1. Early life and college career
Parsons đã có một sự nghiệp bóng rổ trung học và đại học đầy thành công, đặt nền móng vững chắc cho hành trình chuyên nghiệp sau này.
1.1. High school and University of Florida
Parsons sinh ra tại Casselberry, Florida. Anh theo học Trường trung học Lake Howell ở Winter Park, Florida, nơi anh là đồng đội với Nick Calathes, người sau này cũng trở thành đồng môn tại Đại học Florida. Cùng với Calathes, Parsons đã giúp đội bóng rổ trung học Lake Howell Silverhawks lọt vào vòng chung kết giải vô địch bang Florida Class 5A vào các năm 2005, 2006 và 2007, đỉnh cao là giành chức vô địch bang vào năm 2007. Trong năm cuối cấp trung học, Parsons được vinh danh là thành viên đội hình tiêu biểu toàn bang và được công nhận là cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết bang sau khi ghi 30 điểm và 10 rebound.
Parsons sau đó nhận học bổng thể thao để theo học tại Đại học Florida ở Gainesville, Florida, nơi anh chơi cho đội bóng rổ Florida Gators dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Billy Donovan từ năm 2007 đến 2011. Parsons từng chia sẻ rằng việc thi đấu bốn năm dưới sự chỉ đạo của Donovan đã mang lại cho anh lợi thế lớn so với các cầu thủ khác rời đội sớm.
Trong mùa giải đầu tiên (2007-08), Parsons thi đấu 36 trận, đạt trung bình 8.1 điểm và 4.0 rebound mỗi trận, nhưng Gators không thể tham dự giải NCAA Tournament. Mùa giải 2008-09, Parsons có nhiều thời gian thi đấu hơn và các chỉ số về điểm, rebound và kiến tạo đều được cải thiện. Tuy nhiên, Gators một lần nữa không thể tham dự NCAA Tournament.
Vào mùa giải junior (2009-10), Parsons đạt trung bình 12.4 điểm, 6.9 rebound và 2.6 kiến tạo mỗi trận. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2010, Parsons đã thực hiện cú ném 23 m (75 ft) không còn thời gian trên đồng hồ trong hiệp phụ, mang về chiến thắng một điểm cho Gators trước North Carolina State. Gators được mời tham dự NCAA Tournament 2010, nhưng đã thua BYU ở vòng đầu tiên.
Trong mùa giải 2010-11, Parsons đạt trung bình 11.3 điểm và 7.8 rebound trong 34.1 phút mỗi trận, giúp Gators giành thành tích tốt nhất mùa giải chính thức tại SEC. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2011, khi Gators bị South Carolina dẫn trước một điểm, Parsons đã thực hiện cú ném ba điểm quyết định mang lại chiến thắng cho Gators. Ngày 8 tháng 3 năm 2011, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của SEC 2011, trở thành cầu thủ đầu tiên của Đại học Florida giành được vinh dự này. Gators cũng lọt vào NCAA Tournament năm thứ hai liên tiếp. Trong ba vòng đấu đầu tiên của giải đấu, Gators đã đánh bại UC Santa Barbara, UCLA và BYU. Tại vòng Elite Eight, Gators đã thua Butler. Parsons được Fox Sports chọn vào đội hình All-America thứ năm. Anh tốt nghiệp Đại học Florida với bằng cử nhân ngành viễn thông.
2. Professional career
Sự nghiệp chuyên nghiệp của Chandler Parsons bắt đầu từ NBA Draft và trải qua nhiều đội bóng khác nhau, nhưng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các chấn thương.
2.1. Cholet and NBA Draft
Chandler Parsons được Houston Rockets chọn ở lượt thứ 38 tổng thể trong Dự thảo NBA 2011. Trong thời gian NBA lockout 2011, anh đã thi đấu ba trận cho đội bóng Pháp Cholet Basket.
2.2. Houston Rockets

Parsons ký hợp đồng với Rockets vào ngày 18 tháng 12 năm 2011. Trong trận đấu cuối mùa giải của Rockets vào ngày 22 tháng 4 năm 2012, Parsons đã ghi kỷ lục mùa giải với 23 điểm vào lưới Miami Heat. Trong mùa giải này, anh được vinh danh vào NBA All-Rookie Second Team.
Vào ngày 12 tháng 11 năm 2012, Parsons đã ghi kỷ lục cá nhân với 25 điểm trong trận đấu với Heat. Vào ngày 23 tháng 11, anh tiếp tục lập kỷ lục cá nhân mới với 31 điểm trong trận đấu với New York Knicks. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2013, Parsons đã ghi kỷ lục cá nhân với 32 điểm với hiệu suất ném 12 trên 13 cú trong chiến thắng 136-103 trước Dallas Mavericks.
