1. Thời thơ ấu và sự nghiệp nghiệp dư
Jameer Nelson đã thể hiện tài năng bóng rổ từ rất sớm, đặt nền móng cho sự nghiệp chuyên nghiệp sau này thông qua những thành công ở cấp trung học và đại học.
1.1. Sự nghiệp trung học
Nelson theo học Trung học Chester ở Chester, Pennsylvania và là một vận động viên xuất sắc trong đội bóng rổ. Năm 2000, anh đã góp phần dẫn dắt đội bóng của mình giành chức vô địch bang PIAA AAAA, đánh dấu một thành tích đáng kể trong sự nghiệp học sinh của mình.
1.2. Sự nghiệp đại học
Nelson bắt đầu thi đấu tại Đại học Saint Joseph vào mùa giải 2000-01. Anh đã có một mùa giải tân binh đột phá, được vinh danh là Tân binh Quốc gia của Năm một cách nhất trí. Trong mùa giải năm ba (2002-03), anh đạt trung bình 19,7 điểm, 5,1 rebounds và 4,7 kiến tạo mỗi trận. Anh đã nộp đơn cho 2003 NBA draft nhưng sau đó quyết định ở lại thêm một mùa giải cuối cùng.
Nelson đã dẫn dắt đội Saint Joseph's Hawks đạt kỷ lục 27-0 trong mùa giải thường niên 2003-04. Trận thua đầu tiên của Hawks đến từ giải đấu Atlantic 10 trước Xavier. Nelson và hậu vệ năm ba Delonte West đã tạo thành bộ đôi hậu vệ được coi là xuất sắc nhất cả nước, giúp Hawks giành vị trí hạt giống số 1 trong Giải đấu NCAA. Họ đã tiến vào vòng Elite Eight và chỉ còn vài giây nữa là lọt vào vòng Final Four trước khi John Lucas III của Oklahoma State Cowboys ghi một cú ba điểm khi chỉ còn vài giây cuối cùng. Saint Joseph's kết thúc mùa giải với kỷ lục 30-2, thành tích tốt nhất trong lịch sử của trường đại học. Nelson đạt trung bình 20,6 điểm, 5,3 kiến tạo và 2,9 cướp bóng mỗi trận.
Trong năm cuối cùng, Nelson đã nhận được Lowe's Senior CLASS Award, vinh danh anh là cầu thủ bóng rổ nam xuất sắc nhất quốc gia. Anh rời Hawks với tư cách là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử của chương trình, là người dẫn đầu mọi thời đại về điểm số (2.094 điểm), kiến tạo (714) và cướp bóng (256). Số áo của Nelson đã được trường đại học treo vĩnh viễn vào ngày 23 tháng 4 năm 2004. Nhờ những thành tựu phi thường trong năm cuối, Nelson đã giành được Giải thưởng Wooden năm 2004, Giải thưởng Naismith năm 2004, Giải thưởng Bob Cousy năm 2004, Cúp Rupp, Cúp Oscar Robertson và nhiều giải thưởng khác, bao gồm việc xuất hiện trên trang bìa của tạp chí Sports Illustrated. Nelson là vận động viên Atlantic 10 đầu tiên xuất hiện trên trang bìa tạp chí này kể từ Mark Macon vào năm 1988.
2. Sự nghiệp chuyên nghiệp
Sự nghiệp chuyên nghiệp của Jameer Nelson tại NBA kéo dài nhiều năm, đánh dấu qua các đội bóng khác nhau và nhiều khoảnh khắc đáng nhớ.
2.1. Orlando Magic (2004-2014)
Nelson được chọn ở lượt thứ 20 trong 2004 NBA draft bởi Denver Nuggets, và sau đó được chuyển nhượng sang Orlando Magic để đổi lấy lượt chọn vòng một năm 2005. Mặc dù nhiều người dự đoán anh sẽ là một lựa chọn trong top 10, nhưng anh đã rơi xuống vị trí thứ 20, và Magic đã có thể sở hữu cả Nelson và Dwight Howard trong cùng một kỳ draft.

