1. Sự nghiệp cầu thủ
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp của Jason Puncheon bắt đầu từ các câu lạc bộ ở London và tiếp tục phát triển qua nhiều cấp độ giải đấu tại Anh, trước khi ông chuyển đến Síp vào những năm cuối sự nghiệp.
1.1. Giai đoạn đầu
Sinh ra tại Croydon, Đại Luân Đôn, Puncheon bắt đầu sự nghiệp của mình tại Câu lạc bộ Wimbledon. Sau đó, ông chuyển cùng đội bóng đến Milton Keynes, nơi câu lạc bộ trở thành Milton Keynes Dons vào năm 2004. Ông được giải phóng hợp đồng vào tháng 1 năm 2006. Sau một thời gian ngắn chơi cho Fisher Athletic và Lewes, ông gia nhập Barnet vào tháng 6 cùng năm. Tại Barnet, Puncheon được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất Vòng 3 Cúp FA năm 2007. Mùa giải tiếp theo, sau khi ghi một loạt bàn thắng xuất sắc (bao gồm một quả đá phạt từ khoảng 35 yd ở phút cuối cùng vào lưới Bradford), ông được điền tên vào Đội hình tiêu biểu PFA.
1.2. Plymouth Argyle
Plymouth Argyle đã ký hợp đồng với Puncheon từ Barnet với giá 250.00 K GBP vào năm 2008. Ông trải qua 18 tháng không thành công tại câu lạc bộ này, chỉ có sáu lần ra sân ở giải vô địch. Ông đã được cho câu lạc bộ cũ MK Dons mượn ba lần trong hai năm, nơi ông ghi được 12 bàn thắng trong 61 lần ra sân.
1.3. Southampton và các hợp đồng cho mượn
Vào ngày 30 tháng 1 năm 2010, Puncheon gia nhập Southampton, khiến hợp đồng cho mượn của ông tại MK Dons phải kết thúc sớm. Ông ghi bàn thắng đầu tiên trong chiến thắng 5-1 trước Walsall, và vài ngày sau lại ghi bàn trong chiến thắng 5-0 trước Huddersfield. Ông không thể đóng góp vào chiến thắng Cúp Liên đoàn Bóng đá 2009-10 của Southampton do đã bị "cúp-tied" (không đủ điều kiện tham gia giải đấu đó với đội bóng mới).
Vào đầu mùa giải 2010-11, ông thường xuyên có mặt trong đội hình chính. Tuy nhiên, khi Alan Pardew bị sa thải chỉ vài ngày sau chiến thắng 4-0 trước Bristol Rovers, Southampton đã bổ nhiệm Nigel Adkins làm huấn luyện viên. Dưới thời Adkins, Puncheon vẫn ở trong đội hình chính, nhưng ông phải chịu áp lực ngày càng tăng từ Alex Oxlade-Chamberlain cho vị trí của mình. Cuối cùng, Adkins mất kiên nhẫn với màn trình diễn thất thường của Puncheon và đẩy ông lên băng ghế dự bị để nhường chỗ cho Chamberlain, người sau đó được bán cho Arsenal với giá 15.00 M GBP. Vào ngày 16 tháng 11 năm 2010, Puncheon chuyển đến Millwall theo một thỏa thuận cho mượn khẩn cấp. Ông ghi bàn thắng đầu tiên trong trận đấu ra mắt Millwall trong chiến thắng 1-0 trước Middlesbrough. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2011, Puncheon lập một cú hat-trick trong chiến thắng 3-0 trước Crystal Palace.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2011, Puncheon gia nhập Blackpool theo hợp đồng cho mượn đến cuối mùa giải. Ông ra mắt và ghi bàn thắng đầu tiên vào lưới Everton vào ngày 5 tháng 2. Ông ghi bàn thứ hai vào lưới Chelsea vào ngày 7 tháng 3 tại Bloomfield Road. Puncheon trở lại Southampton sau khi Blackpool không thành công trong cuộc chiến trụ hạng. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2011, Puncheon gia nhập Queens Park Rangers (QPR) theo hợp đồng cho mượn cho đến ngày 2 tháng 1 năm 2012.
Ông trở lại Southampton sau thời gian cho mượn không thành công tại QPR, nhưng vào ngày 21 tháng 1 năm 2012, ông đã công khai chỉ trích chủ tịch điều hành Nicola Cortese. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, Puncheon được tiết lộ đã xin lỗi Cortese và sẽ có mặt trong đội hình chính. Ông sau đó đã đá chính trong hai trận đấu tiếp theo: trận hòa 1-1 tại Cúp FA với Millwall và trận hòa 1-1 tại Championship với Cardiff City.
