata) (không rõ năm sáng tác)
4. Quan hệ gia đình
Kyōsuke Kindaichi có một gia đình với nhiều thành viên gắn bó sâu sắc với cuộc sống và sự nghiệp của ông, một số người cũng là những học giả và nhân vật nổi bật.
- Vợ: Shizue (họ cũ Hayashi)
- Con gái đầu: Ikuko (sinh năm 1911, mất năm sau do bệnh)
- Con trai cả: Kindaichi Haruhiko (nhà ngôn ngữ học nổi tiếng)
- Con gái thứ hai: Yayoi (sinh năm 1915, mất cùng năm do bệnh)
- Con gái thứ ba: Miho (sinh năm 1916, mất năm sau do bệnh)
- Con gái thứ tư: Wakaba (sinh năm 1921, tự tử năm 28 tuổi tại sông Tamagawa Jōsui do bệnh tật yếu đuối)
Trong số các con của Kyōsuke Kindaichi, chỉ có Haruhiko là sống đến tuổi già.
- Các cháu:
- Kindaichi Masumi (cháu gái, nhà ngôn ngữ học)
- Kindaichi Hideho (cháu trai, nhà ngôn ngữ học)
- Họ hàng khác:
- Hirai Naowe: em trai, từng là chủ tịch Hội đồng thị trấn Hinezume.
- Kindaichi Katsusada: cậu, một doanh nhân.
- Kindaichi Kunishi: con rể của Katsusada (chồng của chị họ Kyōsuke), cũng là một doanh nhân.
- Kindaichi Atsuko: cháu gái của Kunishi (sinh năm 1939), là một nữ diễn viên nổi tiếng của hãng phim Daiei.
5. Biên niên sử
Đây là bảng tổng hợp các sự kiện quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp của Kyōsuke Kindaichi:
Năm (niên đại) | Sự kiện |
---|---|
1882 (Minh Trị 15) | Sinh ra là con trai cả của Kindaichi Kumennosuke và Yasu. |
1888 (Minh Trị 21) | Nhập học Trường Tiểu học Thường Morioka Đệ Nhất (nay là Trường Tiểu học Niō). |
1892 (Minh Trị 25) | Nhập học Trường Tiểu học Cao cấp Morioka (nay là Trường Trung học Cơ sở Shimoashi Morioka). |
1896 (Minh Trị 29) | Nhập học Trường Trung học Morioka tỉnh Iwate (nay là Trường Trung học Phổ thông Morioka Đệ Nhất tỉnh Iwate). |
1901 (Minh Trị 34) | Nhập học Trường Trung học Đệ Nhị (cũ) (nay là Đại học Tohoku). |
1907 (Minh Trị 40) | Tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ học, Đại học Văn khoa Đế quốc Tokyo. Luận văn tốt nghiệp là "Trợ từ trong ngôn ngữ thế giới". Tháng 7, một mình sang Nam Sakhalin điều tra tiếng Ainu Sakhalin. |
1908 (Minh Trị 41) | Nhận công việc giáo viên tại Trường Trung học Kaijō nhưng mất việc vào tháng 10. Ishikawa Takuboku chuyển đến Tokyo. Trở thành nhân viên hiệu đính của Sanshodo và giảng viên của Đại học Kokugakuin. |
1909 (Minh Trị 42) | Ngày 28 tháng 12, kết hôn với Hayashi Shizue. |
1912 (Đại Chính 1) | Gặp cụ bà Kopu-anu ở Shiunkotsu tại Hội chợ Triển lãm Thực dân ở Ueno. Hỏi về Yukar và tiếng Ainu. Ishikawa Takuboku qua đời. |
1913 (Đại Chính 2) | Từ tháng 7 đến cuối tháng 8, theo lời giới thiệu của Kopu-anu, mời người kể Yukar mù Wakaru-pa từ Shiunkotsu đến Tokyo. Ghi chép khoảng 1.000 trang Yukar "Kutneshirka" bằng chữ Latinh. Wakaru-pa qua đời tại quê nhà vào cuối năm. |
1915 (Đại Chính 4) | Mùa thu, đến thăm Shiunkotsu và ghi chép các bài hát kể chuyện của các cụ bà. |
1918 (Đại Chính 7) | Theo lời giới thiệu của John Batchelor, đến thăm nhà Kanari Matsu và gặp Monashinōku, mẹ của Matsu và là "người kể Yukar cuối cùng và vĩ đại nhất", cùng Chiri Yukie, khi đó 16 tuổi. |
1922 (Đại Chính 11) | Trở thành giáo sư tại Đại học Kokugakuin, sau đó là giáo sư danh dự. |
