1. Thời thơ ấu và sự nghiệp cầu thủ trẻ
Liam Matthew Ridgewell sinh ngày 21 tháng 7 năm 1984 tại Bexleyheath, thuộc Khu Bexley của Luân Đôn, Anh. Ông từng theo học tại Trường Bexleyheath. Ridgewell bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại học viện của West Ham United vào năm 1999. Sau đó, vào tháng 2 năm 2001, ông chuyển đến Aston Villa và là một phần của đội trẻ đã giành chức vô địch FA Youth Cup năm 2002 sau khi đánh bại Everton trong trận chung kết.
2. Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp câu lạc bộ của Liam Ridgewell kéo dài gần hai thập kỷ, đưa ông từ các câu lạc bộ hàng đầu ở Premier League đến Major League Soccer của Mỹ, trước khi trở lại Anh thi đấu những năm cuối sự nghiệp.
2.1. Aston Villa
Vào tháng 10 năm 2002, ngay sau khi ghi bàn cho đội tuyển U-19 Anh trong trận hòa 2-2 với Nam Tư, Ridgewell được cho mượn đến AFC Bournemouth đang thi đấu tại Third Division. Ông có trận ra mắt Football League vào ngày 13 tháng 10 năm 2002 trong chiến thắng 2-1 trước Hartlepool United và đã chơi năm trận trong hợp đồng cho mượn một tháng.
Trận ra mắt đội một của Aston Villa của Ridgewell diễn ra vào ngày 4 tháng 1 năm 2003, trong trận thua 1-4 trước Blackburn Rovers ở vòng ba Cúp FA. Ông vào sân thay người ở phút thứ 69 cho Rob Edwards. Lần đầu tiên ông xuất hiện tại Premier League là vào ngày 28 tháng 12 năm 2003, vào sân từ phút 62 thay cho Mark Delaney trong chiến thắng 3-0 trước Fulham tại Villa Park; ông đã có 11 lần ra sân trong mùa giải 2003-04.
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2005, Ridgewell ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên của mình, đánh đầu từ đường chuyền của Nolberto Solano ở phút thứ chín để mở tỉ số trong chiến thắng 3-0 trước Norwich City. Vào ngày 10 tháng 4 cùng năm, trong trận hòa 1-1 với đối thủ kình địch West Bromwich Albion, ông và cầu thủ đối phương Jonathan Greening đều bị truất quyền thi đấu vì húc đầu vào nhau. Trong chiến dịch Premier League tiếp theo, Ridgewell ghi được năm bàn thắng trong 32 trận đấu, bao gồm hai bàn trong trận hòa 3-3 trên sân khách với Fulham vào ngày 28 tháng 12 năm 2005. Ông ghi bàn thắng duy nhất của mình trong mùa giải 2006-07 vào lưới câu lạc bộ cũ West Ham United vào ngày 10 tháng 9 năm 2006.
2.2. Birmingham City
Ridgewell hoàn tất việc chuyển đến Birmingham City với mức phí 2.00 M GBP vào ngày 3 tháng 8 năm 2007. Đáng chú ý, ông là cầu thủ đầu tiên chuyển nhượng trực tiếp giữa hai đối thủ kình địch này kể từ trường hợp của Des Bremner vào năm 1984.

Trong bối cảnh đội trưởng thường xuyên Damien Johnson vắng mặt do chấn thương, Ridgewell được trao băng đội trưởng, một vinh dự mà ông mô tả là "thật sự là một niềm tự hào". Mặc dù ban đầu có những lo ngại về phản ứng của người hâm mộ đối với một cầu thủ chuyển đến từ Aston Villa, màn trình diễn của Ridgewell đã giúp ông giành được sự ủng hộ. Ông ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 3-2 trước Wigan Athletic tại St Andrew's vào tháng 10, nhưng sau đó lại phản lưới nhà trong trận Derby Birmingham hai tuần sau đó, cũng tại St Andrew's.
Vào tháng 4 năm 2009, Ridgewell bị gãy chân sau một pha tranh chấp với tiền vệ Plymouth Argyle Jamie Mackie. Tuy nhiên, ông đã trở lại sân cỏ một cách nhanh chóng bất ngờ chỉ năm tháng sau đó, thi đấu ở vị trí hậu vệ trái ít quen thuộc hơn. Ông tiếp tục ở vị trí này do phong độ tốt của các trung vệ Roger Johnson và Scott Dann, và đã chơi trong chuỗi 12 trận bất bại kỷ lục của câu lạc bộ tại giải đấu hàng đầu và thiết lập kỷ lục Premier League khi giữ nguyên đội hình xuất phát trong chín trận liên tiếp. Ông ghi bàn gỡ hòa ở phút 91 vào lưới Tottenham Hotspur vào ngày 30 tháng 1 năm 2010, giúp Birmingham duy trì thành tích bất bại trên sân nhà kể từ tháng 9 năm trước.
