1. Sự nghiệp cầu thủ
Zoran Mirković đã có một sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp kéo dài gần hai thập kỷ, nổi bật với tinh thần chiến đấu và sự tận tụy. Ông chủ yếu thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải hoặc tiền vệ phòng ngự.
1.1. Sự nghiệp cấp câu lạc bộ
Mirković bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình tại FK Radnički Svilajnac vào mùa giải 1989-1990, ra sân 15 trận.
Sau đó, ông chuyển đến FK Rad và có trận ra mắt đầu tiên cho câu lạc bộ này vào mùa giải Giải bóng đá hạng nhất Nam Tư 1990-91. Ngay trước đó, ông cùng các đồng đội đã giành chức vô địch Nam Tư ở cấp độ U21, đây là thành công lớn nhất mà FK Rad từng đạt được. Mirković đã trải qua ba mùa giải tại Rad với tư cách là một cầu thủ chuyên nghiệp, tổng cộng ra sân 62 trận và ghi được một bàn thắng.
Tài năng của ông đã không bị các quan chức của FK Partizan bỏ qua, và họ đã mời ông ký hợp đồng với câu lạc bộ. Mirković gia nhập Partizan để thay thế cầu thủ bị chấn thương Blažo Pešikan. Trong ba năm đầu tiên ở Partizan, Mirković đã khẳng định mình là một cầu thủ chủ chốt, trở thành lựa chọn hàng đầu trong đội tuyển quốc gia và giành được ba danh hiệu: cú đúp quốc nội vào mùa giải 1993-94, tiếp theo là chức vô địch giải vô địch quốc gia vào mùa giải 1994-95. Ông thường mặc áo số 2 và trở thành cầu thủ được người hâm mộ Partizan yêu thích vì tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, đặc biệt là trong các trận derby với Sao Đỏ Beograd. Ông cũng được yêu mến vì trong những thời điểm khó khăn (Chiến tranh Nam Tư và các lệnh trừng phạt), ông vẫn giữ vững cam kết với Partizan và ở lại đủ ba năm theo hợp đồng. Ông đã chơi 82 trận cho Partizan (26 trận trong mùa giải 1993-94, 29 trận trong mùa giải 1994-95 và 27 trận trong mùa giải 1995-96), ghi được một bàn thắng.
Mirković đã trải qua hai mùa giải với Atalanta. Ông bị chấn thương ngay trong trận đấu đầu tiên ở Serie A và phải nghỉ thi đấu ba tháng. Ông thi đấu ở vai trò tiền vệ kiêm hậu vệ, và màn trình diễn của ông tốt đến mức huấn luyện viên của Juventus khi đó là Marcello Lippi đã mời ông ký hợp đồng với Juventus. Ông rất được lòng người hâm mộ Atalanta, những người đã đóng vai trò quan trọng trong việc thuyết phục câu lạc bộ không bán ông cho Fiorentina khi lựa chọn đó dường như là không thể tránh khỏi.
Sự nghiệp của Mirković tại Juventus có thể chia thành hai giai đoạn khác nhau. Dưới thời huấn luyện viên Lippi, Bata đã chơi 19 trận ở Serie A, ghi được một bàn thắng. Ông cũng tham gia các trận đấu tại UEFA Champions League. Khi Carlo Ancelotti tiếp quản vào mùa xuân năm 1999, Mirković không còn là cầu thủ được ưu tiên hàng đầu của Juventus, chủ yếu ra sân trong các trận đấu Cúp Quốc gia Ý.
Vào mùa hè năm 2000, Mirković ký hợp đồng ba năm với Fenerbahçe. Trong mùa giải đầu tiên tại Istanbul, ông đã giành chức vô địch Giải Vô địch Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ và là á quân Cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ. Trong mùa giải thứ hai tại Thổ Nhĩ Kỳ, ông tham dự Champions League và giành vị trí thứ hai tại Giải Vô địch Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Mùa giải thứ ba của ông tại Fenerbahçe không thành công như mong đợi. Ba lần thay đổi huấn luyện viên và các vấn đề nội bộ câu lạc bộ đã khiến Fenerbahçe kết thúc mùa giải ở vị trí thứ sáu.