Ngày 24 tháng 1 năm 2014, Parsons đã ghi kỷ lục cá nhân với 34 điểm và thực hiện 10 cú ném 3 điểm-tất cả đều trong hiệp hai-trong trận thua 88-87 trước Memphis Grizzlies. Anh đã lập kỷ lục NBA về số cú ném 3 điểm trong một hiệp và kỷ lục của đội về số cú ném 3 điểm trong một trận đấu.
2.3. Dallas Mavericks

Sau mùa giải 2013-14, Parsons trở thành cầu thủ tự do bị hạn chế. Vào ngày 10 tháng 7 năm 2014, anh nhận được đề nghị hợp đồng ba năm trị giá 46.00 M USD từ Dallas Mavericks. Rockets đã từ chối cân bằng đề nghị, và Parsons chính thức ký hợp đồng với Mavericks vào ngày 15 tháng 7.
Ngày 17 tháng 12 năm 2014, Parsons ghi kỷ lục mùa giải với 32 điểm trong trận đấu với Detroit Pistons. Vào ngày 8 tháng 3 năm 2015, Parsons trở lại thi đấu trong trận gặp Los Angeles Lakers sau bảy trận vắng mặt vì bong gân mắt cá chân trái. Parsons đã bỏ lỡ sáu trận cuối cùng của mùa giải chính thức do chấn thương đầu gối phải. Anh thi đấu trong trận đầu tiên của loạt playoff vòng một của Mavericks chống lại Rockets, sau đó phải nghỉ phần còn lại của loạt đấu vì cùng một chấn thương đầu gối. Anh đã phẫu thuật đầu gối vào ngày 1 tháng 5.
Parsons trở lại thi đấu trong trận thứ ba của mùa giải 2015-16, sau đó phải tuân thủ nghiêm ngặt các hạn chế về thời gian thi đấu trong sáu tuần đầu tiên của mùa giải. Vào ngày 24 tháng 1 năm 2016, anh ghi kỷ lục mùa giải với 31 điểm trong trận thua 115-104 trước Rockets. Ngày 25 tháng 3, anh đã trải qua ca phẫu thuật thành công để khắc phục rách sụn chêm ở đầu gối phải, buộc anh phải nghỉ thi đấu phần còn lại của mùa giải.
2.4. Memphis Grizzlies

Vào ngày 7 tháng 7 năm 2016, Parsons ký hợp đồng bốn năm, trị giá 94.00 M USD với Memphis Grizzlies. Khi bước vào giai đoạn tập luyện, Parsons phải tuân thủ chế độ luyện tập nhẹ nhàng sau ca phẫu thuật đầu gối. Anh đã không thi đấu trong các trận tiền mùa giải hay sáu trận đầu tiên của mùa giải chính thức. Vào ngày 6 tháng 11, anh có trận ra mắt cho Grizzlies trong trận đấu với Portland Trail Blazers, nhưng trong 22 phút ra sân với tư cách cầu thủ xuất phát, anh đã trượt cả tám cú ném trường. Anh chỉ xuất hiện trong sáu trận cho Grizzlies trước khi bỏ lỡ 17 trận tiếp theo vì chấn thương xương đầu gối trái, và trở lại đội hình vào ngày 21 tháng 12 trong trận đấu với Detroit Pistons. Vào ngày 13 tháng 3 năm 2017, anh bị loại khỏi đội hình vô thời hạn sau khi được chẩn đoán bị rách một phần sụn chêm ở đầu gối trái. Anh sau đó đã bỏ lỡ phần còn lại của mùa giải với chấn thương đầu gối thứ ba trong ba năm.
Vào ngày 28 tháng 10 năm 2017, Parsons ghi 24 điểm với hiệu suất 9 trên 11 cú ném trường và 6 trên 8 cú ném 3 điểm trong chiến thắng 103-89 trước Houston Rockets. 24 điểm của Parsons là thành tích tốt nhất của anh trong 39 trận đấu với Memphis. Chandler đã có một thời gian dài phải ngồi ngoài từ cuối tháng 12 đến giữa tháng 2 do đau đầu gối phải. Mặc dù chỉ xuất hiện trong 36 trận đấu trong mùa giải 2017-18, Parsons đã có tỷ lệ ném 3 điểm tốt nhất sự nghiệp là 42%.