Ông ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2012-13 bằng một cú vô lê từ khoảng 30 yd trong một trận thắng Cúp Liên đoàn trước Stevenage. Ông ghi bàn thắng Ngoại hạng Anh đầu tiên cho Southampton trong chiến thắng 4-1 trên sân nhà trước Aston Villa. Bàn thắng thứ hai đến khi Southampton giành chiến thắng 3-1 trên sân khách trước Queens Park Rangers. Ông ghi bàn thắng Ngoại hạng Anh thứ ba ở phút 61 vào lưới Reading để giúp Southampton giành chiến thắng quan trọng 1-0 và thoát khỏi khu vực xuống hạng. Bàn thắng thứ tư của ông giúp Southampton hòa 2-2 trên sân khách trước nhà vô địch châu Âu khi đó là Chelsea. Vào ngày 9 tháng 2 năm 2013, ông ghi bàn thắng thứ năm trong chiến thắng 3-1 trên sân nhà của Southampton trước nhà vô địch mùa giải 2011-12 là Manchester City.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2013, Puncheon đã ký một hợp đồng mới với Southampton, có thời hạn đến năm 2016.
1.4. Crystal Palace và cho mượn tại Huddersfield
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2013, Puncheon ký hợp đồng cho mượn một năm với Crystal Palace. Ông đã bỏ lỡ một quả phạt đền trong trận thua 2-0 của Palace trên sân khách trước Tottenham Hotspur vào ngày 11 tháng 1 năm 2014, nhưng đã chuộc lỗi bằng cách ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1-0 trước Stoke City vào cuối tuần sau đó. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2014, Puncheon chuyển hẳn đến Crystal Palace với mức phí khoảng 1.75 M GBP. Ba bàn thắng của Puncheon trong tháng 1 và ba bàn nữa trong các trận thắng liên tiếp vào tháng 4 đã giúp Palace thoát khỏi khu vực xuống hạng, khiến huấn luyện viên Tony Pulis phải đưa ra cảnh báo "không được đụng vào" đối với các câu lạc bộ khác muốn ký hợp đồng với ông.
Vào ngày 16 tháng 8 năm 2014, trong trận đấu đầu tiên của Palace ở mùa giải mới trên sân khách trước Arsenal, Puncheon đã thực hiện một quả phạt góc được Brede Hangeland đánh đầu thành bàn thắng đầu tiên của trận đấu. Ông bị truất quyền thi đấu do nhận thẻ vàng thứ hai ở phút 89, sau đó Arsenal đã ghi bàn thắng quyết định. Vào ngày 17 tháng 1 năm 2015, Puncheon ghi bàn thắng thứ ba của mùa giải và bàn thứ hai liên tiếp vào lưới Burnley trong chiến thắng 3-2 trên sân khách. Crystal Palace đã lội ngược dòng từ bị dẫn trước 2 bàn để giành chiến thắng, củng cố hy vọng trụ hạng của họ. Huấn luyện viên của Palace, Alan Pardew, đã ca ngợi màn trình diễn của Puncheon, mô tả ông là "cầu thủ xuất sắc nhất trên sân".
Vào ngày 6 tháng 4 năm 2015, Puncheon ghi bàn thắng quyết định cho Crystal Palace vào lưới Manchester City. Bàn thắng của Puncheon đến từ một quả đá phạt trực tiếp vượt qua thủ môn Joe Hart của Manchester City.

Ông mở tỷ số trong Chung kết Cúp FA 2016 vào lưới Manchester United ở phút 78, nhưng Palace sau đó đã để thua 2-1 sau hiệp phụ.
Vào ngày 18 tháng 7 năm 2017, Puncheon thay thế Scott Dann làm đội trưởng. Vào tháng 1 năm 2018, huấn luyện viên Roy Hodgson thông báo rằng Puncheon sẽ không thể thi đấu thêm trong mùa giải 2017-18 sau chấn thương dây chằng chéo mà ông gặp phải khi thi đấu với Manchester City.
Vào tháng 5 năm 2019, Crystal Palace ra thông báo rằng Puncheon sẽ rời câu lạc bộ vào cuối mùa giải 2018-19 sau khi có 169 lần ra sân và ghi 16 bàn thắng.
Sau đó, vào ngày 4 tháng 1 năm 2019, Puncheon đã ký hợp đồng cho mượn với câu lạc bộ Ngoại hạng Anh là Huddersfield Town cho đến cuối mùa giải.