Trong mùa giải tân binh, Nelson là người dự bị chính cho hậu vệ dẫn bóng All-Star của Magic là Steve Francis. Do lối chơi ấn tượng của Nelson, Magic đã chuyển Francis sang vị trí hậu vệ ghi điểm để nhường chỗ cho Nelson ở vị trí hậu vệ dẫn bóng. Anh được chọn vào NBA All-Rookie Second Team, và được xem xét cho danh hiệu Tân binh của Năm. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2006, Magic đã chuyển nhượng Francis sang New York Knicks, mở đường cho Nelson trở thành hậu vệ dẫn bóng chính lâu dài của Orlando. Lối chơi của Nelson đã cải thiện sau thương vụ chuyển nhượng Francis giữa mùa giải, kết thúc mùa giải với trung bình 14,6 điểm và 5 kiến tạo mỗi trận với tỷ lệ ném rổ đạt 48,3%.
Năm sau đó (mùa giải 2006-07), Nelson đã giúp Magic trở lại vòng playoffs lần đầu tiên kể từ năm 2003. Anh đạt trung bình 14,3 điểm, 3 rebounds và 3,3 kiến tạo mỗi trận trong vòng playoffs NBA, tuy nhiên Magic cuối cùng đã bị Detroit Pistons quét sạch ở vòng đầu tiên.
Trong cuộc thi úp rổ 2008 All-Star weekend Slam Dunk Contest năm 2008, Nelson đã hỗ trợ đồng đội Dwight Howard thực hiện một số cú úp rổ, bao gồm cú úp rổ Superman nổi tiếng. Năm đó, Magic một lần nữa lọt vào vòng playoffs, đánh bại Toronto Raptors ở vòng đầu tiên trước khi thua Pistons ở vòng hai. Anh đạt trung bình 16,2 điểm, 4,7 kiến tạo và 4,1 rebounds mỗi trận trong suốt vòng playoffs, giúp Orlando giành chiến thắng loạt trận playoffs đầu tiên sau 12 năm.

Nelson đã đạt các kỷ lục cá nhân về điểm số, cướp bóng và tỷ lệ ném rổ trong mùa giải 2008-09. Anh, cùng với các đồng đội Dwight Howard và Rashard Lewis, đã được chọn tham gia 2009 NBA All-Star Game. Tuy nhiên, một chấn thương rách sụn viền ở vai phải của Nelson, một chấn thương có khả năng kết thúc mùa giải, đã buộc anh phải bỏ lỡ trận đấu All-Star. Vào thời điểm đó, Nelson đạt trung bình 16,7 điểm và 5,4 kiến tạo mỗi trận. Sau bốn tháng hồi phục, Nelson trở lại thi đấu trong Chung kết NBA với quyết định gây tranh cãi của Stan Van Gundy khi cho phép anh thi đấu với thời lượng lớn, hạn chế thời gian của Rafer Alston, điều này đã khiến đội thua cuộc khi Magic bị Los Angeles Lakers đánh bại với tỷ số 1-4.
Vào ngày 16 tháng 11 năm 2009, Nelson bị rách sụn chêm ở đầu gối trái và đã phải phẫu thuật nội soi để sửa chữa đầu gối. Anh trở lại thi đấu vào ngày 21 tháng 12. Nelson và Magic một lần nữa vươn lên mạnh mẽ vào vòng playoffs với chức vô địch Southeast Division thứ ba liên tiếp, quét sạch Charlotte Bobcats và Atlanta Hawks trước khi thua Boston Celtics trong sáu trận ở Chung kết Miền Đông. Anh đạt trung bình 19 điểm và 4,8 kiến tạo mỗi trận trong 14 trận playoffs của Orlando. Trong trận thứ ba gặp Bobcats tại vòng playoffs 2010, Nelson đã ghi tới 32 điểm.

Vào ngày 18 tháng 3 năm 2011, Nelson đã thực hiện một cú ném thắng trận ngay khi đồng hồ báo hết giờ trước Denver Nuggets, giúp Orlando giành chiến thắng 85-82. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2011, cú ném ba điểm cuối cùng của Nelson đã bị trọng tài từ chối, và Magic đã thua Chicago Bulls với tỷ số 102-99.