Ridgewell tiếp tục phong độ ghi bàn của mình với bàn thắng ấn định chiến thắng ở phút bù giờ vào lưới Derby County để đưa Birmingham vào tứ kết Cúp FA. Ông có một bàn thắng bị từ chối trong trận tứ kết gặp Portsmouth mặc dù bóng đã "rõ ràng qua vạch vôi", và ghi bàn thắng gỡ hòa vào lưới Liverpool tại giải đấu.
Vào tháng 6 năm 2010, Ridgewell ký hợp đồng mới với Birmingham, có thời hạn đến tháng 6 năm 2013. Ông đã chơi trọn 90 phút khi Birmingham đánh bại đội được yêu thích Arsenal 2-1 trong trận chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá Anh 2011, qua đó giành quyền tham dự Europa League. Do một số tiền vệ bị chấn thương, Ridgewell đã chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự không quen thuộc trong trận lượt đi vòng play-off Europa League (tổng cộng 4 lần ra sân) gặp câu lạc bộ Bồ Đào Nha Nacional, đánh dấu lần đầu tiên Birmingham tham dự giải đấu châu Âu lớn sau gần 50 năm. Khi thời hạn chuyển nhượng tháng 8 năm 2011 đến gần, Ridgewell đã nộp đơn xin chuyển nhượng nhưng bị câu lạc bộ từ chối, và mặc dù có sự quan tâm muộn từ các câu lạc bộ Premier League bao gồm Newcastle United, ông vẫn ở lại Birmingham.
2.3. West Bromwich Albion
Ridgewell ký hợp đồng hai năm rưỡi với câu lạc bộ Premier League West Bromwich Albion vào ngày 31 tháng 1 năm 2012. Phí chuyển nhượng không được tiết lộ. Vào ngày 12 tháng 2, ông có trận ra mắt trong chiến thắng 5-1 trên sân khách trước Wolverhampton Wanderers. Ông có trận ra mắt sân nhà một tuần sau đó khi West Brom đánh bại Sunderland 4-0 tại The Hawthorns. Ông ghi bàn thắng đầu tiên cho West Brom vào ngày 7 tháng 4 trong chiến thắng 3-0 trên sân nhà trước Blackburn Rovers.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2014, West Bromwich Albion thông báo rằng họ sẽ không gia hạn hợp đồng với Ridgewell và ông đã được giải phóng khỏi câu lạc bộ.
2.4. Portland Timbers

Ridgewell được ký hợp đồng dưới dạng Cầu thủ được chỉ định cho Portland Timbers thuộc Major League Soccer vào ngày 25 tháng 6 năm 2014. Ông ra mắt MLS vào ngày 18 tháng 7, trong trận đấu thứ 62 liên tiếp bán hết vé tại Providence Park, và là một chiến thắng ngược dòng 2-1 trước đội khách Colorado Rapids. Ridgewell được chọn vào đội MLS All-Star cho Trận đấu MLS All-Star 2014 gặp Bayern München để thay thế cho Kyle Beckerman bị chấn thương. Ông ghi bàn thắng đầu tiên cho Timbers, bàn gỡ hòa vào lưới New England Revolution vào ngày 16 tháng 8 năm 2014, sau một pha solo chạy 45 yd. Ông cũng đã có 1 lần ra sân tại CONCACAF Champions League trong mùa giải này.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2015, Ridgewell ký hợp đồng cho mượn sáu tuần với Wigan Athletic. Ông đã có sáu lần ra sân cho Latics, đội bóng sau đó đã xuống hạng từ Championship vào cuối mùa giải 2014-15.
Ridgewell bị truất quyền thi đấu vào ngày 25 tháng 6 năm 2015 trong trận thua 0-5 trên sân khách trước LA Galaxy, vì pha đá vào Alan Gordon. Timbers đủ điều kiện tham dự Vòng play-off MLS Cup 2015 (tổng cộng 5 lần ra sân); trong trận lượt đi bán kết Western Conference, ông đã mở tỉ số trong chiến thắng 3-1 trước nhà vô địch mùa giải thường FC Dallas vào ngày 22 tháng 11, khi đội cuối cùng lọt vào MLS Cup 2015. Trong trận đấu quyết định vào ngày 6 tháng 12 trên sân khách gặp Columbus Crew tại Sân vận động Mapfre, ông đã đeo băng đội trưởng và giúp Timbers giành chiến thắng 2-1.