1.5. Sự nghiệp sau này tại Síp
Vào tháng 8 năm 2019, Puncheon hoàn tất việc chuyển đến bóng đá Síp với câu lạc bộ Giải Vô địch Síp là Pafos. Sau ba mùa giải với câu lạc bộ này, ông chuyển đến Anorthosis Famagusta, nơi ông trải qua một mùa giải trước khi tuyên bố giải nghệ.
Sau một năm làm huấn luyện viên, Puncheon trở lại thi đấu vào mùa giải 2024-25 trong giải đấu khu vực của Síp với Kissos Kissonergas.
2. Sự nghiệp quản lý (huấn luyện viên)
Sau khi giải nghệ với tư cách cầu thủ chuyên nghiệp, Jason Puncheon bắt đầu sự nghiệp huấn luyện của mình tại các câu lạc bộ ở Síp.
2.1. Peyia 2014
Puncheon được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Giải hạng hai Síp là Peyia 2014 trước mùa giải 2023-24. Ông rời vị trí này vào cuối tháng 1 trong mùa giải đầu tiên của mình. Trong thời gian tại vị, ông dẫn dắt đội bóng trong 18 trận đấu, giành 8 chiến thắng, 3 trận hòa và 7 trận thua.
2.2. AEZ Zakakiou
Vào ngày 10 tháng 2 năm 2024, Puncheon được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Giải Vô địch Síp là AEZ Zakakiou. Ông bị sa thải chưa đầy một tháng sau đó vì không thể giành chiến thắng trong bất kỳ trận nào trong bảy trận đầu tiên của mình. Thành tích của ông là 7 trận, 0 thắng, 2 hòa và 5 thua.
2.3. Ayia Napa
Vào ngày 29 tháng 10 năm 2024, Puncheon được bổ nhiệm làm quản lý của Ayia Napa với một hợp đồng đến cuối mùa giải. Vào ngày 19 tháng 11, chỉ sau 21 ngày, hợp đồng của Puncheon được thông báo là đã chấm dứt theo thỏa thuận chung, mặc dù ông đã giành chiến thắng cả hai trận đấu mình phụ trách mà không để thủng lưới bàn nào.
2.4. Akritas Chlorakas
Vào ngày 20 tháng 11 năm 2024, một ngày sau khi rời Ayia Napa, Puncheon được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của Akritas Chlorakas. Tính đến tháng 2 năm 2025, dưới sự dẫn dắt của ông, Akritas Chlorakas đã thi đấu 13 trận, giành 10 chiến thắng, 0 hòa và 3 thua.
3. Đời tư
3.1. Nguồn gốc và xuất thân
Puncheon có nguồn gốc Jamaica và đủ điều kiện để thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica.
3.2. Các vấn đề pháp lý
Vào tháng 12 năm 2017, Puncheon bị bắt và bị buộc tội tàng trữ vũ khí tấn công, hành hung thông thường và tội gây rối trật tự công cộng vì "gây sợ hãi hoặc kích động bạo lực" sau một cuộc ẩu đả bên ngoài một hộp đêm ở Reigate. Vào ngày 5 tháng 1 năm 2018, Puncheon xuất hiện trước tòa và phủ nhận cáo buộc hành hung. Cáo buộc tàng trữ vũ khí tấn công đã bị rút lại và ông được tại ngoại để xuất hiện trở lại tại tòa vào ngày 4 tháng 6. Sau đó, ông đã thay đổi lời khai thành có tội và bị kết án lao động công ích 210 giờ, đồng thời phải bồi thường 250 GBP cho người gác cửa liên quan.