Nelson và Dwight Howard, những người bạn thân từ mùa giải tân binh của họ, đã ở hai phía đối lập trong một vụ trao đổi đưa Rashard Lewis đến Washington Wizards để đổi lấy Gilbert Arenas (Nelson coi Lewis là một trong những thủ lĩnh của đội trong khi Howard được cho là đã thúc đẩy ban quản lý thực hiện vụ trao đổi này). Mối quan hệ của họ càng căng thẳng hơn khi Howard công khai bày tỏ mong muốn được chơi với một hậu vệ dẫn bóng siêu sao như Deron Williams hoặc Chris Paul, và được cho là nguyên nhân chính đằng sau việc sa thải huấn luyện viên Stan Van Gundy. Howard cuối cùng đã buộc phải chuyển nhượng sang Los Angeles Lakers vào mùa hè năm 2012. Mặc dù vậy, Nelson đã tái ký hợp đồng ba năm với Magic.
Vào ngày 23 tháng 2 năm 2014, Nelson ghi điểm thứ 8020 trong sự nghiệp, vượt qua Shaquille O'Neal để đứng thứ tư trong danh sách ghi điểm mọi thời đại của Magic. Vào ngày 30 tháng 6 năm 2014, anh bị Magic chấm dứt hợp đồng sau 10 mùa giải với đội.
2.2. Dallas Mavericks (2014)
Vào ngày 24 tháng 7 năm 2014, Nelson ký hợp đồng hai năm trị giá 5.60 M USD với Dallas Mavericks. Anh đã ra sân trong 23 trận cho Mavericks và đạt trung bình 7,3 điểm và 4,1 kiến tạo mỗi trận.
2.3. Boston Celtics (2014-2015)
Vào ngày 18 tháng 12 năm 2014, Nelson được chuyển nhượng, cùng với Jae Crowder, Brandan Wright, một lượt chọn vòng một năm 2015, một lượt chọn vòng hai năm 2016 và một ngoại lệ thương mại trị giá 12.90 M USD, sang Boston Celtics để đổi lấy Rajon Rondo và Dwight Powell. Trong sáu trận đấu cho Boston, Nelson đạt trung bình 4,8 điểm và 5,5 kiến tạo mỗi trận. Trong trận đấu thứ hai của anh với Boston, Nelson đã trở lại Orlando lần đầu tiên kể từ khi rời đi để đến Dallas với tư cách cầu thủ tự do.
2.4. Denver Nuggets (2015-2017)
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2015, Nelson được chuyển nhượng sang Denver Nuggets để đổi lấy Nate Robinson. Vào ngày 26 tháng 6 năm 2015, Nelson đã từ bỏ năm cuối cùng trong hợp đồng của mình với Nuggets để trở thành cầu thủ tự do. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2015, Nelson tái ký hợp đồng với Nuggets. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2017, Nelson bị Nuggets miễn nhiệm.
2.5. New Orleans Pelicans (2017-2018)
Vào ngày 22 tháng 10 năm 2017, Nelson ký hợp đồng với New Orleans Pelicans.
2.6. Detroit Pistons (2018)
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2018, Nelson được chuyển nhượng, cùng với Ömer Aşık, Tony Allen và một lượt chọn vòng một được bảo vệ, sang Chicago Bulls để đổi lấy Nikola Mirotić và một lượt chọn vòng hai năm 2018. Ngoài ra, Chicago sẽ có quyền trao đổi lượt chọn vòng hai năm 2021 của mình với lượt chọn vòng hai năm 2021 của New Orleans. Bảy ngày sau, anh được chuyển nhượng sang Detroit Pistons để đổi lấy Willie Reed và các cân nhắc về lượt chọn vòng hai trong tương lai.
Trận đấu NBA cuối cùng của Nelson diễn ra vào ngày 13 tháng 3 năm 2018, trong trận thua 79-110 trước Utah Jazz. Trong trận đấu cuối cùng của mình, Nelson đã thi đấu 26 phút và ghi được 4 kiến tạo, 1 rebound, 1 cướp bóng nhưng không ghi được điểm nào.