Vào tháng 12 năm 2015, Ridgewell đồng ý một hợp đồng cho mượn ngắn hạn với đội Championship Brighton & Hove Albion, bắt đầu khi kỳ chuyển nhượng mở cửa vào ngày 2 tháng 1 năm 2016 và kết thúc kịp thời cho nửa sau mùa giải tiền mùa giải của Timbers. Ông kết thúc thời gian cho mượn với bốn chiến thắng trong năm lần ra sân ở giải đấu.
Ridgewell bị đuổi khỏi sân vào ngày 30 tháng 9 năm 2018 vào cuối trận hòa không bàn thắng trên sân nhà với FC Dallas vì lỗi với Roland Lamah. Timbers đã lọt vào Vòng play-off MLS Cup 2018; trong trận bán kết Western Conference, họ đã đánh bại đối thủ Seattle Sounders FC trên chấm phạt đền. Timbers thua MLS Cup 2018 0-2 trước Atlanta United FC trong trận đấu cuối cùng của Ridgewell. Vào ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ridgewell và Portland đã đạt được thỏa thuận chia tay.
2.5. Trở lại Anh và giải nghệ
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2019, Ridgewell gia nhập Hull City cho phần còn lại của mùa giải 2018-19. Ông có trận ra mắt vào ngày 9 tháng 2 trong trận thua 0-2 trên sân khách trước Derby County, vào sân thay người ở phút 75 cho Stephen Kingsley. Ông bị Hull City giải phóng hợp đồng vào cuối mùa giải 2018-19.
Vào ngày 9 tháng 8 năm 2019, Ridgewell ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ League One Southend United, với tùy chọn gia hạn năm thứ hai. Ông ra mắt vào ngày hôm sau trong trận mở màn mùa giải, trận thua 1-3 trên sân nhà trước Blackpool, đá chính ở vị trí hậu vệ trái trong hệ thống ba hậu vệ và bị thay ra bởi Layton Ndukwu sau 52 phút. Huấn luyện viên Kevin Bond cho biết quyết định của ông có thể là "không công bằng" khi để Ridgewell đá chính sau khi anh không chơi bất kỳ trận giao hữu nào trong mùa hè. Ông rời Southend vào ngày 31 tháng 1 năm 2020 mà không có thêm lần ra sân nào. Vào ngày 22 tháng 5 năm 2020, Ridgewell gia nhập đội bóng nghiệp dư Sutton Rangers ở Sutton and District Sunday League, đánh dấu sự giải nghệ thực tế khỏi bóng đá chuyên nghiệp.
3. Sự nghiệp quốc tế
Liam Ridgewell đã đại diện cho Anh ở cấp độ trẻ. Ông có trận ra mắt cho đội tuyển U-19 Anh vào tháng 10 năm 2002, trong trận đấu với Nam Tư và đã ghi bàn trong trận hòa 2-2 đó. Tổng cộng, ông có một lần ra sân và ghi một bàn thắng cho đội U-19.
Ngoài ra, ông cũng đã có 8 lần khoác áo đội tuyển U-21 Anh trong giai đoạn 2004-2005.
4. Sự nghiệp huấn luyện
Sau khi giải nghệ, Liam Ridgewell bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình. Vào tháng 12 năm 2020, ông nhận công việc huấn luyện đầu tiên khi gia nhập câu lạc bộ National League Dover Athletic với vai trò trợ lý huấn luyện viên đội một, hỗ trợ quản lý Andy Hessenthaler.
Vào năm 2023, Ridgewell gia nhập ban huấn luyện của Portland Timbers, câu lạc bộ cũ của ông ở MLS. Ông hiện đang sở hữu chứng chỉ huấn luyện UEFA B Coaching License.
5. Đời tư
Liam Ridgewell sinh ra và lớn lên ở Anh. Ông có một số hoạt động kinh doanh cá nhân bên cạnh sự nghiệp bóng đá.