Sau đó, vào tháng 1 năm 2004, sau 6 tháng nghỉ thi đấu, Mirković trở lại khoác áo Partizan một lần nữa, ký hợp đồng hai năm rưỡi. Vào ngày 6 tháng 3 năm 2006, Mirković tuyên bố giải nghệ ở tuổi 34 do chấn thương lưng tái phát.
1.2. Sự nghiệp quốc tế
Mirković là cầu thủ chủ chốt của đội tuyển quốc gia Cộng hòa Liên bang Nam Tư/Serbia và Montenegro, nơi ông thường thi đấu ở vị trí hậu vệ phải và mặc áo số 2. Ông đã chơi 59 trận cho đội tuyển quốc gia cấp cao.
Ông là thành viên của đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 tại Pháp, nhưng đã bỏ lỡ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000 vì bị cấm thi đấu ba trận sau một sự cố trong trận đấu vòng loại cuối cùng với Croatia tại Zagreb, nơi ông đã nắm vào bộ phận sinh dục của Robert Jarni và bị truất quyền thi đấu. Trận đấu quốc tế cuối cùng của ông là trận đấu vòng loại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004 vào tháng 6 năm 2003, gặp Azerbaijan trên sân khách.
2. Sự nghiệp sau khi giải nghệ
Sau khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ, Zoran Mirković tiếp tục đóng góp cho bóng đá trong các vai trò hành chính và huấn luyện.
2.1. Sự nghiệp hành chính
Vào ngày 24 tháng 4 năm 2007, Liên đoàn bóng đá Serbia (FSS) đã bổ nhiệm Mirković làm giám đốc thể thao của đội tuyển quốc gia, chịu trách nhiệm cho cả đội hình A và đội hình U21. Tuy nhiên, ông đã từ chức vào đầu tháng 12 năm 2007, với lý do hợp tác chuyên môn kém với ban lãnh đạo FSS, đứng đầu lúc đó là Zvezdan Terzić. Chủ tịch FSS Terzić (người sau đó bị buộc tội biển thủ) đã bình luận về việc Mirković từ chức như sau: "Mirković là sai lầm của tôi vì tôi không hiểu rõ anh ấy với tư cách một con người trước khi đưa anh ấy vào FSS. Anh ấy là một người tuyệt vời, nhưng không thể hòa nhập vào hệ thống và thậm chí đã nói điều đó nhiều lần với cả tôi và tổng thư ký Zoran Laković."
Mirković được chọn làm phó chủ tịch của FK Partizan vào ngày 18 tháng 8 năm 2008. Ông giữ chức vụ phó chủ tịch khoảng một năm trước khi từ chức sau khi Partizan bị loại sớm ở vòng loại UEFA Champions League 2009-10.
2.2. Sự nghiệp huấn luyện
Mirković bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình với vai trò trợ lý huấn luyện viên của Sinđelić Belgrade vào năm 2015, cuối cùng được thăng chức lên huấn luyện viên trưởng vào tháng 7 năm 2015. Ông giữ vị trí đó cho đến tháng 12 năm 2015.
Vào tháng 2 năm 2016, ông trở thành trợ lý huấn luyện viên của đội tuyển bóng đá quốc gia Montenegro, nơi ông làm việc trực tiếp với huấn luyện viên cũ của mình là Ljubiša Tumbaković. Ông giữ vị trí đó cho đến ngày 4 tháng 8 năm 2018, khi ông thay thế Miroslav Đukić làm huấn luyện viên trưởng của Partizan. Ông làm huấn luyện viên trưởng của Partizan cho đến khi đột ngột từ chức sau trận thua 0-1 trước FK Voždovac vào ngày 10 tháng 3 năm 2019.