3. Phong cách chơi bóng
Jameer Nelson được biết đến là một hậu vệ dẫn bóng (PG) với khả năng tổ chức trận đấu xuất sắc. Anh có kỹ năng ném rổ tốt, với tỷ lệ ném 3 điểm thành công từng đạt hơn 40% trong một số mùa giải. Nelson là một cầu thủ có tinh thần chiến đấu cao, thường xuyên thực hiện những cú ném quyết định hoặc những cú ném thắng trận ngay khi đồng hồ báo hết giờ. Mặc dù có chiều cao tương đối khiêm tốn đối với một cầu thủ NBA, anh sở hữu thăng bằng cơ thể trên mức trung bình, cho phép anh cắt vào khu vực rổ mà không dễ bị các hậu vệ đối phương đánh bại. Một đặc điểm dễ nhận biết của anh là thói quen tháo và ngậm bịt răng.
4. Sự nghiệp điều hành
Vào ngày 11 tháng 11 năm 2020, Delaware Blue Coats của NBA G League đã bổ nhiệm Nelson làm Trợ lý Tổng giám đốc. Đây là bước chuyển mình của anh sang vai trò quản lý sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ.
5. Giải thưởng và thành tích
- Giải thưởng & Thành tích trung học:**
- Vô địch bang PIAA AAAA: 2000
- Giải thưởng & Thành tích đại học:**
- Tân binh Quốc gia của Năm (Unanimous National Freshman of the Year)
- Lowe's Senior CLASS Award: 2004
- Wooden Award: 2004
- Naismith Award: 2004
- Bob Cousy Award: 2004
- Rupp Trophy: 2004
- Oscar Robertson Trophy: 2004
- Người dẫn đầu mọi thời đại của Đại học Saint Joseph's về điểm số (2.094 điểm), kiến tạo (714) và cướp bóng (256).
- Số áo (số 11) được Đại học Saint Joseph's treo vĩnh viễn: 23 tháng 4 năm 2004
- Giải thưởng & Thành tích chuyên nghiệp:**
- NBA All-Rookie Second Team: 2005
- NBA All-Star: 2009
- Vào đến Chung kết NBA: 2009
6. Đời tư
Ngoài sự nghiệp bóng rổ, Jameer Nelson còn có một số khía cạnh đáng chú ý trong đời tư, bao gồm cuộc sống gia đình và những đặc điểm cá nhân.
6.1. Gia đình và xuất thân
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2007, cha của Nelson, Floyd "Pete" Nelson, được báo cáo mất tích sau khi biến mất tại cửa hàng sửa chữa tugboat của ông ở Chester, nằm dọc theo bến cảng Sông Delaware tại Front Street và Highland Avenue. Giới chức cho biết không ai nhìn thấy cha anh rơi xuống nước. Nelson đã đến hiện trường tìm kiếm vào sáng hôm sau. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2007, thi thể của Floyd Nelson được tìm thấy trôi nổi trên sông Delaware. Cái chết của ông được kết luận là do tai nạn.
Vào ngày 5 tháng 7 năm 2008, anh kết hôn với bạn gái lâu năm là Imani Tillery. Anh có một con trai từ mối quan hệ trước đó, Jameer Jr., người đã từng là hậu vệ cho đội TCU.
6.2. Các khía cạnh khác
Nelson có một hình xăm ở lưng ghi chữ All Eyes On Me (Mọi ánh mắt đổ dồn vào tôi), và một hình xăm khác ghi chữ Accomplish Everything Without Fear (Hoàn thành mọi thứ không sợ hãi).
7. Thống kê sự nghiệp
Các bảng dưới đây tổng hợp thống kê sự nghiệp của Jameer Nelson trong các mùa giải chính thức và vòng Playoffs của NBA.