1923 (Đại Chính 12) | Đến thăm Kurokawa Tsunare ở Nukibetsu, người được Wakaru-pa giới thiệu, và ghi chép hoàn chỉnh "Kutneshirka". |
1925 (Đại Chính 14) | Tháng 4, theo lời giới thiệu của Okakura Yoshisaburo, nhậm chức giáo sư Khoa Văn học tại Đại học Rikkyo. |
1926 (Đại Chính 15) | Giảng viên chính thức tại Đại học Taisho (đến năm 1940). |
1928 (Shōwa 3) | Trợ lý giáo sư tại Đại học Đế quốc Tokyo. |
1931 (Shōwa 6) | Xuất bản hai tập Nghiên cứu Sử thi Ainu Yukar. |
1932 (Shōwa 7) | Nhận Giải thưởng Thiên Hoàng (Viện Hàn lâm Nhật Bản) cho tác phẩm Nghiên cứu Sử thi Ainu Yukar xuất bản năm trước. |
1935 (Shōwa 10) | Nhận bằng Tiến sĩ Văn học. Luận văn là "Ngữ pháp Yukar, đặc biệt là về động từ của nó". Trở thành chủ tịch đầu tiên của Liên đoàn Cờ Shogi Đại học Tokyo (bao gồm Đại học Đế quốc Tokyo, Đại học Thương mại Tokyo, Đại học Waseda, Đại học Rikkyo). |
1940 (Shōwa 15) | Thành viên Ủy ban Thuật ngữ Phát sóng NHK (đến năm 1962). |
1941 (Shōwa 16) | Giáo sư tại Đại học Đế quốc Tokyo (đến năm 1943). |
1942 (Shōwa 17) | Nhận Huân chương hạng Tư. |
1943 (Shōwa 18) | Thôi chức tại Đại học Tokyo. Từ điển Meikai Kokugo Jiten của Sanshodo được xuất bản. |
1948 (Shōwa 23) | Thành viên Viện Hàn lâm Nhật Bản. |
1952 (Shōwa 27) | Thành viên Hội đồng Ngôn ngữ Quốc gia (đến năm 1958). |
1954 (Shōwa 29) | Nhận Huân chương Văn hóa. |
1959 (Shōwa 34) | Được phong tặng danh hiệu Công dân Danh dự đầu tiên của Morioka. |
1967 (Shōwa 42) | Trở thành chủ tịch thứ hai của Hội Ngôn ngữ học Nhật Bản (đến năm 1970). |
1971 (Shōwa 46) | Qua đời ở tuổi 89. Pháp danh là "Jutokuin Den Tetsugen Kamei Dai Koji". Truy tặng Tòng Tam Vị và Huân chương Thụy Bảo hạng Nhất (thăng cấp từ Tòng Tứ Vị, Huân chương hạng Tư đã nhận trước chiến tranh). |

6. Đánh giá và di sản
Kyōsuke Kindaichi đã để lại một di sản phức tạp nhưng không thể phủ nhận trong lĩnh vực ngôn ngữ học và văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là thông qua những đóng góp tiên phong của ông trong nghiên cứu tiếng Ainu.
6.1. Đánh giá tích cực
Kyōsuke Kindaichi đã cống hiến trọn đời mình cho việc nghiên cứu tiếng Ainu, chịu đựng cuộc sống nghèo khó. Các công trình của ông, đặc biệt là việc ghi chép và phân tích các sử thi Yukar, đã đặt nền móng cho ngành nghiên cứu tiếng Ainu tại Nhật Bản và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn ngôn ngữ này khỏi nguy cơ mai một. Cháu trai ông, Kindaichi Hideho, từng nói rằng nếu không có Kyōsuke Kindaichi, tiếng Ainu có lẽ đã không còn tồn tại. Ông được đánh giá là người có công lớn trong việc thu thập và hệ thống hóa ngữ pháp, từ vựng và văn học truyền miệng của người Ainu.
Thành tựu học thuật đỉnh cao của ông là Nghiên cứu Yukar: Sử thi Ainu (1931), một tác phẩm đồ sộ được trao Giải thưởng Thiên Hoàng (Viện Hàn lâm Nhật Bản). Cuốn từ điển Meikai Kokugo Jiten (1943) do ông biên soạn cũng trở thành một tác phẩm bán chạy và có ảnh hưởng lớn đến việc học tiếng Nhật. Những nỗ lực của ông trong việc tiêu chuẩn hóa tiếng Nhật cũng là một phần quan trọng trong di sản học thuật của ông.