3. Đời tư
Vào tháng 5 năm 2013, Mirković kết hôn với Sanela Šaulić, con gái của ca sĩ Šaban Šaulić. Điều này khiến Mirković trở thành cha dượng của Luka Adžić.
4. Thống kê sự nghiệp
4.1. Câu lạc bộ
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Châu Âu | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||||
Radnički Svilajnac | 1989-90 | 15 | 0 | - | 15 | 0 | |||||
Rad | 1990-91 | 5 | 0 | - | 5 | 0 | |||||
1991-92 | 26 | 0 | - | 26 | 0 | ||||||
1992-93 | 31 | 1 | - | 31 | 1 | ||||||
Tổng cộng | 62 | 1 | - | 62 | 1 | ||||||
Partizan | 1993-94 | 26 | 0 | - | 26 | 0 | |||||
1994-95 | 29 | 0 | - | 29 | 0 | ||||||
1995-96 | 27 | 1 | - | 27 | 1 | ||||||
Tổng cộng | 82 | 1 | - | 82 | 1 | ||||||
Atalanta | 1996-97 | 22 | 0 | - | 22 | 0 | |||||
1997-98 | 30 | 0 | - | 33 | 0 | ||||||
Tổng cộng | 52 | 0 | - | 52 | 0 | ||||||
Juventus | 1998-99 | 19 | 0 | 5 | 0 | 4 | 0 | 28 | 0 | ||
1999-00 | 8 | 0 | 4 | 0 | 10 | 0 | 22 | 0 | |||
Tổng cộng | 27 | 0 | 9 | 0 | 14 | 0 | 50 | 0 | |||
Fenerbahçe | 2000-01 | 29 | 1 | 5 | 0 | 0 | 0 | 34 | 1 | ||
2001-02 | 27 | 2 | 1 | 0 | 5 | 0 | 33 | 2 | |||
2002-03 | 15 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | 19 | 0 | |||
Tổng cộng | 71 | 3 | 6 | 0 | 9 | 0 | 86 | 3 | |||
Partizan | 2003-04 | 10 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 11 | 0 | ||
2004-05 | 23 | 2 | 3 | 0 | 12 | 0 | 38 | 2 | |||
2005-06 | 13 | 0 | 0 | 0 | 6 | 0 | 19 | 0 | |||
Tổng cộng | 46 | 2 | 4 | 0 | 18 | 0 | 68 | 2 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 340 | 7 | 19 | 0 | 41 | 0 | 400 | 7 |
4.2. Quốc tế
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Cộng hòa Liên bang Nam Tư Serbia và Montenegro | 1995 | 6 | 0 |
1996 | 5 | 0 | |
1997 | 13 | 0 | |
1998 | 8 | 0 | |
1999 | 6 | 0 | |
2000 | 3 | 0 | |
2001 | 5 | 0 | |
2002 | 8 | 0 | |
2003 | 5 | 0 | |
Tổng cộng | 59 | 0 |
4.3. Huấn luyện
Đội | Từ | Đến | Thành tích | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Thắng | Hòa | Thua | Tỷ lệ thắng (%) | |||
Sinđelić Beograd | Tháng 7 năm 2015 | Tháng 12 năm 2015 | 6|5|5|37.50 | ||||
Partizan | 4 tháng 8 năm 2018 | 10 tháng 3 năm 2019 | 17|10|3|56.67 | ||||
Tổng cộng | 23|15|8|50.00 |
5. Danh hiệu
; Partizan
- Giải bóng đá hạng nhất Cộng hòa Liên bang Nam Tư: 1993-94, 1995-96, 2004-05
- Cúp bóng đá Cộng hòa Liên bang Nam Tư: 1993-94
; Juventus
- Cúp Intertoto UEFA: 1999
; Fenerbahçe
- Süper Lig: 2000-01