7.1. Mùa giải chính thức
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2004 | Orlando Magic | 79 | 21 | 20.4 | .455 | .312 | .682 | 2.4 | 3.0 | 1.0 | .0 | 8.7 |
2005 | Orlando Magic | 62 | 33 | 28.8 | .483 | .424 | .779 | 2.9 | 4.9 | 1.1 | .1 | 14.6 |
2006 | Orlando Magic | 77 | 77 | 30.3 | .430 | .335 | .828 | 3.1 | 4.3 | .9 | .1 | 13.0 |
2007 | Orlando Magic | 69 | 62 | 28.4 | .469 | .416 | .828 | 3.5 | 5.6 | .9 | .1 | 10.9 |
2008 | Orlando Magic | 42 | 42 | 31.2 | .503 | .453 | .887 | 3.5 | 5.4 | 1.2 | .1 | 16.7 |
2009 | Orlando Magic | 65 | 64 | 28.6 | .449 | .381 | .845 | 3.0 | 5.4 | .7 | .0 | 12.6 |
2010 | Orlando Magic | 76 | 76 | 30.5 | .446 | .401 | .802 | 3.0 | 6.0 | 1.0 | .0 | 13.1 |
2011 | Orlando Magic | 57 | 57 | 29.9 | .427 | .377 | .807 | 3.2 | 5.7 | .7 | .1 | 11.9 |
2012 | Orlando Magic | 56 | 56 | 35.3 | .392 | .341 | .873 | 3.7 | 7.4 | 1.3 | .1 | 14.7 |
2013 | Orlando Magic | 68 | 68 | 32.0 | .394 | .348 | .857 | 3.4 | 7.0 | .8 | .1 | 12.1 |
2014 | Dallas Mavericks | 23 | 23 | 25.4 | .374 | .369 | .875 | 2.7 | 4.1 | .7 | .1 | 7.3 |
2014 | Boston Celtics | 6 | 1 | 20.2 | .220 | .200 | .667 | 2.8 | 5.5 | 1.2 | .0 | 4.8 |
2014 | Denver Nuggets | 34 | 5 | 20.6 | .450 | .354 | .579 | 1.9 | 3.7 | .7 | .1 | 9.6 |
2015 | Denver Nuggets | 39 | 15 | 26.6 | .368 | .299 | .857 | 2.9 | 4.9 | .6 | .1 | 7.7 |
2016 | Denver Nuggets | 75 | 40 | 27.3 | .444 | .388 | .714 | 2.6 | 5.1 | .7 | .1 | 9.2 |
2017 | New Orleans Pelicans | 43 | 0 | 20.9 | .410 | .364 | .765 | 2.2 | 3.6 | .5 | .1 | 5.1 |
2017 | Detroit Pistons | 7 | 0 | 16.6 | .282 | .071 | 1.000 | 1.1 | 3.3 | .6 | .1 | 3.7 |
Sự nghiệp | 878 | 641 | 27.9 | .436 | .368 | .810 | 3.0 | 5.1 | .9 | .1 | 11.3 |
7.2. Vòng Playoffs
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2007 | Orlando Magic | 4 | 4 | 32.3 | .420 | .357 | .909 | 3.0 | 3.3 | .8 | .0 | 14.3 |
2008 | Orlando Magic | 10 | 10 | 33.3 | .504 | .488 | .757 | 4.1 | 4.7 | .3 | .2 | 16.2 |
2009 | Orlando Magic | 5 | 0 | 18.0 | .348 | .167 | .500 | 1.4 | 2.8 | .2 | .0 | 3.8 |
2010 | Orlando Magic | 14 | 14 | 34.2 | .479 | .393 | .823 | 3.6 | 4.8 | 1.0 | .0 | 19.0 |
2011 | Orlando Magic | 6 | 6 | 36.0 | .378 | .231 | .786 | 4.2 | 5.0 | 2.0 | .0 | 13.2 |
2012 | Orlando Magic | 5 | 5 | 36.4 | .392 | .320 | .750 | 3.8 | 6.6 | .8 | .2 | 15.6 |
Sự nghiệp | 44 | 39 | 32.5 | .445 | .372 | .792 | 3.5 | 4.6 | .8 | .1 | 15.0 |