6.2. Phê bình và tranh cãi
Mặc dù có những đóng góp to lớn, Kyōsuke Kindaichi cũng phải đối mặt với nhiều phê bình, đặc biệt là liên quan đến quan điểm và phương pháp của ông đối với người Ainu. Sau Thế chiến thứ hai, ông bị chỉ trích vì đã hợp tác với chính sách đồng hóa người Ainu của chính phủ Nhật Bản, một chính sách nhằm đồng hóa người Ainu vào văn hóa Nhật Bản và xóa bỏ bản sắc riêng của họ. Dù ông khẳng định rằng văn hóa Ainu không hề thua kém, nhưng ông cũng có quan điểm rằng người Ainu nên từ bỏ ngôn ngữ của mình để sử dụng tiếng Nhật, thể hiện một tư tưởng đồng hóa ngầm.
Phương pháp nghiên cứu của ông đôi khi bị coi là cưỡng ép, như trường hợp ông kiên quyết ghi chép "Khúc ca Hổ Trượng Hoàn" từ Kurokawa Tsunare, dù Tsunare đang trong tình trạng nguy kịch và dân làng phản đối. Học trò của ông, Chiri Mashio, sau này cũng đã chỉ trích gay gắt nghiên cứu tiếng Ainu của Kindaichi và các học giả Nhật Bản khác.
Ngoài ra, ông còn vướng vào các tranh cãi liên quan đến Ishikawa Takuboku, người bạn thân của mình. Ông từng phản đối việc xuất bản Nhật ký chữ La-tinh của Takuboku vì lo ngại những nội dung nhạy cảm có thể ảnh hưởng đến gia đình ông. Mặc dù sau đó ông đã hòa giải với Iwaki Yoshinori trong cuộc tranh luận về "sự chuyển đổi tư tưởng" của Takuboku, nhưng quan điểm của Iwaki đã trở thành thông lệ.
6.3. Ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng
Ảnh hưởng của Kyōsuke Kindaichi còn vượt ra ngoài giới học thuật và chạm đến văn hóa đại chúng. Tên ông đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhân vật thám tử nổi tiếng Kindaichi Kōsuke trong các tiểu thuyết trinh thám của Yokomizo Seishi. Khi Yokomizo Seishi đang viết Vụ án mạng Honjin, ông ban đầu định đặt tên cho thám tử mới là "Kikutaiichi", nhưng sau đó đổi thành "Kindaichi" sau khi biết đến Kindaichi Yasuzo, một người hàng xóm của ông ở Kichijōji (Tokyo) là em trai của nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Kyōsuke. Từ đó, ông mượn tên "Kyōsuke" và biến nó thành "Kōsuke". Kindaichi Haruhiko, con trai của Kyōsuke Kindaichi, từng nói rằng ông "sẵn sàng bỏ ra hàng ngàn vàng" để cảm ơn Yokomizo vì đã làm cho họ "Kindaichi" trở nên nổi tiếng. Trước khi có Kindaichi Kōsuke, họ "Kindaichi" là một họ khá hiếm. Haruhiko Kindaichi thường xuyên bị đọc nhầm họ thành "Kinda" và bị cấp trên trong quân đội la mắng vô lý vì không thể đọc được tên mình. Nhờ ảnh hưởng của các tác phẩm của Yokomizo, họ "Kindaichi" đã trở nên phổ biến và ai cũng có thể đọc được, giúp ông thoát khỏi những rắc rối liên quan đến tên họ.
7. Giải thưởng và vinh danh
Kyōsuke Kindaichi đã nhận được nhiều giải thưởng và vinh danh trong suốt cuộc đời, công nhận những đóng góp to lớn của ông cho học thuật và văn hóa Nhật Bản.
- Giải thưởng Thiên Hoàng (Viện Hàn lâm Nhật Bản) (1932): Cho tác phẩm Nghiên cứu Sử thi Ainu Yukar.
- Tiến sĩ Văn học (1935): Với luận án "Ngữ pháp Yukar, đặc biệt là về động từ của nó".
- Huân chương hạng Tư (1942).
- Huân chương Văn hóa (1954).
- Công dân Danh dự của Morioka (1959): Ông là người đầu tiên nhận danh hiệu này từ thành phố Morioka.
- Huân chương Thụy Bảo hạng Nhất, Grand Cordon (1971, truy tặng).
- Tòng Tam Vị (1971, truy tặng).
- Thư tưởng niệm từ Thiên hoàng (Saisairyo) sau khi ông qua đời.