4. Danh hiệu
Southampton
- Giải bóng đá League One Á quân: 2010-11
Crystal Palace
- FA Cup Á quân: 2015-16
Cá nhân
- Đội hình tiêu biểu PFA: League Two 2007-08, League One 2009-10
5. Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Số lần ra sân | Bàn thắng | Số lần ra sân | Bàn thắng | Số lần ra sân | Bàn thắng | Số lần ra sân | Bàn thắng | Số lần ra sân | Bàn thắng | ||
Wimbledon | 2003-04 | First Division | 8 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 0 |
Milton Keynes Dons | 2004-05 | League One | 25 | 1 | 2 | 0 | 2 | 0 | 2 | 0 | 31 | 1 |
2005-06 | League One | 1 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | 3 | 0 | |
Tổng cộng | 26 | 1 | 2 | 0 | 3 | 0 | 3 | 0 | 34 | 1 | ||
Fisher Athletic | 2005-06 | Isthmian League Premier | 1 | 0 | - | - | 0 | 0 | 1 | 0 | ||
Lewes | 2005-06 | Conference South | 1 | 0 | - | - | 0 | 0 | 1 | 0 | ||
Barnet | 2006-07 | League Two | 37 | 5 | 4 | 1 | 2 | 0 | 2 | 0 | 45 | 6 |
2007-08 | League Two | 41 | 10 | 5 | 0 | 1 | 1 | 1 | 0 | 48 | 11 | |
Tổng cộng | 78 | 15 | 9 | 1 | 3 | 1 | 3 | 0 | 93 | 17 | ||
Plymouth Argyle | 2008-09 | Championship | 6 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 7 | 0 |
Milton Keynes Dons (cho mượn) | 2008-09 | League One | 27 | 4 | 0 | 0 | - | 2 | 0 | 29 | 4 | |
2009-10 | League One | 24 | 7 | 3 | 0 | 1 | 0 | 4 | 1 | 32 | 8 | |
Tổng cộng | 51 | 11 | 3 | 0 | 1 | 0 | 6 | 1 | 61 | 12 | ||
Southampton | 2009-10 | League One | 19 | 3 | - | - | - | 19 | 3 | |||
2010-11 | League One | 15 | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | 1 | 0 | 19 | 0 | |
2011-12 | Championship | 8 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | - | 9 | 0 | ||
2012-13 | Premier League | 32 | 6 | 1 | 0 | 1 | 1 | - | 34 | 7 | ||
Tổng cộng | 74 | 9 | 3 | 0 | 3 | 1 | 1 | 0 | 81 | 10 | ||
Millwall (cho mượn) | 2010-11 | Championship | 7 | 5 | - | - | - | 7 | 5 | |||
Blackpool (cho mượn) | 2010-11 | Premier League | 11 | 3 | - | - | - | 11 | 3 | |||
Queens Park Rangers (cho mượn) | 2011-12 | Premier League | 2 | 0 | - | - | - | 2 | 0 | |||
Crystal Palace (cho mượn) | 2013-14 | Premier League | 20 | 3 | 2 | 0 | 0 | 0 | - | 22 | 3 | |
Crystal Palace | 2013-14 | Premier League | 14 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | - | 14 | 4 | |
2014-15 | Premier League | 37 | 6 | 2 | 0 | 0 | 0 | - | 39 | 6 | ||
2015-16 | Premier League | 31 | 2 | 4 | 1 | 0 | 0 | - | 35 | 3 | ||
2016-17 | Premier League | 36 | 0 | 1 | 0 | 2 | 0 | - | 39 | 0 | ||
2017-18 | Premier League | 10 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | - | 12 | 0 | ||
2018-19 | Premier League | 5 | 0 | - | 3 | 0 | - | 8 | 0 | |||
Tổng cộng | 153 | 15 | 9 | 1 | 7 | 0 | 0 | 0 | 169 | 16 | ||
Huddersfield Town (cho mượn) | 2018-19 | Premier League | 6 | 0 | 1 | 0 | - | - | 7 | 0 | ||
Pafos | 2019-20 | Cypriot First Division | 16 | 0 | 0 | 0 | - | - | 16 | 0 | ||
2020-21 | Cypriot First Division | 29 | 4 | 1 | 0 | - | - | 30 | 4 | |||
2021-22 | Cypriot First Division | 23 | 1 | 1 | 0 | - | - | 24 | 1 | |||
Tổng cộng | 68 | 5 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 80 | 5 | ||
Anorthosis | 2022-23 | Cypriot First Division | 16 | 0 | 1 | 0 | - | - | 17 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 508 | 64 | 30 | 2 | 18 | 2 | 13 | 1 | 569 | 69 |
Đội bóng | Từ | Đến | Thành tích | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Số trận | Thắng | Hòa | Thua | Bàn thắng | Bàn thua | Hiệu số | Tỷ lệ thắng % | |||
Peyia 2014 | 1 tháng 7 năm 2023 | 30 tháng 1 năm 2024 | 18 | 8 | 3 | 7 | 25 | 18 | +7 | 44.4 |
AEZ Zakakiou | 10 tháng 2 năm 2024 | 7 tháng 3 năm 2024 | 7 | 0 | 2 | 5 | 4 | 11 | -7 | 0.0 |
Ayia Napa FC | 29 tháng 10 năm 2024 | 19 tháng 11 năm 2024 | 2 | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | +2 | 100.0 |
Akritas Chlorakas | 20 tháng 11 năm 2024 | Hiện tại | 13 | 10 | 0 | 3 | 20 | 9 | +11 | 76.9 |
Tổng cộng | 40 | 20 | 5 | 15 | 51 | 38 | +13 | 50.0 |