5.1. Tranh cãi và các hoạt động khác
Vào tháng 10 năm 2016, Ridgewell và đồng đội tại Portland Timbers là Jake Gleeson đã bị bắt và bị buộc tội lái xe trong tình trạng say rượu và từ chối kiểm tra nồng độ cồn ở Lake Oswego, Oregon. Vụ án chống lại Ridgewell đã bị bác bỏ vào tháng 1 năm 2017 khi một thẩm phán phán quyết rằng cảnh sát không có đủ lý do để dừng và kiểm tra ông, trong khi Gleeson đã không tranh cãi các cáo buộc của mình.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2012, một bức ảnh của Ridgewell chụp lại cảnh ông dùng tờ 20 bảng Anh để lau mông đã được đăng tải trên báo The Sun. Bức ảnh này được cho là một trò đùa giữa bạn bè nhưng đã bị rò rỉ ra công chúng, gây ra làn sóng chỉ trích mạnh mẽ từ người hâm mộ và công chúng, đặc biệt khi ông đang nhận mức lương 20.00 K GBP mỗi tuần. Ngay sau đó, Ridgewell đã lên tiếng xin lỗi công khai về hành động này.
Bên cạnh sự nghiệp bóng đá, Ridgewell còn là đồng sở hữu công ty đồ bơi tùy chỉnh Thomas Royall cùng với các đồng nghiệp cầu thủ khác là Sam Saunders và John Terry.
6. Danh hiệu
Liam Ridgewell đã đạt được nhiều danh hiệu cá nhân và tập thể trong sự nghiệp của mình:
Aston Villa
- FA Youth Cup: 2001-02
Birmingham City
- Cúp Liên đoàn bóng đá Anh: 2010-11
Portland Timbers
- MLS Cup: 2015
- Western Conference (play-off): 2015
Cá nhân
- MLS All-Star: 2014
7. Thống kê sự nghiệp
Cập nhật đến ngày 15 tháng 5 năm 2021.
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp Quốc gia | Cúp Liên đoàn | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Aston Villa | 2002-03 | Premier League | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 |
2003-04 | Premier League | 11 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | - | 13 | 0 | ||
2004-05 | Premier League | 15 | 1 | 1 | 0 | 1 | 0 | - | 17 | 1 | ||
2005-06 | Premier League | 32 | 5 | 2 | 0 | 3 | 0 | - | 37 | 5 | ||
2006-07 | Premier League | 21 | 1 | 1 | 0 | 3 | 0 | - | 25 | 1 | ||
Tổng cộng | 79 | 7 | 5 | 0 | 9 | 0 | 0 | 0 | 93 | 7 | ||
AFC Bournemouth (cho mượn) | 2002-03 | Third Division | 5 | 0 | - | - | - | 5 | 0 | |||
Birmingham City | 2007-08 | Premier League | 35 | 1 | 1 | 0 | 1 | 0 | - | 37 | 1 | |
2008-09 | Championship | 36 | 1 | 1 | 0 | 2 | 0 | - | 39 | 1 | ||
2009-10 | Premier League | 31 | 3 | 5 | 1 | 1 | 0 | - | 37 | 4 | ||
2010-11 | Premier League | 36 | 4 | 2 | 0 | 5 | 1 | - | 43 | 5 | ||
2011-12 | Championship | 14 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | 19 | 0 | |
Tổng cộng | 152 | 9 | 10 | 1 | 9 | 1 | 4 | 0 | 175 | 11 | ||
West Bromwich Albion | 2011-12 | Premier League | 13 | 1 | - | - | - | 13 | 1 | |||
2012-13 | Premier League | 30 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | - | 32 | 0 | ||
2013-14 | Premier League | 33 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | 33 | 1 | ||
Tổng cộng | 76 | 2 | 1 | 0 | 1 | 0 | - | 78 | 2 | |||
Portland Timbers | 2014 | Major League Soccer | 15 | 2 | 0 | 0 | - | 1 | 0 | 16 | 2 | |
2015 | Major League Soccer | 32 | 0 | 1 | 0 | - | 5 | 1 | 38 | 1 | ||
Tổng cộng | 47 | 2 | 1 | 0 | - | 6 | 1 | 54 | 3 | |||
Wigan Athletic (cho mượn) | 2014-15 | Championship | 6 | 0 | - | - | - | 6 | 0 | |||
Brighton & Hove Albion (cho mượn) | 2015-16 | Championship | 5 | 0 | 1 | 0 | - | - | 6 | 0 | ||
Hull City | 2018-19 | Championship | 7 | 0 | 0 | 0 | - | - | 7 | 0 | ||
Southend United | 2019-20 | League One | 1 | 0 | 0 | 0 | - | - | 1 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 378 | 20 | 18 | 1 | 19 | 1 | 10 | 1 | 425 | 23 |