Parsons đã giành được vị trí xuất phát cho mùa giải 2018-19 ngay từ giai đoạn tập luyện, nhưng chỉ thi đấu trong ba trận đầu tiên trước khi phải ngồi ngoài vì đau đầu gối phải. Đến cuối tháng 12, Parsons vẫn phải ngồi ngoài theo lệnh của tổ chức mặc dù đã được các bác sĩ cho phép trở lại vào ngày 21 tháng 12. Grizzlies muốn Parsons dành thời gian chơi ở NBA G League với đội liên kết của họ, Memphis Hustle, trước khi quyết định đưa Parsons trở lại đội hình chính thức của Grizzlies. Parsons đã sẵn sàng chơi ở G League nhưng muốn có một kế hoạch rõ ràng và một thời gian biểu cụ thể để trở lại đội hình chính thức của Grizzlies. Do đó, vào ngày 6 tháng 1, anh đã rời đội vô thời hạn khi hai bên tìm cách giải quyết tương lai của mình. Vào ngày 9 tháng 2, thông báo rằng Parsons sẽ trở lại Grizzlies sau kỳ nghỉ All-Star. Vào ngày 22 tháng 2, sau khi không thi đấu kể từ trận thứ ba của mùa giải, Parsons đã trở lại đội hình, thi đấu gần 20 phút và ghi 3 điểm với hiệu suất 1 trên 7 cú ném trường trong trận thua 112-106 trước Los Angeles Clippers.
2.5. Atlanta Hawks and Retirement
Vào ngày 6 tháng 7 năm 2019, Parsons được trao đổi đến Atlanta Hawks để đổi lấy Solomon Hill và Miles Plumlee. Parsons đã thi đấu năm trận cho Hawks trước khi bị một tài xế say rượu đâm xe vào ngày 15 tháng 1 năm 2020. Ngày 20 tháng 1, luật sư của Parsons thông báo rằng những chấn thương liên quan đến tai nạn có thể chấm dứt sự nghiệp của anh. Vào ngày 5 tháng 2, Parsons bị Hawks miễn hợp đồng.
Vào ngày 18 tháng 1 năm 2022, Parsons thông báo giải nghệ khỏi NBA. Anh đã thi đấu tổng cộng 440 trận tại NBA và đạt trung bình 12.7 điểm, 4.5 rebound và 2.7 kiến tạo mỗi trận.
3. Career statistics
Dưới đây là các bảng thống kê chi tiết về sự nghiệp của Chandler Parsons tại NBA và Đại học.
GP | Số trận đã chơi | GS | Số trận ra sân chính thức | MPG | Số phút mỗi trận |
FG% | Tỷ lệ ném trường | 3P% | Tỷ lệ ném 3 điểm | FT% | Tỷ lệ ném phạt |
RPG | Rebound mỗi trận | APG | Kiến tạo mỗi trận | SPG | Cướp bóng mỗi trận |
BPG | Chặn bóng mỗi trận | PPG | Điểm mỗi trận | In đậm | Thành tích cao nhất sự nghiệp |
3.1. NBA regular season
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2011-12 | Houston Rockets | 63 | 57 | 28.6 | .452 | .337 | .551 | 4.7 | 2.1 | 1.2 | .5 | 9.5 |
2012-13 | Houston Rockets | 76 | 76 | 36.3 | .486 | .385 | .729 | 5.3 | 3.5 | 1.0 | .4 | 15.5 |
2013-14 | Houston Rockets | 74 | 74 | 37.6 | .472 | .370 | .742 | 5.5 | 4.0 | 1.2 | .4 | 16.6 |
2014-15 | Dallas Mavericks | 66 | 66 | 33.1 | .462 | .380 | .720 | 4.9 | 2.4 | 1.0 | .3 | 15.7 |
2015-16 | Dallas Mavericks | 61 | 51 | 29.5 | .492 | .416 | .684 | 4.7 | 2.8 | .8 | .3 | 13.7 |
2016-17 | Memphis Grizzlies | 34 | 34 | 19.9 | .338 | .269 | .814 | 2.5 | 1.6 | .6 | .1 | 6.2 |
2017-18 | Memphis Grizzlies | 36 | 8 | 19.2 | .462 | .421 | .630 | 2.5 | 1.9 | .5 | .3 | 7.9 |
2018-19 | Memphis Grizzlies | 25 | 3 | 19.8 | .374 | .309 | .880 | 2.8 | 1.7 | .8 | .2 | 7.5 |
2019-20 | Atlanta Hawks | 5 | 0 | 10.8 | .278 | .286 | - | 1.4 | .6 | .8 | .2 | 2.8 |
Sự nghiệp | 440 | 369 | 30.1 | .462 | .373 | .713 | 4.5 | 2.7 | .9 | .3 | 12.7 |
3.2. NBA playoffs
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2013 | Houston Rockets | 6 | 6 | 39.7 | .452 | .400 | .643 | 6.5 | 3.7 | .2 | .3 | 18.2 |
2014 | Houston Rockets | 6 | 6 | 41.7 | .438 | .361 | .733 | 6.8 | 2.3 | .7 | .3 | 19.3 |
2015 | Dallas Mavericks | 1 | 1 | 37.0 | .333 | .000 | - | 6.0 | 2.0 | .0 | .0 | 10.0 |
Sự nghiệp | 13 | 13 | 40.4 | .437 | .363 | .690 | 6.6 | 2.9 | .4 | .3 | 18.1 |
3.3. College
Năm | Đội | GP | GS | MPG | FG% | 3P% | FT% | RPG | APG | SPG | BPG | PPG |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2007-08 | Florida | 36 | 0 | 20.7 | .472 | .324 | .627 | 4.0 | 1.4 | .5 | .2 | 8.1 |
2008-09 | Florida | 36 | 28 | 26.0 | .460 | .301 | .557 | 5.7 | 1.8 | 1.1 | .4 | 9.2 |
2009-10 | Florida | 34 | 18 | 31.0 | .493 | .358 | .662 | 6.9 | 2.6 | 1.1 | .1 | 12.4 |
2010-11 | Florida | 36 | 35 | 34.1 | .480 | .368 | .557 | 7.8 | 3.8 | .9 | .4 | 11.3 |
Sự nghiệp | 142 | 81 | 27.9 | .477 | .337 | .611 | 6.0 | 2.4 | .9 | .3 | 10.2 |
4. Other activities and endorsements
Ngoài sự nghiệp thi đấu bóng rổ, Chandler Parsons còn tham gia vào nhiều hoạt động khác như người mẫu và ký kết các hợp đồng tài trợ với các thương hiệu lớn.
Vào tháng 12 năm 2013, Parsons đã xuất hiện trong các quảng cáo in ấn và video cho dòng sản phẩm Buffalo David BittonEnglish của Iconix Brand Group cùng với người mẫu Ashley Sky cho bộ sưu tập Xuân 2014. Năm 2014, Parsons ký hợp đồng tài trợ với công ty giày Trung Quốc Anta. Thỏa thuận năm năm này được cho là có giá trị 1.00 M USD mỗi năm. Parsons cũng đã ký các hợp đồng tài trợ với công ty viễn thông Trung Quốc ZTE và nhà sản xuất trang phục có trụ sở tại California Stance.
5. Personal life and drunk driving accident
Chandler Parsons đã trải qua nhiều biến cố trong cuộc sống cá nhân, đặc biệt là vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng đã định đoạt sự nghiệp của anh.
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Parsons gặp tai nạn xe hơi khi phương tiện của anh bị một tài xế say rượu đâm. Những chấn thương mà Parsons phải chịu bao gồm chấn thương sọ não, thoát vị đĩa đệm và rách sụn viền. Luật sư của Parsons sau đó đã thông báo vào ngày 20 tháng 1 rằng những chấn thương liên quan đến tai nạn có thể chấm dứt sự nghiệp của anh. Vụ tai nạn này đã để lại hậu quả nặng nề, buộc anh phải từ bỏ bóng rổ chuyên nghiệp và đối mặt với quá trình hồi phục kéo dài. Parsons sau đó đã nhận được một khoản bồi thường đáng kể từ vụ kiện phát sinh từ tai nạn.
Vào tháng 11 năm 2020, Parsons thông báo anh đã đính hôn với Haylee Harrison. Vào tháng 11 năm 2021, Parsons và Harrison đã có con với nhau. Cũng trong tháng 11 năm 2021, Parsons cho biết anh vẫn đang hồi phục sau những chấn thương gặp phải trong vụ tai nạn xe hơi tháng 1 năm 2020.
6. Evaluation and impact
Sự nghiệp của Chandler Parsons, dù ngắn ngủi do chấn thương và biến cố, vẫn để lại những dấu ấn nhất định với khả năng ném ba điểm và vai trò linh hoạt trên sân. Anh là một cầu thủ có tầm ảnh hưởng lớn trong những năm tháng đỉnh cao tại Houston Rockets và Dallas Mavericks, được biết đến với khả năng ghi điểm và kiến tạo tốt.
Tuy nhiên, vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng do tài xế say rượu gây ra vào năm 2020 đã chấm dứt đột ngột sự nghiệp của anh, đồng thời là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ về tác hại của lái xe khi say rượu. Câu chuyện của Parsons nhấn mạnh tầm quan trọng của an toàn giao thông và sự cần thiết phải lên án mạnh mẽ hành vi lái xe khi say rượu, bảo vệ những người vô tội. Việc anh phải giải nghệ do hậu quả của hành động vô trách nhiệm từ người khác là một bi kịch cá nhân và một mất mát lớn cho thế giới bóng rổ, đồng thời là một ví dụ đau lòng về cách mà những hành vi thiếu ý thức có thể hủy hoại cuộc đời và sự nghiệp của người khác. Thông qua trải nghiệm của mình, Parsons đã góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề nhức nhối này trong xã hội.